Phương pháp quy nạp sử dụng trong nghiên cứu nhà nước & pháp luật, biểu hiện ở việc:

Phương pháp nghiên cứu của lý luận nhà nước và pháp luật trong hệ thống khoa học pháp lý

Phương pháp nghiên cứu của một môn khoa học là những nguyên tắc, cách thức hoạt động mà môn khoa học đó sử dụng để xem xét, tìm hiểu đối tượng nghiên cứu của mình nhằm đạt tới chân lý khách quan.

1.      Phương pháp luận:

Khi tìm hiểu phương pháp nghiên cứu của khoa học trước hết phải tìm hiểu phương pháp luận của khoa học. Đó là những nguyên tắc, quan điểm có tính chất đường lối, xuyên suốt và chỉ đạo quá trình nghiên cứu. Phương pháp luận của lý luận nhà nước và pháp luật là phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử. Với những cách tiếp cận cơ bản sau:

-         Khách quan, trong nghiên cứu về nhà nước và pháp luật, nghĩa là, xem xét nhà nước và pháp luật đúng như chúng tồn tại trong thực tế, không thêm, bớt, không bịa đặt, không xuất phát từ động cơ chính trị để chỉ khen hoặc chê một chiều. Cần tìm hiểu, đánh giá một cách khách quan cả những tư tưởng, quan điểm phi macxit về nhà nước và pháp luật. Khắc phục những định kiến mang tính chủ quan phiến diện, những sai lệch khi đánh giá về vị trí, vai trò của các nhà nước và pháp luật không phải xã hội chủ nghĩa trong tiến hành phát triển lịch sử tự nhiên của nhân loại.

-         Toàn diện, tiếp cận xem xét nhà nước và pháp luật ở nhiều góc độ, phương diện khác nhau như bản chất, hình thức, chức năng, cơ chế, các mối liên hệ … của nhà nước và pháp luật.

-         Biện chứng:

  • Thừa nhận nhà nước và pháp luật là những hiện tượng không “nhất thành, bất biến” mà luôn vận động, biến đổi. Vì vậy, phải xem xét nhà nước và pháp luật trong quá trình vận động, biến đổi chúng.
  • Xem xét nhà nước và pháp luật trong mối liên hệ ràng buộc và sự tác động qua lại với các hiện tượng khác của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, ý thức xã hội …
  • Thừa nhận nhà nước và pháp luật vận động, phát triển luôn gắn liền với mâu thuẫn và việc giải quyết các mâu thuẫn như mâu thuẫn giữa các giai tầng trong xã hội, mâu thuẫn giữa cái tiên tiến với các lạc hậu, giữa cái cũ với cái mới …
  • Thừa nhận nhà nước và pháp luật luôn vận động, phát triển theo những quy luật, quy trình nhất định.

-         Duy vật:

  • Thừa nhận nhà nước và pháp luật chỉ là những hiện tượng có tính lịch sử, chúng xuất hiện ở một giai đoạn nhất định và sẽ tiêu vong ở một giai đoạn nhất định. Từ đó, đặt nhà nước và pháp luật vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể, gắn chúng với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của giai đoạn đó để xem xét, đánh giá.
  • Nhà nước và pháp luật thuộc kiến trúc thượng tầng nên phụ thuộc cơ sở hạ tầng, vì thế, khi giải thích các hiện tượng của nhà nước và pháp luật phải luôn xuất phát từ cơ sở kinh tế - xã hội. Sự ra đời, tồn tại và pháp triển của chúng xét đến cùng do kinh tế quyết định, song không được tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế đối với các vấn đề của nhà nước và pháp luật.
  • Quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội, trong đó có nhà nước, pháp luật.

2.      Một số phương pháp nghiên cứu cụ thể:

-         Phương pháp phân tích, nghĩa là phải chia cái toàn thể (nhà nước và pháp luật) ra thành nhiều bộ phận để đi sâu nhận thức từng bộ phận đó một cách sâu sắc, đầy đủ hơn. Nhà nước và pháp luật là những hiện tượng rất phức tạp và luôn đi liền với những vấn đề phức tạp như quyền lực chính trị, lợi ích trong những mối quan hệ chằng chịt theo nhiều chiều nên cần được phân tích, môt xẻ ở những góc độ, khía cạnh khác nhau. Thông qua phương pháp phân tích làm cho lý luận luôn đổi mới, không bị sáo mòn, sơ cứng, mỗi lần phân tích lại có thể khám phá ra những cái mới, những nét mới trong các bấn đề liên quan đến nhà nước và pháp luật.

