Quân dân ta có hành động như thế nào khi Pháp tấn công vào cửa biển Thuận An

Tàu Pháp tại cửa Thuận An ngày 18.8.1883, nguồn Chiến tranh Bắc Kỳ của tác giả L. Huard, Paris 1887

Quân Pháp tấn công cửa biển Thuận An

Ngày 16.8.1883, Pháp cho quân tiến hành trinh sát các công sự phòng ngự của triều đình Huế tại cửa biển Thuận An. Theo thông tin tình báo quân Pháp gửi về, các công sự của triều đình Huế ở trong tình trạng tốt, ngoài ra còn có công sự phòng ngự trên đỉnh các ngọn núi hướng ra biển. Lính khố vàng cũng được lệnh đào các vị trí ẩn nấp trên bãi biểnvà đào hào lũy. Triều đình Huế cũng cho dựng đập phòng ngự nhằm chặn bước tiến của thủy quân Pháp ở cửa Thuận An.

Tối 16.8, tàu thiết giáp Bayard, tuần dương hạm Château Renaud, Annamite và Lynx tập kết tại cửa Thuận An. Ngày hôm sau, tiếp đến là các tàu thiết giáp Atalante, pháo thuyền Vipère và tàu hộ tống Le Drac. Tàu Annamite chở 600 lính hải quân đánh bộ từ Nam kỳ, 100 lính khổ đỏ Nam kỳ, một dàn pháo cùng 100 binh phu.Các tàu chiến của Pháp đã sẵn sàng tấn công, được lệnh néo im (tàu nằm theo một phương nhất định, thường bằng cách thả hai neo đằng mũi và đằng lái) trong suốt chiều ngày 18.8 trước cửa Thuận An.

Vào lúc 4 giờ 30 phút sáng ngày 18.8, lệnh khai hỏa được đưa ra. Quân lính triều đình Nguyễn ào lên tấn công nhưng vấp phải đạn đại bác của quân Pháp. Khói pháo và bụi bay mù mịt. Hải đồn của triều đình Nguyễn bốc cháy. Quân triều đình An Nam chống trả quyết liệt, nhiều đại bác của họ bắn đi quá xa, vượt qua cả vị trí tàu chiến Pháp, tàu Bayard bị trúng đạn nhiều lần. Tàu Vipère bị trúng đạn ở vị trí gần hải đồn phía Bắc, đạn quân triều đình bắn liên tiếp quanh tàu. Tàu này tuy bị trúng đạn nhưng vẫn tiếp tục khai hỏa dưới sự chỉ huy của Trung úy Lejard (sau đó được phong Đại úy). Các đợt bắn pháo kết thúc khi đêm xuống.

Ngày 19.8, trận đánh tiếp tục và kéo dài trong 1 giờ. Lúc 5 giờ 30 phút sáng ngày 20.8, quân Pháp tiếp tục tấn công và 15 phút sau, trong giai điệu của bài quốc ca LaMarseillaise, các toán quân Pháp dưới sự chỉ huy của Đại úy hải quân Parrayon rời tàu đổ bộ lên bãi biển. Số quân đổ bộ gồm hai phân đội và một số đại đội lính đổ bộ của hải đội. Lúc 6 giờ 10 phút, dưới sự yểm trợ của hai tàu chiến Lynx và Vipère, được giao nhiệm vụ quét sạch bãi biển, lính Pháp đổ bộ lên bãi biển. Quân triều đình Huế từ dưới hào lũy xông lên chiến đấu quyết tâm đẩy lùi quân Pháp, nhưng bất chấp mọi nỗ lực của họ, các hải đồn tại cửa biển nhanh chóng bị quân Pháp bao vây.

Trung úy hải quân Poidloue dẫn đầu lính hải quân của tàu Atalante cùng dàn pháo gồm hai khẩu tiếp tục truy đuổi quân triều đình Huế. Với sự yểm trợ của một toán lính hải quân đánh bộ, chỉ huy Parayon hành quân tiến về hải đồn chính, nơi đặt khẩu pháo đại bác cỡ nòng 65 mm và bắt đầu cuộc tấn công.

Quân Pháp nhanh chóng giành chiến thắng. Ba đại đội gồm 250 lính cùng với 100 lính khố đỏ Nam kỳ đặt dưới sự chỉ huy của các Đại úy Radiguet, Mouniet và Sorin.

