Sở cầu bất đắc khổ là gì

NỘI DUNG BÀI VIẾT

  • Bát khổ là gì?
    • Sinh khổ
    • Lão khổ
    • Bệnh khổ
    • Tử khổ
    • Ái biệt ly khổ
    • Sở cầu bất đắc khổ
    • Oán tắng hội khổ
    • Ngũ uẩn khổ
  • Triết lý sâu sắc của Khổ

Bát khổ là gì?

Bát khổ là tám nỗi khổ xét theo sự việc, hiện tượng, thuộc loại Khổ khổ trong Tam khổ. Quan niệm khổ đau trong đạo Phật chính là kim chỉ nam dẫn lối cho con người nhận thức được sự khổ, cũng là cách giải thoát họ khỏi những nỗi khổ mà từ khi mới thọ thai đến khi chết đi.

Sở cầu bất đắc khổ là gì
Bát khổ là tám nỗi khổ xét theo sự việc, hiện tượng, thuộc loại Khổ khổ trong Tam khổ.

Nhân sinh quan Phật giáo quan niệm, "Đời là bể khổ", tức là con người ai ai cũng phải chịu bát khổ, gồm:

Sinh khổ

Sinh khổ có nghĩa là con người khổ từ sự sinh sống. Người ta khổ từ khi còn chỉ là bào thai trong bụng mẹ, con phải nằm trong bụng mẹ chật hẹp, ấy là khổ. Mẹ mang nặng đẻ đau biết bao khổ sở, ấy là khổ. Sinh con ra thì bố mẹ vất vả lao động, nuôi lớn con thành người, ấy cũng là khổ. Khi trưởng thành phải làm việc kiếm tiền để sinh sống, ấy cũng là khổ.

Vì mới sinh ra đã phải nếm trải đau khổ, mới có câu thơ của Nguyễn Gia Thiều rằng:

"Thảo nào khi mới chôn nhau

Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra

Khóc vì nỗi thiết tha sự thế

Ai bày trò bãi bể nương dâu".

Lão khổ

Lão khổ là sự khổ trong tuổi già, bởi khi đến tuổi già thì thân thể trở nên ốm yếu, bệnh tật, mắt mờ, tai điếc,... Dù khi trẻ có là một thanh niên cường tráng hay một thiếu nữ mạnh mẽ, uyển chuyển thì khi đối mặt với tuổi già cũng phải tuân theo quy luật vô thường.

Sở cầu bất đắc khổ là gì
Hồi trẻ tự lập việc gì cũng có thể làm nhưng khi già yếu phải nằm một chỗ, nhờ con cháu chăm lo, nuôi dưỡng, thậm chí còn bị con cháu xa lánh, hắt hủi, đuổi đi.

Khi già tâm trí lú lẫn, lẩn thẩn, khi hỏi ăn cơm chưa thì nói là chưa vì đã quên rồi, nặng tai nên hỏi chuyện A lại trả lời vấn đề B,... Hồi trẻ tự lập việc gì cũng có thể làm nhưng khi già yếu phải nằm một chỗ, nhờ con cháu chăm lo, nuôi dưỡng, thậm chí còn bị con cháu xa lánh, hắt hủi, đuổi đi. Chính hành động, thái độ thiếu cảm thông, xa lánh của người trẻ đã khiến người già chịu nhiều tủi nhục, khổ sở, vì thế, tuổi già vừa buồn tủi, vừa thật khổ sầu.

Bệnh khổ

Con người phải chịu đau đớn, khổ sở khi mắc bệnh, khổ về thể xác và tinh thần. Bệnh khổ có hai loại:

Thân bệnh: Thân bệnh là tất cả những chứng bệnh con người mắc phải, đều do Tứ đại (Địa - Phong - Thủy - Hỏa) không điều hòa mà phát sinh. Nếu mắc thân bệnh mà chữa trị tốn kém, không có tiền khám bệnh thì con người lại càng khổ hơn.