-         Phương pháp tổng hợp, ngược lại với phương pháp phân tích, nghĩa là phải liên kết, thống nhất các bộ phận của nhà nước hoặc pháp luật đã được phân tích nhằm có được cách nhìn nhận, cách đánh giá tổng quát về vấn đề cần nghiên cứu.

-         Phương pháp trừu tượng hóa, nghĩa là trên cơ sở những cái riêng, cái có tính chất hiện tượng, ngẫu nhiên, bề ngoài của nhà nước hoặc pháp luật từ đó rút ra những kết luận mang tính chất cái chung, cái bản chất, cái tất yếu về đối tượng nghiên cứu.

Bằng phương pháp trừu tượng hóa ta có thể vượt qua những hiện tượng có tính hình thức bề ngoài, ngẫu nhiên, thoáng qua, bất ổn định, để đi đến được cái chung mang tính tất yếu, tìm ra được bản chất của vấn đề, hiện tượng, sự vật, xác định được sự ổn định, xu hướng vận động, phát triển (mang tính quy luật) của hiện tượng.

-         Phương pháp so sánh, có tác dụng tìm ra những điểm giống và khác nhau giữa các vấn đề của nhà nước hoặc pháp luật cần nghiên cứu, từ đó lý giải nguyên nhân sự giống và khác nhau giữa chúng. Khi tiến hành so sánh phải:

  • Xuất phát từ bản chất của hiện tượng, sự vật, vấn đề cần phải so sánh;
  • Xuất phát từ điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, lịch sử cụ thể mà những điều kiện đó tạo ra môi trường tồn tại cho sự vật, hiện tượng, vấn đề đang cần so sánh;
  • Các yếu tố truyền thống khác có ảnh hưởng tới cách tiếp cận và giải quyết vấn đề.

Có thể so sánh theo chiều dọc mang tính lịch sử (các hiện tượng pháp lý đều có quá trình lịch sử hình thành và phát triển của mình và đồng thời không tránh khỏi giác quan chính trị khi xem xét đánh giá chúng). Vì thế, khi nghiên cứu những vấn đề về nhà nước và pháp luật cần chú ý đến tính lịch sử và tính chính trị của nó, nhất là những vấn đề liên quan đến các kiểu nhà nước và pháp luật khác nhau. Cũng có thể so sánh theo chiều ngang như giữa các nhà nước, các hệ thống pháp luật. Trong quá trình so sánh, phải luôn chú ý tới tính hệ thống, tính logic và sự thống nhất của các vấn đề, chỉ ra những cái chung, cái riêng, sự tương đồng và dị biệt giữa các hiện tượng, những sự liên quan, nối kết giữa các vấn đề.

-         Phương pháp xã hội học, nhà nước là một hình thức tổ chức của xã hội, sinh ra từ xã hội, tồn tại, phát triển ngay trong lòng xã hội, nó luôn gắn bó với xã hội. Do vậy, phải nghiên cứu các vấn đề xã hội. Có như vậy mới hiểu đầy đủ hơn về nhà nước, về quản lý nhà nước đối với xã hội được tốt hơn. Nhà nước muốn đưa ra một chính sách nào đó thì phải tìm hiểu xem xã hội tiếp nhận nó như thế nào và hiệu quả thực tế của nó trong đời sống xã hội.

Pháp luật là sự mô hình hóa các quy luật, nhu cầu khách quan của xã hội thành những quy tắc xử sự mang tính phổ biến, thành công lý. Cũng như nhà nước, pháp luật sinh ra từ nhu cầu khác quan của xã hội, là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, một giá trị của xã hội văn minh … Do vậy, muốn nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu điều chỉnh, tác dụng, hiệu quả của pháp luật buộc phải tìm hiểu trong đời sống xã hội (môi trường tác động của pháp luật).

