Nhân điện thoại là gì

Tương tự: phone

Điện thoại là thiết bị viễn thông dùng để trao đổi thông tin, thông dụng nhất là truyền giọng nói - tức là "thoại" (nói), từ xa giữa hai hay nhiều người. Điện thoại biến tiếng nói thành tín hiệu điện và truyền trong mạng điện thoại phức tạp thông qua kết nối để đến người sử dụng khác.
Hệ thống thực hiện công năng như vậy có hai hợp phần cơ bản:

  1. Thiết bị đầu cuối, thường gọi bằng chính tên "điện thoại", thực hiện biến tiếng nói thành tín hiệu điện để truyền đi, và biến tín hiệu điện nhận được thành âm thanh.
  2. Mạng điện thoại điều khiển kết nối và truyền dẫn, thực hiện nối những người dùng liên quan với nhau và truyền dẫn tín hiệu.

Sự phát triển của kỹ thuật dẫn đến ngày nay mạng điện thoại có nhiều công năng hơn, như truyền fax, internet,... và bên cạnh đôi dây nối truyền thống thì có những cách thức phương tiện truyền dẫn mới.

Những phát triển ban đầu

Từ những chiếc điện thoại thô sơ ban đầu và cách chuyển mạch bằng nhân công, ta có thể nêu cụ thể một cuộc điện đàm như sau:

Một thuê bao A gọi cho một thuê bao B thì tín hiệu (cụ thể là giọng nói) của thuê bao A được chuyển đổi thành tín hiệu điện và chuyển đến tổng đài. Ở đây một nhân viên trực tổng đài có nhiệm vụ gạt cần chuyển mạch sang thuê bao B và cuộc điện đàm được diễn ra. Nhưng nếu thuê bao B đang bận thì cuộc điện thoại đó sẽ bị rớt.

Năm 1854 Pháp mới bắt đầu có điện tín.

Charles Bourseul lúc bấy giờ là nhân viên hành chính về điện tín viết bài trong báo l'Illustration: "Từ ngày 26/08/1854 đây là nguyên tắc cho máy điện thoại".

Năm 1860, một giáo viên người Ðức Philippe Reiss thực hiện một máy có thể truyền những âm thanh về nhạc bằng cách dùng điện.

Ông đã thành công trong việc kinh doanh máy của ông nhưng nó vẫn còn yếu kém và không có khả năng truyền lời nói. Tuy nhiên ông Reiss đã tiến đến rất gần cái có thể gọi là điện thoại. Phát minh của P. Reiss được trình bày tại Mỹ.

Hai người Mỹ, Alexander Graham Bell và Eliza Gray cuối cùng thực hiện được máy điện thoại. Graham Bell làm được nhiều mẫu máy truyền âm thanh và năm 1875 cho ra đời hệ thống điện tín hoàn chỉnh. Elisha Gray làm việc cùng lĩnh vực và ngày 14/02/1876, cả hai cùng trình bằng sáng chế điện thoại của họ.

Lịch sử chỉ giữ lại tên của Bell bởi vì sau cuộc tranh chấp pháp luật, Bell được thắng kiện với bằng phát minh số 174465 ngày 7/03/1876.

Tuy nhiên không một điện thoại nào dùng được. Phải đợi đến tháng 6 năm 1876 người ta mới thấy lần đầu tiên điện thoại hoạt động tại hội chợ triễn lãm ở Philadelphie. Ðiện thoại vào Hoa Kỳ từ năm 1877 sau khi hãng Bell Telephon Company sáng lập.

Cùng năm 1877, Western Union Telegraph yêu cầu Thomas A. Edison làm một điện thoại khác để chống lại Bell Company. Edison bắt đầu từ máy của Reiss và nghiên cứu cho ra một máy phát có điện trở thay đổi nhạy hơn của Bell, và trở thành microphone đầu tiên bằng graphite, ngày 27/04/1877

Vài tuần sau, ngày 9/7/1877, Bell giới thiệu Hand Telephone.

Cuối năm 1877, Frédérick Gower, người Mỹ, cải thiện máy của Bell và hệ thống của ông được lắp đặt tại Paris năm 1879. Ðó là trung tâm điện thoại đầu tiên của nước Pháp.

