Nhân đình nào sau đây không đúng với hệ quả của tình trạng mất cân bằng giới tính ở nước ta hiện nay

Hiện nay, mất cân bằng giới tính khi sinh đang trở thành một trong những vấn đề “nóng” và nan giải đối với công tác DS-KHHGĐ ở nước ta, đã và đang thu hút sự quan tâm của cộng đồng. Do những quan niệm sai lầm, tâm lý chuộng con trai hơn vẫn thể hiện rõ trong đời sống xã hội Việt Nam.

Show

I. TÌNH HÌNH MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH:

1. Việt Nam

Nếu như trong những năm 90, tỷ lệ nam/nữ trong dân số Việt Nam chênh lệch không lớn (96,7 nam so với 100 nữ) thì sang những năm 2000 và gần đây, tỷ số giới tính khi sinh khá cao, liên tục tăng và nghiêng về trẻ em trai: năm 2006, tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam là: 110 trẻ trai/100 trẻ nữ (110/100), cao ở mức thứ 4 trên thế giới, năm 2007 và 2008, tỷ số này đã là 112/100, năm 2009 là 110,5/100 và năm 2010 là 111,2/100.

Nếu như năm 2006, chỉ có 19 tỉnh/thành trong cả nước có tỷ số giới tính khi sinh từ 110/100 trở lên, thì năm 2007, con số này đã lên tới 35 tỉnh/thành.

2. Thành phố Hồ Chí Minh:

2007: 108/100,

2008 và 2009: 110/100

2010: 108/100

Năm 2011: 107/100

Từ đó cho thấy tỷ số giới tính khi sinh ở nước ta thuộc vào loại khá cao, trên mức bình thường (tỷ số giới tính khi sinh bình thường chấp nhận được là 103-107/100), rất đáng báo động và nguy cơ mất cân bằng giới tính đã hiện diện. Tác động của sự chênh lệch tỷ số giới tính khi sinh sẽ không dễ nhận thấy ngay, nhưng những năm tiếp theo sau sẽ gây ra tình trạng “nam thừa, nữ thiếu”, theo đó xuất hiện hàng loạt các vấn đề thách thức lớn như: khó tìm vợ, mất cân đối về nhân sự trong các ngành nghề xã hội, gia tăng các tệ nạn xã hội.

II. NGUYÊN NHÂN:

1. Trước hết là đặc điểm văn hóa với nhiều phong tục tập quán thấm đậm tư tưởng Nho giáo ở các nước châu Á trong đó có Việt Nam làm cho suy nghĩ: “trọng nam khinh nữ”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “con trai mới là con của mình, còn con gái là con người ta”, mong có con trai để “nối dõi tông đường”, để “đảm trách công việc thờ cúng tổ tiên ông bà”, vẫn còn tiềm ẩn trong nhận thức của một số gia đình mặc dầu những năm gần đây, cái nhìn về “con gái” trong xã hội đã cởi mở hơn.

2. Tại một số tỉnh miền núi và miền biển, vẫn còn nhiều gia đình mong sanh con trai để đảm đang những công việc nặng nhọc của gia đình mà con gái không làm được như đi biển, chài lưới, khuân vác …

3. Việc mong muốn có con trai lại nhận được sự trợ giúp đắc lực  bởi chính một số người làm công tác y tế, đặc biệt là những bác sĩ sản khoa với sự hỗ trợ của các phương tiện chẩn đoán y khoa hiện đại như siêu âm xuất hiện ở khắp các bệnh viện và phòng khám công lẫn tư đã tạo điều kiện dễ dàng, thuận lợi cho việc lựa chọn giới tính thai nhi của các bậc làm cha mẹ. Tù đó xuất hiện hành vi phá thai lựa chọn giới tính tại một số cơ sở y tế.

4. Các ấn phẩm văn hóa tuyên truyền hướng dẫn việc lựa chọn giới tính thai nhi cũng như các cơ sở tư vấn về sinh con trai hay con gái khá phổ biến, từ đó đã góp phần gia tăng tỷ số giới tính khi sinh.