Phương pháp xã hội học được thực hiện thông qua các hoạt động như theo dõi, phỏng vấn, thăm dò dư luận xã hội … với các bước: thu nhập thông tin từ những sự kiện, đối tượng riêng rẻ để nắm được những thông tin, tư liệu thực tiễn; nghiên cứu những quan niệm, quan điểm về các vấn đề khác nhau của nhà nước, pháp luật; xử lý những thông tin, tài liệu đã thu được, từ đó kiểm nghiệm lại những luận điểm, quan điểm, khái niệm, kết luận của lý luận nhà nước và pháp luật.

-         Phương pháp hệ thống, do tính chất phức tập và sự liên kết thành các hệ thống của nhà nước, pháp luật với các hiện tượng khác (hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật, hệ thống các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội …). Khi nghiên cứu các vấn đề về nhà nước và pháp luật phải đặt chúng trong hệ thống, trong sự liên hệ, thống nhất và tính thứ bậc với các hiện tượng, sự vật khác hoặc cùng loại để nhận thức, đánh giá, không phá vỡ tính hệ thống của chúng.

Ngoài ra, còn rất nhiều những phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như phương pháp thống kê, phương pháp dự báo khoa học, phương pháp thực nghiệm pháp lý … Các phương pháp nghiên cứu cần được sử dụng kết hợp với nhau thì mới có hiệu quả.

các phương pháp quy nạp và phương pháp suy diễn chúng là hai cách tiếp cận trái ngược với nghiên cứu. Mỗi phương pháp đều có ưu điểm của nó và việc sử dụng nó sẽ phụ thuộc vào tình huống cần nghiên cứu, lĩnh vực mà bạn muốn nghiên cứu hoặc phương pháp bạn muốn có.

Suy luận suy diễn hoạt động bằng cách làm việc từ tổng quát nhất đến cụ thể hơn. Bạn có thể bắt đầu suy nghĩ về một lý thuyết về một chủ đề quan tâm. Sau đó, nó đi đến một số giả thuyết cụ thể mà bạn muốn thử.

Phương pháp quy nạp sử dụng trong nghiên cứu nhà nước & pháp luật, biểu hiện ở việc:

Về phần mình, phương pháp quy nạp hoạt động theo một cách ngược lại: nó bắt đầu từ cụ thể nhất đến khái quát và lý thuyết rộng nhất. Trong lý luận quy nạp, chúng tôi bắt đầu với một số quan sát và biện pháp cụ thể để đi đến một số kết luận chung.

Hai phương pháp này rất khác nhau và cung cấp các yếu tố khác nhau khi thực hiện một cuộc điều tra. Theo bản chất của nó, phương pháp quy nạp cho phép linh hoạt hơn và cho vay để khám phá, đặc biệt là vào lúc bắt đầu. Phương pháp suy luận gần gũi hơn về bản chất và được định hướng nhiều hơn để chứng minh hoặc xác nhận các giả thuyết.

Mặc dù một số nghiên cứu đặc biệt có vẻ chỉ là suy diễn, như một thí nghiệm được thiết kế để kiểm tra các tác động giả định của một số điều trị hoặc kết quả, hầu hết các nghiên cứu xã hội đòi hỏi cả lý luận suy diễn và lý luận quy nạp.

Trong hầu hết tất cả các nghiên cứu, có khả năng cả hai quá trình đã được sử dụng tại một số điểm. Ngay cả trong các thí nghiệm kín nhất, các nhà nghiên cứu có thể quan sát các mẫu trong thông tin có thể khiến họ phát triển các lý thuyết mới.

Khái niệm về phương pháp quy nạp và phương pháp suy diễn

Phương pháp quy nạp

Lý luận quy nạp là lý luận trong đó các tiền đề được coi là một cách để cung cấp bằng chứng mạnh mẽ cho tính xác thực của một kết luận.

Mặc dù kết luận của một lập luận quy nạp là chắc chắn, nhưng sự thật của kết luận đó trong một lập luận quy nạp có khả năng, dựa trên các bằng chứng được cung cấp..

Nhiều nguồn có thể định nghĩa phương pháp quy nạp là một trong đó các nguyên tắc chung được rút ra từ các quan sát cụ thể.

Trong phương pháp này, khái quát hóa rộng được thực hiện từ các quan sát cụ thể, vì vậy có thể nói rằng nó đi từ cụ thể đến tổng quát. Nhiều quan sát được thực hiện, một mô hình được cảm nhận, một khái quát được thực hiện và một lời giải thích hoặc một lý thuyết được suy ra.

