Những đặc điểm của triết học hy lạp cổ đại năm 2022

Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học được hình thành vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ VI tại Hy Lạp. Triết học Hy Lạp cổ đại được xem là thành tựu rực rỡ của văn minh phương tây, tạo nên cơ sở xuất phát của triết học châu Âu sau này. Alfred Whitehead nhận xét rằng "triết học phương tây thực ra chỉ là một loạt các chú thích cho Plato". Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tập trung vào hai chủ đề chính. Thứ nhất là mối liên hệ giữa nguyên nhân và hệ quả, hay nói cách khác, tìm câu trả lời cho câu hỏi phải chăng các sự vật hiện tượng vận động theo một chuỗi nguyên nhân-hệ quả tất yếu khách quan hay chỉ là sự trùng hợp, tình cờ ngẫu nhiên. Thứ hai là bản chất và khởi thủy của thế giới tồn tại. Những đại diện tiêu biểu nhất của nền triết học này là Socrates, Plato, Aristotle và Epicurus.

Mục lục

  • 1 Nguồn gốc và đặc trưng
    • 1.1 Điều kiện ra đời
    • 1.2 Đặc trưng cơ bản
  • 2 Tham khảo

Nguồn gốc và đặc trưngSửa đổi

Điều kiện ra đờiSửa đổi

Hy Lạp là cái nôi của văn minh phương tây. Nhờ có điều kiện tự nhiên thuận lợi, khí hậu ôn hòa, những đồng bằng trù phú và các thành phố lớn như Athens ra đời sớm. Thương mại cũng phát triển từ rất sớm với các hải cảng và đảo rải rác trên biển Egée. Đó là nơi hội tụ những điều kiện hết sức thuận lợi cho nền văn hóa tinh thần, bao gồm triết học, phát triển mạnh mẽ. Năng lực sản xuất tiến bộ mạnh mẽ trong thời kỳ thế kỷ VIII-VI trước công nguyên cùng với những mô hình nhà nước thành bang cũng góp phần tạo nền tảng cho triết học Hy Lạp ra đời và phát triển nhanh chóng. Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử-chế độ chiếm hữu nô lệ. Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm phần đất liền và vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban căng và Tiểu Á. Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá. Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Xứng đáng là chiếc nôi của nền văn minh châu Âu và của cả nhân loại. Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: "Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có châu Âu hiện đại được". Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự nhiên). Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời sống thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người… Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp,…đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt biển đến các nước phương Đông. Vì vậy, các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cũng là những người đã nhiều lần đến phương Đông và nhiều vùng đất khác. Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. C.Mác viết: "Các nhà triết học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã được suy tư trong các khái niệm triết học". Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau: - Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai) - Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh) - Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá

Đặc trưng cơ bảnSửa đổi

Có thể coi triết học Hy Lạp cổ đại là đỉnh cao của văn minh Hy Lạp, với các đặc trưng cơ bản sau đây:

Triết học Hy Lạp đã có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần. Toàn bộ nền triết học thế giới sau này cũng dựa trên những nền tảng cơ bản đó. Thế giới quan triết học Hy Lap - La Mã thời cổ đại là sự phong phú và đa dạng của các quan niệm Triết học.

Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới việc xây dựng thế giới quan tổng thể, biến triết học thành "khoa học của các khoa học".

Ngoài ra, triết học Hy Lạp cũng rất coi trọng vấn đề con người.

Tham khảoSửa đổi

Triết học Hy Lạp hay triết học cổ điển bao gồm thời kỳ tư tưởng được phát triển ở Hy Lạp cổ đại từ thời kỳ cổ điển của nó (499 - 323 trước Công nguyên) đến thời kỳ Hy Lạp (323 - 30 trước Công nguyên).

Từ triết học có nguồn gốc từ Hy Lạp lần đầu tiên được đặt ra bởi Pythagoras và có nghĩa là "tình yêu khôn ngoan" hay "người bạn khôn ngoan".

Và, tại sao triết học Hy Lạp quan trọng? Bởi vì nó tạo thành cơ sở của tư tưởng phương Tây hiện tại.

Đặc điểm của triết học Hy Lạp

Triết học Hy Lạp bắt nguồn từ thời kỳ cổ điển của nền văn minh Hy Lạp cổ đại từ năm 499 đến năm 323 trước Công nguyên

Thời kỳ đầu tiên được gọi là thời kỳ vũ trụ hoặc tiền xã hội và được đặc trưng bằng cách sử dụng suy nghĩ hợp lý để giải quyết các vấn đề về tự nhiên, điều này có nghĩa là sử dụng lý trí, suy nghĩ, kiến ​​thức và các giác quan, được gọi là logo .

Thời kỳ thứ hai của triết học Hy Lạp tập trung vào các vấn đề của con người, nơi các ý tưởng của các Học giả và Socrates phải đối mặt.

Cuộc tranh luận triết học đặc trưng cho thời kỳ này bao gồm tính tương đối hoặc tính phổ quát của các khái niệm như thiện và ác.

Theo nghĩa này, những người ngụy biện đã hoài nghi và tương đối, cho rằng tốt và xấu, chẳng hạn, phụ thuộc vào quan điểm của mỗi cá nhân. Mặt khác, Socrates đã dạy rằng những khái niệm này không tương đối mà là tuyệt đối và sự thật được đạt tới thông qua một quá trình đặt câu hỏi và lý luận.

Triết học cổ điển đặt nền móng cho diễn ngôn chính trị và logic của tư tưởng phương tây, đặc trưng bởi việc sử dụng các biện pháp tu từ (ngụy biện) và mayeutics (Socrates).

Thời kỳ triết học Hy Lạp

Triết học cổ điển thường được chia thành 2 thời kỳ chính: thời kỳ tiền Socrates và thời kỳ Socrates và các Học giả.