Cuộc gọi đầu tiên

Cuộc gọi đầu tiên được thực hiện giữa nhà phát minh Alexander Graham Bell và người trợ lý của ông ngồi cách đó 4,5 m vào ngày 10/3/1876 với mẩu hội thoại ngắn ngủi: “Watson, anh đến đây nhé, tôi có việc cần!” là sự kiện lịch sử đánh dấu chính thức sự ra đời của chiếc điện thoại liên lạc.

Người đăng: Time: 2020-07-13 09:45:59

Hàng ngày, chúng ta vẫn bắt gặp những quảng cáo về vi xử lý 4 nhân, 8 nhân… Điều này đã ngấm ngầm tạo nên tư tưởng “càng nhiều nhân, càng xịn, càng tốt". Thực tế có phải vậy?

Nhiều tin đồn cho rằng, Qualcomm đang chuẩn bị sản xuất mẫu chip thế hệ tiếp theo có tên gọi Snapdragon 818 với vi xử lý 10 nhân. Chỉ cách đây vài tuần, hãng MediaTek cũng vừa ra mắt một loại chip với 10 nhân.

10 nhân có phải là quá nhiều? Một chiếc điện thoại cần bộ vi xử lý với bao nhiêu nhân là đủ?

Nhân điện thoại là gì

Đầu tiên, chúng ta cần tìm hiểu về nhân. Nhân là gì?

Nhân là phần xử lý dữ liệu của CPU (bộ xử lý trung tâm). Khi có nhiều nhân cùng chạy song song, bạn có thể đồng thời xử lý nhiều tác vụ với hiệu quả cao hơn. Vì vậy, càng nhiều nhân, thiết bị càng chạy được nhiều tác vụ một lúc. Điều này khiến thiết bị trở nên tốt hơn?

Trên lý thuyết thì đúng là vậy, nhưng về cơ bản, bất cứ một phần mềm nào muốn chạy được đều phải dựa trên phần cứng. Có nghĩa là cả hệ điều hành và ứng dụng chạy trên phần cứng đó đều phải được tối ưu hóa cho một vi xử lý đa nhân. Nếu phần mềm không được phát triển để chạy trên các phần cứng nhiều nhân như vậy, lợi ích của việc có đa nhân gần như là không đáng kể.

Trên thực tế, thậm chí những chiếc máy tính để bàn hiện đại nhất cũng chỉ được trang bị vi xử lý bốn nhân để phù hợp với các phần mềm thiết kế cho máy tính.

Vi xử lý đa nhân

Nhân điện thoại là gì

Samsung Galaxy S6.

LG Optimus 2X là chiếc smartphone đầu tiên trên thế giới được trang bị vi xử lý đa nhân. Thiết bị này ra đời cuối năm 2010 với vi xử lý hai nhân. Từ sau đó trở đi, các smartphone ngày càng được trang bị vi xử lý nhiều nhân hơn và hiện nay, HTC One M9, Samsung Galaxy S6 là hai chiếc điện thoại được trang bị vi xử lý nhiều nhân nhất với 8 nhân. Nhưng các bạn hãy nhớ một điều, kể cả một chiếc smartphone vi xử lý 8 nhân hay 10 nhân cũng không cùng lúc chạy nhiều nhân hơn một chiếc smartphone chỉ có 4 nhân. Những loại chip chứa nhiều nhân như vậy sẽ lần lượt vận hành một số nhân và thay đổi tùy theo tác vụ.

Sở hữu một chiếc điện thoại có 8 hay 10 nhân đồng nghĩa với việc sử dụng pin một cách tiết kiệm hơn và tăng hiệu suất của máy.

Vậy một chiếc CPU 10 nhân hoạt động như thế nào?

Nhân điện thoại là gì

Về mặt ý tưởng, chip 10 nhân MediaTex MT6769 sẽ được chia thành ba phần, phần đầu tiên gồm bốn nhân Cortex-A53, tiếp theo là bốn nhân Cortex-A57 và cuối cùng là hai nhân Cortex-A72.