Phương pháp này cũng được sử dụng trong phương pháp khoa học; các nhà khoa học sử dụng nó để hình thành các giả thuyết và lý thuyết. Lý luận suy diễn cho phép họ áp dụng các lý thuyết hoặc giả định vào các tình huống cụ thể. Một ví dụ về lý luận suy diễn có thể như sau:

Tất cả các dạng sống sinh học được biết đến phụ thuộc vào nước lỏng để tồn tại. Do đó, nếu chúng ta phát hiện ra một dạng sống sinh học mới, nó sẽ phụ thuộc vào nước lỏng để tồn tại.

Lập luận này có thể được đưa ra mỗi khi tìm thấy lối sống sinh học và nó sẽ đúng. Tuy nhiên, có thể trong tương lai sẽ có một lối sống sinh học không cần nước lỏng.

Các loại lý luận quy nạp

-Tổng quát hóa

Khái quát hóa xuất phát từ tiền đề về một mẫu mà từ đó đưa ra kết luận về dân số.

Ví dụ: giả sử có 20 quả bóng, có thể có màu trắng hoặc đen, trong một cái lọ. Để ước tính số lượng của nó, một mẫu gồm bốn quả bóng được rút ra - ba màu đen và một màu trắng. Nếu chúng ta sử dụng khái quát quy nạp, có thể kết luận rằng có 15 quả bóng đen và năm quả bóng trắng trong bình.

Tiền đề này có sự thiên vị vì nó lấy một mẫu nhỏ của dân số lớn hơn.

Ví dụ về khái quát hóa
  • Tôi đã gặp một người phụ nữ giàu có, cô ấy khá hời hợt. Chắc chắn tất cả phụ nữ giàu có đều hời hợt..
  • Hôm qua Juan đã gặp chị dâu và không thích anh ta. Chắc chắn aud sẽ làm hài lòng cả gia đình bạn gái của anh ấy.
  • Tôi đọc một cuốn sách của Mario Benedetti mà tôi yêu thích. Tôi sẽ mua tất cả sách của bạn vì tôi chắc chắn bạn sẽ thích chúng.
  • Andrés sống trong một khu phố nghèo và rất hạnh phúc. Điều này có nghĩa là tất cả những người sống trong các khu phố nghèo đều rất hạnh phúc.
  • Hôm qua tôi đã gặp một người phụ nữ mắt xanh xinh đẹp. Tôi nghĩ tất cả phụ nữ mắt xanh nên khá thú vị.
  • Ở Pháp, một số người Hồi giáo cuồng tín tôn giáo đã được tìm thấy. Do đó, tất cả người Hồi giáo phải là những kẻ cuồng tín tôn giáo.

-Tam đoạn luận thống kê

Các tam đoạn luận thống kê bắt nguồn từ một khái quát đến một kết luận về một cá nhân. Ví dụ:

  • Một tỷ lệ Q của dân số P có thuộc tính A.
  • Một cá nhân X là thành viên của P.

Do đó, có một xác suất tương ứng với Q rằng X có A.

Ví dụ về tam đoạn luận thống kê

  1. Hầu hết công nhân ở nông thôn bị cúm.
  2. Juan là một công nhân hiện trường.
  3. Juan có khả năng bị cúm.
  1. Không người phụ nữ nào có thể thở dưới nước.
  2. Thợ lặn thở dưới nước.
  3. Không có thợ lặn là nữ.
  1. Tất cả mèo ngủ.
  2. Tất cả đàn ông ngủ.
  3. Tất cả đàn ông đều là mèo.
  1. 50% các nhà triết học là người Hy Lạp.
  2. Emiliano là một triết gia.
  3. Có 50% cơ hội Emiliano là người Hy Lạp.
  1. Nói chung mọi người ăn kem sô cô la.
  2. Tôi là một người.
  3. Thường thì tôi ăn kem sô cô la.

-Cảm ứng đơn giản

Nó xuất phát từ tiền đề của một mẫu nhỏ đến kết luận về một cá nhân khác:

  • Một tỷ lệ Q của dân số P đã biết có thuộc tính A.
  • Cá nhân tôi là thành viên của P.

Do đó, có một xác suất tương ứng với Q rằng tôi có A.