III. HẬU QUẢ:

1. Tình trạng gia tăng dân số quá nhanh do nhu cầu phải đẻ cho được con trai dẫn tới sự chênh lệch lớn về phân bố dân cư giữa các vùng, khiến có nơi thiếu lao động, có nơi lại thừa lao động. Điều này dẫn đến sự di dân ngày càng nhiều về các tỉnh, thành phố lớn.

2. Nam giới khó lấy vợ, từ đó đưa đến mất cân bằng trong đời sống, người ta ước tính rằng với đà gia tăng chênh lệch giới tính nghiêng về phía nam giới như hiện nay, thì trong 20-30 năm nữa sẽ có từ 2 đến 3 triệu đàn ông Việt Nam không lấy được vợ.

3. Tình trạng “nam thừa nữ thiếu” sẽ khiến nam giới vì không lấy được vợ mới tìm cách đi “giải quyết sinh lý”, có cầu thì sẽ có cung và chính điều này sẽ làm gia tăng nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em gái cũng như hoạt động mại dâm.

4. Đàn ông không lấy được vợ sẽ bị ức chế về mặt tâm sinh lý, điều này có thể làm cho nam giới trở nên hung hăng hơn do dư thừa lượng nội tiết tố nam trong cơ thể, đưa đến những hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức, làm rối loạn trật tự, an toàn xã hội như: hiếp dâm, trộm cướp, sử dụng chất kích thích và chất gây nghiện.

5. Sự chênh lệch giới tính nghiêng về phía nam giới đã làm cho một số ngành nghề vốn là đặc thù của nữ giới sẽ phải rơi vào tình trạng thiếu hụt lao động như: điều dưỡng, y tá, hộ lý, giữ trẻ, nuôi dạy trẻ, giúp việc nhà, thợ dệt …, trong khi nam giới chưa sẵn sàng để làm những công việc này.

6. Chất lượng dân số giảm do:

– Hậu quả của nạo phá thai để lựa chọn giới tính

– Tình trạng sử dụng chất kích thích, chất gây nghiện, nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS gia tăng

IV. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ HẠN CHẾ MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH:

1. Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục các tầng lớp nhân dân nhằm chấp hành nghiêm và thực hiện tốt các văn bản pháp luật của Đảng và Nhà nước như:

Điều 7 Pháp lệnh Dân số 2003 quy định nghiêm cấm lựa chọn giới tính  thai nhi dưới mọi hình thức;

Điều 10 Nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày 16/9/2003 của Chính phủ quy định nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi

Điều 9 Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 03/10/2006 quy định xử phạt hành chính hành vi lựa chọn giới tính thai nhi

 Luật Bình Đẳng giới ngày 29.11.2006:

Điều 40, điểm 7: Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế bao gồm:

Khoản b: Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi.

Nghị định 55/2009/NĐ-CP ngày 10/06/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới:

Điều 12: các hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới lĩnh vực y tế:

Điểm 3 khoản b: phạt 3-5 triệu đồng: xúi giục người khác phá thai vì giới tính thai nhi

Văn bản số 3121/BYT-BMTE ngày 21/5/2009 của Bộ Y tế về nghiêm cấm lạm dụng kỹ thuật cao để lựa chọn giới tính khi sinh.

 2. Đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục để nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi nhằm hạn chế và đi đến loại trừ lựa chọn giới tính thai nhi. Đối tượng ưu tiên được tuyên truyền là phụ nữ và các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, đặc biệt đã có 02 con một bề và nhất là 02 con gái, nam giới, người cung cấp các dịch vụ lựa chọn giới tính.

3. Có chính sách ưu tiên dành cho nữ giới, khen thưởng xứng đáng các cặp vợ chồng chỉ có 1 con gái hoặc 2 con gái. Nêu cao vai trò và những thành đạt của nữ giới trong xã hội hiện nay, nhấn mạnh vai trò của nam giới trong việc chấp hành các chính sách dân số và thực hiện các biện pháp KHHGĐ.