Thời kỳ vũ trụ hoặc tổng thống

Các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên được gọi là vũ trụ học, vì họ đặt câu hỏi về những bí ẩn của thiên nhiên và vũ trụ trước đây được giải thích bởi thần thoại (thần thoại Hy Lạp).

Thời kỳ đầu tiên của triết học Hy Lạp, còn được gọi là triết học tiền Socrates, bao trùm thế kỷ thứ 6 và 5 trước Công nguyên.

Mục tiêu chính là tìm kiếm nguyên tắc nguyên thủy, độc đáo và phổ quát mà từ đó tất cả mọi thứ được tạo ra, mà họ gọi là arjé . Tìm kiếm này được thực hiện thông qua kiến ​​thức (logo), bắt đầu suy nghĩ hợp lý.

Triết học tiền Socrates được chia thành 2 trường lớn:

  • các trường phái độc thoại (thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên): là đại diện quan trọng nhất của nó Thales of Miletus, Anaximander, Anaximenes, Pythagoras, Heraclitus of Ephesus, Xenophanes, Parmenides và Zenon of Elea. các trường đa nguyên (thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên): trong đó Empedocles, Anaxagoras, Leucippus và Democritus nổi bật.

Thời kỳ của những kẻ ngụy biện và Socrates

Trong nửa sau của thời kỳ cổ điển của Hy Lạp cổ đại, các Học giả và Socrates (470 - 399 trước Công nguyên) đã xuất hiện, đệ tử sau của Anaxagoras. Thời kỳ này được đặc trưng bởi các cuộc tranh luận dữ dội của nó trong nhận thức về kiến ​​thức tập trung vào con người thay vì tự nhiên.

Các nhà ngụy biện dạy cách sử dụng biện pháp tu từ để thuyết phục và thuyết phục, vì mọi thứ đều tương đối và phụ thuộc vào lập luận. Đại diện nổi bật nhất của nó là:

  • Protagoras : người được gán cho cụm từ "con người là thước đo của vạn vật". Ông là một nhà tư vấn cho King Pericles và tin rằng mọi thứ phải có ích cho xã hội. Gorgias : Ông tuyên bố rằng mọi thứ đều sai. Antisthenes : học sinh của Socrates, sáng lập trường hoài nghi. Ông là giáo viên của Diogenes of Sinope, một người yếm thế nổi bật.

Mặt khác, Socrates đã không đồng ý với những người ngụy biện và khẳng định rằng các khái niệm như thiện, ác và công lý là tuyệt đối, tiếp cận họ thông qua một quá trình gọi là "phương pháp Socrates" bao gồm 2 bước: trớ trêu và mayeutics.

Quá trình này sẽ giúp phơi bày những mâu thuẫn và tạo ra một cuộc tranh luận quy nạp thông qua đối thoại. Socrates đã dạy rằng cuộc sống không có câu hỏi là một cuộc sống của sự thiếu hiểu biết và đạo đức.

Môn đồ của Socrates

Sự phát triển của triết học Hy Lạp dựa trên những lời dạy của Socrates thông qua môn đệ của ông: Plato (427 -347 trước Công nguyên). Plato thành lập Học viện, tổ chức nơi Aristotle được thành lập, sau cái chết của Socrates vào năm 387 trước Công nguyên.

Plato cho rằng thứ duy nhất vĩnh cửu và bất biến là thế giới ý tưởng, có tính đến sự tồn tại của 2 thế giới: thế giới hợp lý, giác quan và thế giới thông minh, ý tưởng. Sử dụng "huyền thoại hang động" để giải thích cách các giác quan của chúng ta lừa dối và che giấu sự thật với chúng ta. Đây còn được gọi là chủ nghĩa duy tâm Platonic.

Đại diện cuối cùng của triết học Hy Lạp là môn đệ của Plato, Aristotle (384 - 322 TCN). Ông là giáo viên của Alexander Đại đế từ năm 343 trước Công nguyên và năm 353 trước Công nguyên, ông thành lập Lyceum. Aristotle khác với Plato trong việc kết hợp các ý tưởng tự nhiên hơn, kết luận rằng chúng ta phụ thuộc vào các giác quan và kinh nghiệm để học hỏi. Đây còn được gọi là chủ nghĩa trí tuệ.

Hơn nữa, Aristotle đặt ra thuật ngữ eudaimonía có nghĩa là hạnh phúc, coi đó là mục đích của mỗi con người.

Các môn đệ khác của Socrates đã thành lập các trường phái tư tưởng triết học Hy Lạp cũng khẳng định rằng mục tiêu cuối cùng của con người là đạt được hạnh phúc. Trong số đó, chúng ta có thể đề cập đến:

  • Nhà trường Cynic : thành lập bởi Antisthenes, ước xã hội và khinh thường vật liệu. Họ chiến đấu để không trở thành nô lệ cho những thú vui và tin vào cuộc sống không có mục tiêu. Trường học vườn : được thành lập bởi Epicurus vào năm 306 trước Công nguyên, khẳng định rằng hạnh phúc đạt được thông qua việc không phải lo lắng, không sợ chết và thông qua niềm vui được cai trị bởi sự thận trọng. Trường Stoic : Được thành lập bởi Zeno of Citio và chịu ảnh hưởng của người Cynics, ông nói rằng hạnh phúc được tìm thấy thông qua việc chấp nhận vận mệnh và nghĩa vụ. Trường phái hoài nghi : Pirrón de Elis bị ảnh hưởng bởi Stoics và khẳng định rằng sự thật không tồn tại và hạnh phúc được tìm thấy trong sự kiêng nể phán xét, với sự thờ ơ là lý tưởng.

Video liên quan

Chủ đề