Ví dụ cảm ứng đơn giản
  • Mẹ tôi đã cho tôi một đôi bông tai và tôi đã bỏ lỡ một. Anh em họ của tôi đã cho tôi một đôi bông tai khác và tôi đã bỏ lỡ một. Bạn trai của tôi đã cho tôi thêm một đôi bông tai và tôi đã bỏ lỡ một. Tôi đề nghị rằng mỗi lần tôi nhận được một đôi bông tai, tôi sẽ mất một.
  • Hôm qua họ đến thăm chúng tôi và mẹ tôi dọn phòng. Hôm nay đến một chuyến thăm khác và mẹ tôi đang làm sạch nó một lần nữa. Điều này có nghĩa là, bất cứ khi nào cô ấy đến thăm nhà, mẹ tôi dọn phòng.
  • Vào thứ hai, Andrea không phải làm việc và thức dậy muộn. Hôm qua anh có ngày nghỉ, và anh thức dậy muộn. Vào Chủ nhật, anh cũng không phải làm việc và một lần nữa anh thức dậy muộn. Tôi đề nghị rằng những ngày mà Andrea không phải đi làm, cô ấy thức dậy muộn.

-Luận cứ từ tương tự

Quá trình này bao gồm việc tính đến các thuộc tính được chia sẻ của một hoặc nhiều thứ và từ đó suy ra rằng chúng cũng chia sẻ các thuộc tính khác. Như vậy:

  • P và Q tương tự như các thuộc tính a, b và c.
  • Nó đã được quan sát thấy rằng đối tượng P có một thuộc tính x.

Vì vậy, Q có lẽ cũng có tài sản x.

Ví dụ về Luận cứ từ tương tự
  • Len là cừu, sữa là gì cho bò.
  • Một tài xế đang ở trên xe buýt, những gì một phi công trên máy bay.
  • Đài phát thanh là để nghe, như tờ báo là để đọc.
  • Ngủ đi ngủ, đói là ăn..
  • Nước mắt là nỗi buồn, tiếng cười là niềm vui.
  • Nằm xuống là ngủ, như ngồi là sofa.
  • Lạnh là nóng, như bóng tối là ánh sáng.
  • Ong là một tổ ong, giống như một con kiến ​​là thuộc địa.
  • Pháp là rượu vang, Colombia là cà phê.
  • Vây là một con cá heo, một bàn tay là một con người.
  • Colombia là đến Bogotá, như Argentina là đến Buenos Aires.
  • Xà phòng là sạch, giống như bụi bẩn là bụi bẩn.
  • Găng tay là bằng tay, như vớ là bằng chân.

-Suy luận thông thường

Một suy luận ngẫu nhiên rút ra kết luận về mối liên hệ nhân quả dựa trên các điều kiện tồn tại của hiệu ứng.

Tiền đề về mối tương quan của hai điều có thể chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa chúng, nhưng các yếu tố khác phải được thiết lập để xác nhận.

Ví dụ về suy luận nhân quả
  • Trong một cuộc điều tra về chứng nghiện rượu, người ta thấy rằng năm đối tượng nghiên cứu có hoàn cảnh sống rất khác nhau. Tuy nhiên, tất cả họ đều nhìn thấy cha mẹ hoặc cha dượng của họ uống rượu thường xuyên trước mặt họ. Vì lý do này, các nhà nghiên cứu kết luận rằng việc nhìn thấy người cha uống rượu thường xuyên là một yếu tố nguyên nhân gây nghiện rượu ở đàn ông trưởng thành.
  • Một nghiên cứu về sự chung thủy giữa các cặp vợ chồng đã quan sát mười cặp vợ chồng (bao gồm cả đồng tính luyến ái và dị tính) với những nền tảng và lịch sử cuộc sống khác nhau. Một số cá nhân trong nghiên cứu lớn lên trong nhà của cha mẹ ly dị hoặc chứng kiến ​​sự không chung thủy của họ. Những người đã không chung thủy với bạn đời của họ, đã lớn lên trong những ngôi nhà mà sự không chung thủy không có chỗ đứng. Nghiên cứu kết luận rằng việc nhìn thấy sự không chung thủy của cha mẹ không phải là yếu tố nguyên nhân gây ra sự không chung thủy ở trẻ em.

-Dự đoán

Một kết luận về một tương lai cá nhân được đưa ra từ một mẫu quá khứ.