4. Sử dụng những hình thức xử phạt thực sự có hiệu quả để răn đe mọi hành vi tuyên truyền, hướng dẫn lựa chọn và xác định giới tính thai nhi dưới mọi hình thức, đặc biệt là các ấn phẩm với nội dung hướng dẫn sinh con  trai hay con gái theo ý muốn, phương pháp siêu âm chẩn đoán giới tính thai nhi, phá thai lựa chọn giới tính.

5. Cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt của các cấp có thẩm quyền từ trung ương đến cơ sở, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, đoàn thể, hội đoàn, các chuyên gia cùng với ngành DS-KHHGĐ để hạn chế tối đa chênh lệch giới tính khi sinh.

Tóm lại, muốn giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, hãy để cho quá trình sinh đẻ diễn ra một cách tự nhiên, tuyệt đối không có sự can thiệp về giới tính thai nhi của y học và khoa học./.

 

Các tin khác

  • Bệnh lây qua đường tình dục.

Con số này vượt ngưỡng an toàn về tỷ số giới tính khi sinh (GTKS): 103-107. Số liệu thống kê trong các năm gần đây của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ số này luôn dao động trong khoảng 104 -109 trong các năm từ 2001 đến 2005 nhưng từ năm 2006 đến nay, tỷ số này luôn ở mức trên 110. Tỷ số GTKS tăng sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực đối với dân số nói riêng và các vấn đề kinh tế – xã hội nói chung.

Nhân đình nào sau đây không đúng với hệ quả của tình trạng mất cân bằng giới tính ở nước ta hiện nay

Tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam, 1999-2009.

Tác động đầu tiên của mất cân bằng GTKS là tác động vào tỷ số giới tính (của cả dân số). Tỷ số giới tính được định nghĩa là số lượng nam giới trên 100 nữ giới. Tỷ số này ở nước ta đang tăng dần qua các kỳ Tổng điều tra.

Nhân đình nào sau đây không đúng với hệ quả của tình trạng mất cân bằng giới tính ở nước ta hiện nay

Tỷ số giới tính phụ thuộc vào: (1) Tỷ số GTKS, (2) Tỷ suất chết của nam, nữ theo các nhóm tuổi khác nhau, (3) Di cư quốc tế. Thông thường chỉ số di cư thuần quốc tế (nhập cư – xuất cư) của nước ta có tác động không đáng kể đến chỉ số giới tính.

Kết quả điều tra DHS, 2002 cho thấy không có sự khác biệt lớn giữa tỷ suất chết của trẻ em nam so với trẻ em nữ ở nhóm tuổi dưới 5:

 

Nhân đình nào sau đây không đúng với hệ quả của tình trạng mất cân bằng giới tính ở nước ta hiện nay

Số trẻ em nam sinh ra lớn hơn trẻ em gái (trong khoảng 103-107) và tỷ lệ chết của nam cao hơn nữ là điều hoàn toàn bình thường do đặc tính sinh học, thói quen sinh hoạt, nghề nghiệp của nam và nữ khác nhau nên tỷ suất chết của nam luôn cao hơn nữ và tuổi thọ của nữ vì thế cũng cao hơn nam. Tỷ suất chết thô năm 2009 của nước ta là 6.8%o. Ta có thể thấy rõ hơn tỷ suất chết đặc trưng theo độ tuổi phân theo nam nữ của dân số nước ta năm 2008 như biểu đồ dưới đây:

Nhân đình nào sau đây không đúng với hệ quả của tình trạng mất cân bằng giới tính ở nước ta hiện nay

Tỷ suất chết đặc trưng theo tuổi (ASDR) phân theo nam (M), nữ (F), năm 2008.

Như vậy, yếu tố chính ảnh hưởng đến tỷ số giới tính là chỉ số GTKS. Hiện nay chỉ số này đang tăng ở nước ta và hậu quả của nó là sẽ dẫn đến tình trạng thừa nam thiếu nữ. Trong đó, đáng lo ngại nhất là tình trạng nam giới trong độ tuổi kết hôn sẽ rất khó khăn trong việc tìm kiếm bạn đời. Tình trạng này sẽ diễn ra dần dần và càng về những năm sau thì số lượng nam thừa càng lớn do chuyển đoàn hệ sinh cộng với số lượng những người trong độ tuổi kết hôn của các năm trước chưa kết hôn được. Theo tính toán của UNFPA Việt Nam thì đến năm 2040, số lượng nam giới sẽ thừa khoảng 12% và đến năm 2050 là 20% (dự báo mức trung bình).