Vào lúc 8 giờ sáng ngày 20.8, toàn bộ quân Pháp đã đổ bộ lên bờ, thủy thủ và lính hải quân đánh bộ tập hợp lại cùng với số lính Pháp đổ bộ trước đó hiện đóng quanh các hải đồn. 9 giờ sáng, Đại uý hải quân Parrayon chỉ huy toàn bộ quân Pháp, cùng với hai sĩ quan Gourdon, Olivieri thuộc tàu chiến Bayard và De la Bastide là những người đầu tiên đi vào các hải đồn và vào lúc 9 giờ 5 phút, cờ Pháp bay trên các công sự của quân triều đình Huế. Trung úy hải quân đánh bộ Curzon bị thương trong khi có đến 600 quân triều đình Huế bị chết. Chiều ngày 20.8, hai tàu Vipère và Lynx vượt qua bãi phòng ngự dựng chặn ở cửa Thuận An và vấp phải đạn pháo bắn trả của quân triều đình Huế đang cố thủ trong số hải đồn chưa bị chiếm tiếp tục chiến đấu ngoan cường. Cùng với hai chiến thuyền Bayard và Château Renaud, hai tàu Vipère và Lynx nhanh chóng dập tắt những loạt đạn bắn trả cuối cùng trong vô vọng của quân triều đình Huế. Đêm và sáng hôm sau (ngày 21.8), quân Pháp chiếm được toàn bộ hải đồn phòng thủ ở cửa biển Thuận An. Vài ngày sau, triều đình Huế cử đại thần phụ trách ngoại giao đến xin ngừng giao tranh và các thương lượng hòa ước bắt đầu.

Về cuộc tấn công cửa biển Thuận An, Đại Nam thực lục chép: “Nước Pháp phái đem tàu binh (8 chiếc) đánh lấy thành Trấn Hải cửa biển Thuận An. (Từ ngày 15 đến ngày 18, đánh bắn suốt ngày)[ii], quan giữ cửa biển là Lê Sỹ (Hữu quân), Lê Chuẩn (Thống chế), Lâm Hoành (Tham tri), Nguyễn Trung (Chưởng vệ) đều chết trận”[iii].

Sau khi hay tin quan quân thua trận, thành bị mất, triều đình Huế buộc phải nghị hòa. Vị đại thần được phái đi ngoại giao xin giảng hòa lần này là Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hợp. Thực lục chép: “Vua sai triệu gia Hiệp biện Đại học sĩ hưu trí là Trần Đình Túc (ở xã Bàn Môn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên) cho lĩnh Thượng thư Bộ Lễ sung chức Toàn quyền đại thần; Thượng thư Bộ Lại sung Cơ mật viện đại thần là Nguyễn Trọng Hợp làm Phó, để đến sứ quán bàn định hoà ước”[iv]. Tuy nhiên, sau đó Nguyễn Trọng Hợp từ cửa Thuận An về nói nước ấy hẹn đến sứ quán Kinh thành định hoà ước[v].

Tàu thiết giáp Bayard, nguồn Wikipédia

Hòa ước Harmand (hay còn gọi là Hòa ước Quý Mùi)

Tờ Le Temps (Thời đại) tiếp tục trích dẫn báo cáo của chuẩn bộ đô đốc Courbet trên tờl’Indépendant de Saigon (Người độc lập Sài Gòn) đề cập đến thương lượng hòa ước. Theo bản báo cáo của Courbet, khoảng 3 giờ sáng đêm 20 và rạng ngày 21.8, Harmand khi đó đã ở trên đất liền của cửa Thuận An được thông báo là triều đình Huế đã cử đại thần phụ trách ngoại giao đến gặp ông ta. Cùng đi với vị đại thần là một linh mục Cơ đốc giáo, giữ vai trò làm người thông ngôn. 6 giờ sáng ngày 21.8, hai người đến chỗ giàn pháo, nơi Harmand đang đóng quân và chứng kiến cảnh quân Pháp tấn công chiếm các hải đồn phía Nam.

Các thỏa thuận thương lượng bắt đầu, trước tiên là ngưng giao chiến trong vòng 48 giờ, bắt đầu từ ngày 22.8. Triều đình Huế xin thương lượng và đồng ý ký bản hòa ước với nước Pháp. Ngay từ ban đầu, Harmand tuyên bố không ký hòa ước ở bất kỳ nơi nào, ngoài nơi ở của phái đoàn Pháp tại Huế và ông ta muốn ký hòa ước với chính người kế vị vua Tự Đức. Ngày 22.8, Harrmand lên tàu hơi nước đi tới Huế, cùng với ông ta có Louis Eugène Palasne de Champeaux, đại diện ngoại giao của chính quyền Pháp ở Nam kỳ. Khi tới Huế, Harmand và Champeaux đến ở tại khu nhà của phái đoàn Pháp, thảo luận các điều khoản của hòa ước, nhằm đảm bảo quyền lợi của nước Pháp trước sự thuần phục hoàn toàn của triều đình Huế. Chính Harmand là người áp đặt các điều khoản của hòa ước, không một nhân vật ngoại giao nào của Pháp được tham vấn. Hòa ước được ký chóng vánh trong vòng vài ngày. Điều kiện đầu tiên là ngừng giao chiến, triều đình Huế phải rút quân hoàn toàn khỏi 12 đồn lũy dựng dọc sông từ Thuận An đến Huế. Các khẩu pháo phải bị tháo dỡ, súng đạn phải vứt xuống sông, hai tàu chiến D’Entrecasteaux và Scorpion mà Pháp tặng cho vua Tự Đức năm 1874 phải trả lại cho đô đốc Courbet.