Ví dụ dự đoán
  1. Mỗi khi Juan gặp gia đình, anh ấy dành thời gian tuyệt vời.
  2. Juan sẽ gặp gia đình hôm nay
  3. Do đó, bạn sẽ có một thời gian tuyệt vời.
  1. Ana không chung thủy với chồng khi anh ta đi du lịch.
  2. Chồng của Ana đang đi du lịch.
  3. Vì lý do này, Ana sẽ không chung thủy.
  1. Khi tôi đến Paris, tôi đã nghĩ nó thật đẹp.
  2. Ngày mai tôi sẽ đến Paris.
  3. Nó sẽ trông đẹp.
  1. Anh tôi đầu tư vào cổ phiếu và giành được rất nhiều tiền.
  2. Hôm nay tôi sẽ đầu tư vào cổ phiếu.
  3. Kết quả là tôi sẽ kiếm được nhiều tiền.
  1. Khi tôi đến nhà hàng đó, nhiều nhất.
  2. Ngày mai chúng ta đến nhà hàng đó.
  3. Tôi sẽ đi ăn rất nhiều.

Phương pháp suy diễn

Trong quá trình này, lý luận bắt đầu từ một hoặc nhiều câu để đi đến kết luận. Việc khấu trừ kết nối các cơ sở với các kết luận; Nếu tất cả các tiền đề là đúng, các điều khoản rõ ràng và các quy tắc khấu trừ được sử dụng, kết luận phải đúng.

Trong một suy luận, chúng tôi bắt đầu với một lập luận hoặc giả thuyết chung và kiểm tra các khả năng để đi đến một kết luận cụ thể và hợp lý. Phương pháp khoa học sử dụng suy luận để kiểm tra các giả thuyết và lý thuyết.

Một ví dụ về lập luận suy diễn như sau:

  • Tất cả đàn ông đều là phàm nhân.
  • Cá nhân x là đàn ông.

Do đó, cá nhân x là phàm nhân. 

Các loại suy luận

-Luật biệt đội

Một tuyên bố duy nhất được đưa ra và một giả thuyết (P) được đề xuất. Kết luận (Q) được suy ra từ lập luận đó và giả thuyết của nó:

  • P → Q (tuyên bố điều kiện)
  • P (giả thuyết được đề xuất)
  • Q (kết luận được suy luận)

Vì lý do này, có thể nói rằng:

  • Nếu một góc thỏa mãn 90 ° < A < 180 °, entonces A es un ángulo obtuso.
  • A = 120 °

A là một góc tù.

Ví dụ về luật tách ra
  • Nếu anh trai tôi 19 tuổi, còn em gái tôi 21 tuổi, còn tôi lớn hơn anh trai tôi và nhỏ hơn em gái tôi thì tôi 20 tuổi..
  • Nếu có năm người trong gia đình tôi và 3 người trong số họ là phụ nữ, thì hai người trong số họ là đàn ông.
  • Nếu tôi phải mua 100 bánh sô cô la và vani, và tôi đã có 60 sô cô la, thì tôi cần 40 vanilla.
  • Nếu tổng tất cả các góc của một tam giác bằng 180 ° và tôi có hai góc là 30, thì góc thứ ba sẽ là 120 °.

-Luật của tam đoạn luận

Trong luật này, hai đối số có điều kiện được thiết lập và một kết luận được hình thành bằng cách kết hợp giả thuyết của một đối số với kết luận của một đối số khác. Ví dụ:

  • Nếu Pedro bị ốm, anh ấy không đến trường.
  • Nếu Pedro không đến trường, nhiệm vụ sẽ bị mất.

Vì vậy, nếu Pedro bị bệnh, nhiệm vụ sẽ bị mất.