Những hệ lụy từ mất cân bằng giới tính

Mục tiêu của chúng ta đặt ra là đến năm 2020, tỷ số GTKS sẽ được khống chế ở mức 115. Sử dụng chương trình dự báo dân số Spectrum version 3.54 (dự báo ở mức trung bình), cho ta kết quả đến năm 2020 nước ta có khoảng gần 700 ngàn đàn ông trong độ tuổi 15-49 “dư thừa” và đến năm 2050 là khoảng gần 3 triệu. Và kết quả tỷ số GTKS được dự báo qua các năm đến 2050 như sau:

Nhân đình nào sau đây không đúng với hệ quả của tình trạng mất cân bằng giới tính ở nước ta hiện nay

Tình trạng thiếu nữ giới để kết hôn sẽ dẫn đến xu hướng nam giới muộn hoặc không kết hôn, đặc biệt đối với những trường hợp nghèo khó, trình độ học vấn thấp; kéo theo độ tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nam giới tăng lên. Số tuổi trung bình này của nam năm 2009 là 26.2, tăng lên so với năm 1999 (25.4) (nữ: 22.8/2009). Vì thế, tỷ trọng dân số chưa kết hôn cũng sẽ tăng lên. Ngay cả tỷ lệ người già neo đơn, không nơi nương tựa, cần sự quan tâm chăm sóc của cộng đồng trong tương lai cũng sẽ tăng lên. Tại Trung Quốc có 94% những trường hợp không kết hôn trong độ tuổi 28-49 là nam giới và trong số nam giới không kết hôn đó thì có tới 97% chưa học hết trung học phổ thông.

Mất cân bằng GTKS tại Việt Nam sẽ có những tác động tiêu cực đến các chỉ số nhân khẩu học của dân số, đến hôn nhân và gia đình, đến trật tự trị an xã hội, ngay cả một số ngành nghề vốn thích hợp với phụ nữ sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu lao động như giáo viên mầm non, tiểu học, y tá, may mặc,… Vấn đề đặt ra hiện nay là Chính phủ, các tổ chức xã hội và mỗi cá nhân phải cùng nhau thực hiện các giải pháp nhằm khống chế mức tăng của GTKS.

Tình trạng thiếu nữ giới để kết hôn sẽ làm nam giới buộc phải tính đến việc kết hôn với người nước ngoài. Một thực tế đang diễn ra là có hàng trăm ngàn cô gái Việt Nam đang di chuyển đến các nước – nơi có tình trạng mất cân bằng GTKS trước chúng ta hàng chục năm là Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan để làm dâu. Chỉ tính riêng từ năm 1998 -2008 đã có 251.492 cô gái Việt Nam làm dâu tại Hàn Quốc.

Khi kết hôn với người nước ngoài mà không có tình yêu, không có sự tìm hiểu nhau kỹ càng thì hôn nhân sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức như sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá, tôn giáo, thói quen sinh hoạt, quan niệm… Những điều đó sẽ dẫn đến sự xung đột và đe doạ đến hạnh phúc gia đình, làm gia tăng các vụ bạo hành giới (thể chất, tinh thần, tình dục) mà nạn nhân chủ yếu là phụ nữ; tăng cao nguy cơ số vụ ly hôn.

Hậu quả của bạo lực giới sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ (thể chất, tinh thần) của người phụ nữ, đặc biệt là sức khoẻ sinh sản; ảnh hưởng đến đời sống kinh tế gia đình và cả những dư chấn tâm lý tác động đến con cái. Thực tiễn về các vụ cô dâu Việt Nam bị bạo hành ở nước ngoài làm đau lòng xã hội đã phần nào chứng minh điều đó.