Điều khiến cho thương lượng giữa triều đình Huế và quân Pháp diễn ra dễ dàng là do triều đình Huế, trước đó rất tin vào sự giúp đỡ của triều đình nhà Thanh nhưng nay đã hiểu ra rằng họ bị bỏ rơi. Những chiến hạm được hứa hẹn gửi từ Hương Cảng (Hồng Kông) đến cứu viện quân triều đình Huế đã không bao giờ xuất hiện. Một chú ý khác đáng quan tâm trong bản báo cáo của Đô đốc Courbet góp phần vào thành công của quân Pháp. Đó là quân Pháp đã chọn thời điểm tấn công vào những lúc trời không quá nóng (sáng sớm), trừ các đợt tấn công ngày 20.8 để tránh gây mệt mỏi và kiệt sức cho quân lính. Ngoài ra, theo ghi chép trong Đại Nam thực lục “Lúc bấy giờ tỉnh cũ tỉnh mới Hải Dương cũng bị mất, chợt báo tin đến, cho nên việc nghị hoà càng quyết định”[vi].

Sau khi chiếm được cửa Thuận An, toàn bộ số quân Pháp đóng trong các hải đồn chiếm được, được đặt dưới sự chỉ huy của Parrayon, Đại úy hải quân chỉ huy tàu Bayard.

[i] Hồ sơ 10 H 5, Lưu trữ Bộ quốc Phòng Pháp (SHD).

[iii]Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 8, tr.603.

[iv]Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 8, tr.604.

[v]Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 8, tr.604.

[vi]Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (Viện Sử học dịch), Nxb Giáo dục, H.2004, tập 8, tr.604.

Bởi Trang Trang

Giới thiệu về cuốn sách này

Page 2

Bởi Trang Trang

Giới thiệu về cuốn sách này

Trận Cửa Thuận An (20 tháng 8 năm 1883) là trận giao tranh giữa quân Pháp và nước Đại Nam một năm trước khi Chiến tranh Pháp-Thanh (tháng 8 năm 1884 tới tháng 4 năm 1885) bùng nổ. Trong trận này lực lượng thủy quân của Pháp dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Amédée Courbet tấn công các pháo đài ven biển ở cửa Thuận An và chiếm đóng cửa ngỏ then chốt lên kinh đô Huế.

Trận cửa Thuận AnMột phần của Chiến tranh Pháp xâm lược Đại Nam
Tàu chiến Pháp gần cửa Thuận An, 18 tháng 8 năm 1883Thời gianĐịa điểmKết quả
Tháng 8 năm 1883

gần Huế, miền trung Việt Nam

Pháp chiến thắng
Tham chiến
Pháp Tập tin:Ensign of the Nguyen Dynasty (1802-85).png Thủy quân triều NguyễnChỉ huy và lãnh đạo Đô đốc Amédée Courbet Không rõThương vong và tổn thất 12 lính bị thương khoảng 1.000 chết và bị thương

Khi được lệnh đánh Thuận An, chiến thuyền Pháp do Đô đốc Courbet chỉ huy bấy giờ đang neo ở Vịnh Hạ Long, Bắc Kỳ liền kéo vào nam. Hạm đội Pháp gồm các chiến thuyền Bayard, Atalante, Chateau-Renaud, Annamite, Drac, cùng với 2 hộ tống hạm là Lynx và la Vipère. Ba tàu chiến chở quân đổ bộ là Bayard và Atalante. Tàu Chateau-Renaud chuyển vận 2 đại đội thủy binh, một đại đội lính tập người Việt (dưới quyền chỉ của các sĩ quan đại úy Pháp Monniot, Sorin và Radiguet một sĩ quan chỉ huy doanh trại thống đốc), hai đội trọng pháo do đại úy hải pháo Luce (sĩ quan tiếp vận của thống đốc) chỉ huy và 100 binh phu. Tổng cộng lực lượng Pháp có quân số khoảng 1000. Ngày 16 tháng 8 năm 1883, đoàn tàu Pháp vào đến Đà Nẵng, tới ngày 18 thì thả neo ở ngoài cửa Thuận An.[1]

Ngày 20 Tháng 8, vào lúc 5 giờ sáng, Courbet ra lệnh khai hỏa bắn phá các hải đồn phòng thủ cửa biển Thuận-An. Nửa giờ sau, đội thủy quân đầu tiên do Poidloue, phó hạm trưởng tàu Atalante chỉ huy đổ bộ lên bờ và tiến chiếm ngay 2 hải đồn.