Ví dụ về tam đoạn luận
  1. Tất cả phụ nữ đều đẹp.
  2. Claudia là một phụ nữ.
  3. Claudia thật đẹp.
  1. Một số động vật có vú bơi.
  2. Tôi sợ động vật bơi.
  3. Tôi sợ một số động vật có vú.
  1. Tôi thích mọi thứ sô cô la có.
  2. Bánh có sô cô la.
  3. Tôi thích bánh.
  1. Không có con người có thể bay.
  2. Jaime là một con người.
  3. Jaime không thể bay.
  1. Tất cả những con chó đều biết sủa.
  2. Lucas là một con chó.
  3. Lucas biết sủa.
  1. Chủ nhật nào tôi cũng buồn ngủ.
  2. Hôm nay là chủ nhật.
  3. Hôm nay tôi buồn ngủ.
  1. Xe điện đắt tiền.
  2. Renault ra mắt một chiếc xe điện ra thị trường.
  3. Chiếc xe hơi đắt tiền.
  1. Tất cả các hành tinh đều có một hạt nhân.
  2. Sao Thổ là một hành tinh.
  3. Sao Thổ có hạt nhân.
  1. Trời nóng ở mọi thành phố Peru.
  2. Lima là một thành phố ở Peru.
  3. Trời nóng ở Lima.

-Luật đối ứng

Luật này quy định rằng, trong một điều kiện, nếu kết luận là sai thì giả thuyết cũng phải sai. Một ví dụ về luật này sẽ là:

  • Nếu trời mưa, thì không có mây trên bầu trời.
  • Không có mây trên bầu trời, sau đó trời mưa.
Ví dụ về luật của contrarrecíproco
  1. Nếu cô ấy cười, cô ấy buồn.
  2. Cô ấy buồn, rồi cô ấy cười.
  1. Nếu trời mưa, trò chơi bị hủy
  2. Trận đấu đã bị hủy, vì vậy trời không mưa
  1. Nhiều nhất là khi tôi bị căng thẳng.
  2. Tôi không căng thẳng, vì vậy tôi không ăn nhiều.

Sự khác biệt giữa cả hai phương pháp

Sự khác biệt chính giữa hai phương pháp là cách tiếp cận nghiên cứu. Trong khi phương pháp suy luận được định hướng để kiểm tra các lý thuyết, thì phương pháp quy nạp được định hướng nhiều hơn theo hướng tạo ra các lý thuyết mới phát sinh từ dữ liệu hoặc thông tin.

Nói chung, phương pháp quy nạp gắn liền với thông tin định tính vì nó thường chịu sự chủ quan, nó cởi mở hơn, quy nạp, hướng nhiều hơn vào quy trình, so sánh và mô tả là tường thuật.

Mặt khác, phương pháp suy luận thường được kết hợp với các phương pháp nghiên cứu định lượng, như suy luận, tính khách quan, ước lượng số và can thiệp thống kê. Nó cũng thường được định hướng kết quả nhiều hơn.

Một phương pháp suy luận thường bắt đầu bằng một giả thuyết, trong khi quy nạp thường sẽ sử dụng các câu hỏi nghiên cứu để bao quanh hoặc tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu.

Đối với các phương pháp suy luận, sự nhấn mạnh thường tập trung vào quan hệ nhân quả, trong khi ở đối tác của nó, ý tưởng là tập trung vào khám phá các hiện tượng mới hoặc khám phá những quan điểm mới về các hiện tượng đã được nghiên cứu.

Điểm quan trọng nhất khi xem xét việc sử dụng phương pháp quy nạp hoặc phương pháp suy diễn là tìm hiểu mục đích chung của cuộc điều tra.

Sau đó, các phương pháp thích hợp nhất nên được xem xét để kiểm tra một giả thuyết nhất định, để khám phá một ý tưởng mới hoặc mới nổi trong ngành học hoặc để trả lời các câu hỏi nghiên cứu cụ thể..

Các dự án có thể có một số cách tiếp cận và quan điểm; phương pháp được sử dụng là yếu tố quyết định trong góc độ điều tra.

Tài liệu tham khảo

  1. Khấu trừ & cảm ứng. (2006) Cơ sở. Lấy từ socialresearchmethods.net.
  2. Suy luận suy diễn vs. Lý luận quy nạp (2015) Văn hóa. Lấy từ lifecience.com.
  3. Phương pháp tiếp cận quy nạp và suy diễn (2013) Được phục hồi từ deborahgabriel.com.
  4. Phương pháp tiếp cận quy nạp (lý luận quy nạp) Lấy từ nghiên cứu-methology.net.
  5. Phương pháp tiếp cận suy diễn (Lý luận suy diễn) Lấy từ nghiên cứu-methology.net.
  6. Suy luận Lấy từ Wikipedia.org.
  7. Lý luận quy nạp. Lấy từ Wikipedia.org.