Nam giới muộn hoặc không kết hôn được sẽ có thể phải đối mặt với các rắc rối về tâm lý, tinh thần, tăng nguy cơ bệnh tật khi mà các nhu cầu tâm lý, tình cảm, sinh lý không được đáp ứng. Điều đó sẽ làm gia tăng các tệ nạn xã hội, đặc biệt là mại dâm nữ, nam; các nguy cơ về lây nhiễm HIV/AIDS; tội phạm, tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em và ngay cả nạn nhân là nam giới vì thế cũng gia tăng.

Đánh giá tại Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện chương trình phòng, chống mại dâm giai đoạn 2006 – 2010 của Việt Nam cho thấy: Trên cả nước ước tính có gần 31.000 người bán dâm; gái bán dâm ngày càng trẻ hóa, từ 16 – 18 tuổi chiếm 15,3%, từ 25 – 35 tuổi chiếm 35% và đông nhất là lứa tuổi rất trẻ: từ 18 – 25 tuổi chiếm 42%. Kết quả nghiên cứu năm 2001 ở Việt Nam cho biết 51% gái mại dâm có liên quan tới ma túy và 27% nhiễm HIV.

Theo thống kê của Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an), giai đoạn 1998 – 2006, có 5.746 phụ nữ và trẻ em bị bán ra nước ngoài và 665 phụ nữ và trẻ em bị buôn bán trong nước, chưa kể đến con số 7.940 phụ nữ và trẻ em nghi ngờ bị buôn bán. Từ năm 2005 đến tháng 6-2008, có  2.800 phụ nữ và trẻ em bị buôn bán. Hầu hết các vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em diễn ra tại các tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Cambodia, Việt Nam – Lào. Riêng 6 tháng đầu năm 2009 đã có 362 trường hợp, trong đó có cả trẻ em sơ sinh .   

Nhân đình nào sau đây không đúng với hệ quả của tình trạng mất cân bằng giới tính ở nước ta hiện nay

Tỷ lệ % số vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam với các nước (từ 2005-6/2008).

Các vấn nạn trên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến bình đẳng giới, đến quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và đặc biệt là trẻ em. Cũng cần nhấn mạnh một điều rằng, các nguy cơ, tệ nạn xã hội nói trên không hoàn toàn phát sinh từ việc mất cân bằng GTKS nhưng rõ ràng rằng GTKS là một trong các nguyên nhân và khi chỉ số này tăng sẽ làm gia tăng các nguy cơ, tệ nạn nói trên.

Xã hội cũng phải tăng thêm các chi phí cho y tế, công an, toà án,… để đảm bảo an toàn xã hội. Hậu quả của mất cân bằng GTKS không chỉ xảy ra trong phạm vi một nước mà nó còn dẫn đến các hệ luỵ cho quốc gia liền kề. 65% các vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam là qua biên giới Việt Nam – Trung Quốc, nơi mà tình trạng mất cân bằng GTKS diễn ra nghiêm trọng và từ hàng vài chục năm trước.

Chú thích:

[1] “Factors determining the sex ratio at birth” Ingrid Waldron – Leidy Laboratory, Department of Biology, University of Pennsylvania

[1] Tổng Điều tra DS và Nhà ở 1999, 2009; Điều tra Biến động Dân số hàng năm – TCTK

[1]Vietnam Demographic and Health Survey, 2002 – Measuredhs

[1] Lectures of Sr. Prof. F.Ram – Director of International Institute for Population Sciences, Mumbai, India

[1] “Recent change in the SRB in Vietnam: A review of evidence” – Dr. Christophe Z. Guilmoto- UNFPA, 2009

[1] Dự thảo Chiến lược Dân số-SKSS đến năm 2020, www.gopfp.gov.vn

[1] Dự báo GTKS năm 2050 là 120

[1] Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, TCTK

[1]“Abnormal sex ratios in human populations: causes and consequences‟ Hesketh and Xing, 2006

[1] Báo cáo Đề án 3, Chương trình 130/CP năm 2010 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội

[1] Wikipedia Việtnam- Mại dâm

[1] “Phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em” – Đoàn Hiền. Thông tin Pháp luật Dân sự, 10/2009

 

Các tin khác