Bốn nhân Cortex-A53 có tốc độ xung nhịp 1.4GHz để thực hiện các tác vụ đơn giản như điều hướng. Bốn nhân Cortex-A57 với tốc độ xung nhịp 2GHz, được sử dụng cho các tác vụ nặng hơn. Hai nhân Cortex-A72 có tốc độ xung nhịp 2.5GHz để xử lý các tác vụ cực năng như đồ họa 3D hay quay phim 4K HDR.

Dĩ nhiên, các tác vụ nặng vẫn có thể xử lý bằng các cấu hình hai nhân. Vậy bốn nhân có thực sự cần thiết?

Nhiều người có thể trả lời là “không”. Dù tất cả mọi người đều thích những smartphone có khả năng xử lý đa tác vụ, nhưng thật ra chẳng mấy khi chúng ta để smartphone chạy song song đa tác vụ vì những lý do như tốn pin, nóng máy và vì màn hình điện thoại rất nhỏ để thực hiện nhiều tác vụ cùng lúc.

Dĩ nhiên, bạn có thể thực hiện các tác vụ đơn giản khác trên nền một tác vụ chính ví dụ như cập nhật ứng dụng, nhận thông báo và khi chạy đa tác vụ bạn có thể dễ dàng chuyển sang các tác vụ khác chỉ với một thao tác chạm. Kể cả như vậy, một chip hai nhân có tốc độ xử lý nhanh vẫn hoàn toàn đáp ứng được những yêu cầu này.

Apple cũng nghĩ như vậy

Nhân điện thoại là gì

Chẳng phải nhìn đi đâu xa, ngay chiếc smartphone đời mới nhất của Apple là iPhone 6 và 6 Plus cũng chỉ được trang bị vi xử lý hai nhân A8. Dù ít nhân như vậy, nhưng iPhone 6 và 6 Plus luôn nằm trong top dẫn đầu các cuộc kiểm tra benchmark và kể cả trong quá trình thử nghiệm thực tế. Tại sao lại vậy?

Nguyên nhân là bởi vi xử lý hai nhân ít ỏi của Apple vẫn chạy nhanh hơn và hiệu quả hơn so các đối thủ. Thay vì nâng số lượng nhân trong chip, Apple tập trung vào việc tăng hiệu quả băng thông bộ nhớ, giảm độ trễ và tăng tốc GPU (chip xử lý đồ họa). Dĩ nhiên, làm được như vậy cũng phải đơn giản. Có một cách dễ dàng hơn đó là tăng thêm số lượng nhân và đẩy nhanh tốc độ xung nhịp, như những gì Samsung đã làm với chiếc Galaxy S6. Kết quả sử dụng thực tế cho thấy phương án này cũng khá hiệu quả.

Công bằng mà nói, không có giải pháp nào được coi là đúng hay sai trong thiết kế CPU. Nhưng tóm lại bạn nên nhớ một điều: vi xử lý điện thoại không nhất thiết phải có nhiều nhân thì mới chạy nhanh hơn hay hiệu quả hơn.

Điện thoại là thiết bị viễn thông dùng để trao đổi thông tin, thông dụng nhất là truyền giọng nói - tức là "thoại" (nói), từ xa giữa hai hay nhiều người. Điện thoại biến tiếng nói thành tín hiệu điện và truyền trong mạng điện thoại phức tạp thông qua kết nối để đến người sử dụng khác. Hệ thống thực hiện công năng như vậy có hai hợp phần cơ bản:

  1. Thiết bị đầu cuối, thường gọi bằng chính tên "điện thoại", thực hiện biến tiếng nói thành tín hiệu điện để truyền đi, và biến tín hiệu điện nhận được thành âm thanh.
  2. Mạng điện thoại điều khiển kết nối và truyền dẫn, thực hiện nối những người dùng liên quan với nhau và truyền dẫn tín hiệu.

Nhân điện thoại là gì

Điện thoại hãng NT-Canada sản xuất năm 1968

Nhân điện thoại là gì

Hộp điện thoại công cộng vào năm 2015 ở Campeche (Mexico).

Sự phát triển của kỹ thuật dẫn đến ngày nay mạng điện thoại có nhiều công năng hơn, như truyền fax, internet,... và bên cạnh đôi dây nối truyền thống thì có những cách thức phương tiện truyền dẫn mới.