Đến 8 giờ sáng thì tất cả thủy quân Pháp đã lên đến bờ, kéo sâu vào làng và bao vây đại hải đồn Trấn Hải. Quân Pháp có một sĩ quan và 5 lính bị thương. Quân Việt bắn trả suốt ngày hôm đó, nhưng do vũ khí quá kém nên đến cuối ngày thì các pháo lũy phòng thủ đều bị hỏa lực Pháp phá hủy; lực lượng phòng thủ tổn thất nhiều mà quân Pháp không bị thiệt hại gì. Các hải đồn ở đảo Cây Dừa và ở mặt phía Nam chống trả mạnh mẽ nhưng cũng bị tàu chiến và hải quân Pháp bắn hạ vào buổi sáng ngày 21 Tháng 8. Cuộc đánh chiếm Thuận An hoàn tất. Phía quân binh triều đình Huế có 600 tử vong và vô số bị thương. Các quan phòng giữ các hải đồn như quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần Thúc Nhẫn nhảy xuống sông tự tử. Quan thương bạc của triều đình Huế là Nguyễn Trọng Hợp yêu cầu ngưng chiến nhưng chỉ được quân Pháp chấp thuận với điều kiện là quan binh Đại Nam phải rút khỏi tất cả thành trì phòng thủ cửa biển Thuận-An và các đồn lũy dọc trên tuyến đường Thuận An lên kinh thành Huế. Ngoài ra Pháp cũng đòi lại 2 chiến thuyền Scorpion và D'Entrcasteaux trước tặng cho triều đình nhà Nguyễn hồi năm 1874.

Quân Pháp chiếm được cửa Thuận An (Huế). Dưới sức ép quân sự của Pháp, ngày 25 tháng 8 năm 1883, nhà Nguyễn phải chấp thuận ký hòa ước với Pháp, theo đó chấp thuận sự bảo hộ của Pháp tại Bắc Kỳ.

Tuy nhiên các quan chủ chiến của nhà Nguyễn vẫn còn ở miền Bắc, và quân Cờ đen còn rất mạnh, nên chiến sự tiếp diễn. Cuộc tấn công của quân Pháp vào tháng 8 năm 1883, dưới thời chính phủ Jules Ferry ở Paris, khiến cuộc chiến tranh Pháp-Thanh trở nên không thể tránh khỏi, và gieo mầm cho nổi dậy của phong trào Cần Vương tháng 7 năm 1885.[2]

  • Hòa ước Quý Mùi, 1883
  •  

    Bayard

  •  

    Atalante

  1. ^ Schreiner. Tr 359-361
  2. ^ Cahu, 10–18; Huard, 103–22; Loir, 13–22; Thomazi, Conquête, 165–6; Histoire militaire, 62–4

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trận Cửa Thuận An.
  • Barbier, H., La division navale d'Extrême-Orient (1870/1940) (Nantes, 2006)
  • Berrong, R. M., In Love with a Handsome Sailor (Toronto, 2003)
  • Cahu, T., L'amiral Courbet en Extrême-Orient: notes et correspondance (Paris, 1896)
  • Duboc, E., Trente cinq mois de campagne en Chine, au Tonkin (Paris, 1899)
  • Eastman, L., Throne and Mandarins: China's Search for a Policy during the Sino-French Controversy (Stanford, 1984)
  • Ganneron, A., L'amiral Courbet, d'après les papiers de la Marine et de la famille (Paris, 1885)
  • Gervais, E., L'amiral Courbet (Paris, undated)
  • Huard, L., La guerre du Tonkin (Paris, 1887)
  • Lerner, M., Pierre Loti (New York, 1974)
  • Loir, M., L'escadre de l'amiral Courbet (Paris, 1886)
  • Lonlay, D. de, Au Tonkin, 1883–1885 (Paris, 1886)
  • Lonlay, D. de, L'amiral Courbet et le « Bayard »: récits, souvenirs historiques (Paris, 1886)
  • Loti, Pierre, Figures et choses qui passaient (Paris, 1931)
  • Lung Chang [龍章], Yueh-nan yu Chung-fa chan-cheng [越南與中法戰爭, Vietnam and the Sino-French War] (Taipei, 1993)
  • Schreiner, Alfred. Abrégé de histoire d'Annam. Sài Gòn: Impremerie Coudurier & Montégout, 1906.
  • Thomazi, A., La conquête de l'Indochine (Paris, 1934)
  • Thomazi, A., Histoire militaire de l'Indochine française (Hanoi, 1931)
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trận Cửa Thuận An.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Trận_Cửa_Thuận_An&oldid=67596289”

Video liên quan

Chủ đề