Có 4 cách điện thoại kết nối vào mạng điện thoại sử dụng ngày nay: phương pháp truyền thống điện thoại cố định, dùng dây điện kết nối truyền tín hiệu vào một vị trí cố định; loại điện thoại không dây, dùng cả sóng vô tuyến truyền tín hiệu tương tự hoặc kỹ thuật số; điện thoại vệ tinh, dùng vệ tinh liên lạc; và VoIP (điện thoại qua giao thức Internet), dùng với kết nối Internet băng thông rộng.

Giữa hai người dùng, việc truyền nhận qua mạng có thể dùng cáp quang, kết nối điểm-điểm sóng vi ba hay qua vệ tinh.

Cho đến gần đây, từ "điện thoại" chỉ dùng để nói tới điện thoại có dây. Điện thoại mẹ con và điện thoại di động hiện nay khá phổ biến ở nhiều nơi, với điện thoại di động có triển vọng thay thế điện thoại có dây.

Không như điện thoại di động, điện thoại mẹ con cũng phụ thuộc điện thoại có dây vì nó chỉ có ích trong một khoảng cách nhỏ chung quanh trạm phát được kết nối với dây điện thoại.

Việc xác định người phát minh ra điện thoại (Antonio Meucci hay Johann Philipp Reis hoặc Alexander Graham Bell) vẫn còn gây tranh cãi.

 

Cấu tạo 1 điện thoại cổ

Từ những chiếc điện thoại thô sơ ban đầu và cách chuyển mạch bằng nhân công, ta có thể nêu cụ thể một cuộc điện đàm như sau:

Một thuê bao A gọi cho một thuê bao B thì tín hiệu (cụ thể là giọng nói) của thuê bao A được chuyển đổi thành tín hiệu điện và chuyển đến tổng đài. Ở đây một nhân viên trực tổng đài có nhiệm vụ gạt cần chuyển mạch sang thuê bao B và cuộc điện đàm được diễn ra. Nhưng nếu thuê bao B đang bận thì cuộc điện thoại đó sẽ bị rớt.

Năm 1854 Pháp mới bắt đầu có điện tín.

Charles Bourseul lúc bấy giờ là nhân viên hành chính về điện tín viết bài trong báo l'Illustration: "Từ ngày 26/08/1854 đây là nguyên tắc cho máy điện thoại".

Năm 1860, một giáo viên người Đức Philippe Reiss thực hiện một máy có thể truyền những âm thanh về nhạc bằng cách dùng điện.

Ông đã thành công trong việc kinh doanh máy của ông nhưng nó vẫn còn yếu kém và không có khả năng truyền lời nói. Tuy nhiên ông Reiss đã tiến đến rất gần cái có thể gọi là điện thoại. Phát minh của P. Reiss được trình bày tại Mỹ.

Hai người Mỹ, Alexander Graham Bell và Eliza Gray cuối cùng thực hiện được máy điện thoại. Graham Bell làm được nhiều mẫu máy truyền âm thanh và năm 1875 cho ra đời hệ thống điện tín hoàn chỉnh. Elisha Gray làm việc cùng lĩnh vực và ngày 14/02/1876, cả hai cùng trình bằng sáng chế điện thoại của họ.

Lịch sử chỉ giữ lại tên của Bell bởi vì sau cuộc tranh chấp pháp luật, Bell được thắng kiện với bằng phát minh số 174465 ngày 7/03/1876.

Tuy nhiên không một điện thoại nào dùng được. Phải đợi đến tháng 6 năm 1876 người ta mới thấy lần đầu tiên điện thoại hoạt động tại hội chợ triễn lãm ở Philadelphie. Điện thoại vào Hoa Kỳ từ năm 1877 sau khi hãng Bell Telephone Company sáng lập.

Cùng năm 1877, Western Union Telegraph yêu cầu Thomas A. Edison làm một điện thoại khác để chống lại Bell Company. Edison bắt đầu từ máy của Reiss và nghiên cứu cho ra một máy phát có điện trở thay đổi nhạy hơn của Bell, và trở thành microphone đầu tiên bằng graphite, ngày 27/04/1877

Vài tuần sau, ngày 9/7/1877, Bell giới thiệu Hand Telephone.

Cuối năm 1877, Frédérick Gower, người Mỹ, cải thiện máy của Bell và hệ thống của ông được lắp đặt tại Paris năm 1879. Đó là trung tâm điện thoại đầu tiên của nước Pháp.

Cuộc gọi đầu tiên

Cuộc gọi đầu tiên được thực hiện giữa nhà phát minh Alexander Graham Bell và người trợ lý của ông ngồi cách đó 4,5 m vào ngày 10/3/1876 với mẩu hội thoại ngắn ngủi: “Watson, anh đến đây nhé, tôi có việc cần!” là sự kiện lịch sử đánh dấu chính thức sự ra đời của chiếc điện thoại dùng để liên lạc.[1]

Cuốn danh bạ điện thoại đầu tiên

Tổng đài điện thoại đầu tiên được đi vào hoạt động là tại New Haven, bang Connecticut, Mỹ. Vào ngày 21/2/1878, cuốn danh bạ điện thoại đầu tiên trên thế giới được xuất bản bởi công ty điện thoại New Haven với 1 trang duy nhất liệt kê tên của 50 người đã quyên góp cho công ty nhưng không hề có một số điện thoại nào kèm theo.

Nó chủ yếu được dùng để ghi nhận công lao của những nhà tài trợ, hoàn toàn khác xa với mục đích tra cứu của những cuốn sổ danh bạ mà ngày nay chúng ta vẫn dùng.

Những chiếc điện thoại thời kỳ đầu chỉ để dành cho những người giàu có sử dụng và hiếm thấy có những thiết kế đa dạng mà hầu hết đều rất kiểu cách và cầu kì với nét đặc trưng là có 2 đầu: một ống nói và ống nghe.

Bốt điện thoại ra đời

Chiếc bốt điện thoại khi mới ra đời đã từng được xem là một xu hướng trong tương lai khi mà chúng giúp bạn có thể gọi cho bất cứ ai khi đi trên đường.

Lịch sử gần đây

Điện thoại trong xe

Khi các mẫu điện thoại tiến gần hơn tới “mốc” di động, chúng đã dần trở nên nhỏ gọn hơn để có thể gắn vào trong xe và thực sự trở nên tiện ích rất nhiều với người sử dụng. Có thể là bây giờ, chúng ta nhìn lại thì điện thoại được “tích hợp” trong xe chỉ là một thứ công nghệ thô sơ, lạc hậu vô cùng nhưng vào thời kì đó, đây thực sự là một cuộc cách mạng trong công nghệ.

Điện thoại di động

Chiếc điện thoại đầu tiên được cho là “di động” được quảng cáo vào năm 1967 với tên gọi là “Carry phone” đánh dấu một bước tiến gần hơn đến mẫu điện thoại di động nguyên bản. Mang danh là di động nhưng việc sử dụng nó thì vô cùng bất tiện khi người ta cứ phải vác “kè kè” bên mình một chiếc hộp máy to sụ nặng tới 4,5 kg. Giá thành lại rất cao nên nó hầu như không được phổ biến rộng rãi cho đến khi phiên bản nhỏ gọn của nó được tung ra thị trường.

Điện thoại cầm tay

Vào ngày 3/4/1973, mẫu điện thoại cầm tay đầu tiên Motorola Dyna Tac do nhà phát minh Martin Cooper của hãng sáng chế được “trình làng” thực sự đã làm công chúng kinh ngạc và đầy sửng sốt. Tuy nhiên, khi đó chúng đơn thuần là một màn trình diễn công nghệ mới chứ chưa thể được dùng để thay thế hoàn toàn cho điện thoại cố định. Hình dáng ban đầu của chúng trông giống như một “cục gạch” nặng nề với hình dáng thô kệch và vô cùng bất tiện khi mang theo mình.

Dòng điện thoại thông minh Smart Phone

Chiếc điện thoại Iphone của Apple thực sự là một sự sáng tạo đột phá về kiểu dáng với nét đặc trưng là màn hình cảm ứng siêu nhạy giúp người sử dụng có thể thao tác dễ dàng chỉ bằng việc “lướt” nhẹ các ngón tay. Nó tạo nên cơn sốt chưa từng có khi xuất hiện vào năm 2007 và khởi đầu cho một cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các hãng trong phân khúc dòng điện thoại smartphone.

Nhưng thực ra những đóng góp của Apple với công nghệ màn hình cảm ứng phải được ghi nhận từ năm 1983 với mẫu điện thoại để bàn cảm ứng Ciara, tiền đề cho một bước tiến lớn trong ngành công nghệ thông tin.

Hiện nay có những hãng smartphone nổi tiếng như Apple, Samsung với những siêu phẩm như IPhone, Samsung Galaxy, Samsung Galaxy Note, Huawei, Oppo, Xiaomi...

Thuật ngữ điện thoại IP (IP Telephony) thường dùng để chỉ phương pháp kết nối máy điện thoại tới tổng đài hoặc trung kế sử dụng Giao thức Internet hay phương pháp truyền tín hiệu thoại (VoIP) qua giao thức Internet VoIP. Tuy vậy, trên thực tế, thông thường hai khái niệm vẫn được dùng lẫn cho nhau.

Điện thoại truyền thống dựa trên công nghệ chuyển mạch kênh (curcuit switching) và vì vậy đòi hỏi phải có đường kết nối trực tiếp và dành riêng cho mỗi điểm dầu cuối. Chi phí lắp đặt, bảo dưỡng lớn cũng như khó thêm, bớt, thay đổi hay di chuyển thiết bị đầu cuối. Ngược lại, công nghệ IP là công nghệ chuyển gói tin (packet switching) cho phép sử dụng chung một đường kết nối cho nhiều kênh thoại hoặc kết hợp cùng với dữ liệu mang lại tính kinh tế cao hơn cũng như cho phép thêm, bớt, thay đổi, di chuyển thiết bị đầu cuối dễ dàng.

Thay vì việc sử dụng một đường kết nối trực tiếp và dành riêng để nối máy điện thoại tới hệ thống chuyển mạch như tổng đài hoặc trung kế (PaBX), điện thoại IP sử dụng kết nối Ethernet của mạng IP cho mục đích này. Điện thoại có thể được kết nối tới PaBX thông qua hạ tầng mạng LAN hoặc mạng WAN. Một số nhà cung cấp viễn thông còn cung cấp dịch vụ SIP qua đó thuê bao có thể nối trực tiếp máy điện thoại vào Internet. Đầu cuối của công nghệ điện thoại IP thường là các máy điện thoại được thiết kế riêng hoặc một phần mềm chạy trên máy tính. Chi phí để triển khai điện thoại IP thường lớn hơn so với điện thoại thường nhưng ngược lại, chi phí vận hành, quản lý, khai thác sẽ giảm đáng kể đồng thời chất lượng cuộc gọi và khả năng sử dụng điện thoại và tiếp nhận cuộc gọi được tăng lên.

Công nghệ Truyền giọng nói qua IP (VoIP) chủ yếu liên quan tới việc chuyển các tín hiệu thoại thành các gói tin IP và truyền qua hạ tầng Internet. Một số ví dụ như các dịch vụ 171, 177, 178, Skype, Yahoo Voice v.v. Tùy theo dịch vụ, người sử dụng có thể sử dụng điện thoại bình thường vẫn có thể tận dụng được lợi thế về chi phí do điện thoại Internet mang lại. Lợi ích chính của VoIP là mang lại lựa chọn cho khách hàng về một dịch vụ thoại có chất lượng thấp hơn nhưng cũng có chi phí rẻ hơn và thường áp dụng cho các dịch vụ Điện thoại đường dài.[2]

  • Điện thoại cố định
  • Điện thoại di động
  • Bưu điện
  • VoIP

  1. ^ “Cuộc điện thoại đầu tiên được thực hiện như thế nào?”. thinhvuongvietnam.com. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2022.
  2. ^ Huurdeman, Anton A (2003). The Worldwide History of Telecommunications. IEEE Press and J. Wiley & Sons. ISBN 0-471-20505-2.

  • Lịch sử điện thoại

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Điện_thoại&oldid=68985176”