Tâm bệnh: Tâm bệnh là bệnh về tâm lý, tâm thần, là do trong lòng ôm ấp suy nghĩ bi ai, khổ não, tuyệt vọng mà sinh thành. Đau đớn ở thể xác có thể chữa khỏi, nhưng nỗi sầu đau ở tâm tư thì khó mà chữa trị được.

Tử khổ

Khi sắp chết thì con người sợ hãi, ngạt hơi, khó thở, khi chết đi thì thân xác phân hủy, hôi tanh, không còn hình thù. Tử khổ chính là như vậy, phàm là con người thì dù có là bậc đế vương, quý tộc hay phàm phu tục tử cũng phải trải qua cái chết, không ai có thể thoát khỏi bàn tay tử thần. Tử khổ có hai loại là:

Bệnh tử: Chết vì bệnh, mạng tận mà phải chết.

Ngoại duyên: Vì gặp ác duyên mà chết, chẳng hạn như bị tai nạn giao thông, bị chết đuối, bị lửa thiêu, bị sát hại,... mà chết.

Ái biệt ly khổ

Ái biệt ly khổ là khi yêu mà phải chia lìa thứ mình yêu, để cho tâm trí ngày ngày đem lòng thương nhớ, phải chịu khổ đời đời kiếp kiếp. Ái biệt ly khổ gồm hai loại:

Sở cầu bất đắc khổ là gì
Ái biệt ly khổ là khi yêu mà phải chia lìa thứ mình yêu, để cho tâm trí ngày ngày đem lòng thương nhớ, phải chịu khổ đời đời kiếp kiếp.

Sinh ly: Khổ sinh ly là khổ vì phải chia lìa nhau khi còn sống. Hoàn cảnh chiến tranh là khi ta thấy rõ điều này nhất, khi chồng phải rời xa vợ đến nơi chiến trận, con xa bố, em mất anh,... người đi sầu thảm, kẻ ở nhớ thương. Hoặc khi hai người yêu nhau tha thiết, nay vì cha mẹ hai bên ngăn cấm mà phải chia lìa, suốt đời không thể quên nhau, cứ nhớ tới là tâm trí lại sầu não, trái tim lại đau đớn là vậy.

Tử biệt: Tử biệt là khổ vì phải chia lìa nhau khi chết, vì cái chết mà phải khổ đau. Người này tuổi còn xuân, mới cưới vợ đã mắc bệnh mà qua đời, con vừa sinh ra đã chẳng may bệnh rồi chết, hay các em bé mồ côi phải sống ở cô nhi viện vì cha mẹ qua đời,... Nỗi đau vì cái chết đem lại quả thực không gì kể xiết.

Sở cầu bất đắc khổ

Sở cầu bất đắc khổ hay cầu bất đắc khổ là con người khổ khi không toại nguyện vọng, khao khát, ước vọng của bản thân. Trong cuộc đời, con người có rất nhiều khát vọng, ươc mơ nhưng không phải lúc nào cũng thành hiện thức. Chẳng hạn, nghèo thì mong giàu, xấu xí thì mong xinh đẹp,... ngàn ước vọng cầu như thế nên nếu không toại thì tạo thành nỗi khổ. Con người ham muốn vô biên giới thành bản năng khó chối bỏ, nên cứ thế mà khổ mãi không nguôi.

Oán tắng hội khổ

Oán tắng hội khổ là sự khổ về oan gia hội ngộ, tức là con người phải tiếp xúc với thứ hoặc người mình không thích, ghét hận nên khổ.

Không được ở bên với người mình yêu thương đã khổ, nhưng phải gần gũi, làm việc với người mình không ưa, oán hận, gây ức chế thì cũng khổ không kém. Hoặc chẳng hạn gia đình bất hòa, hay cãi cọ, mâu thuẫn, thì ấy cũng là đau khổ.

Ngũ uẩn khổ

Ngũ uẩn khổ hay ngũ uẩn xí thanh khổ, ngũ ấm thạnh khổ là sự khổ về năm ấm, tức là ngũ uẩn - sắc, thụ, tưởng, hành, thức trong cơ thể xung đột. Có thể hiểu, đây là nói về sự khổ của THÂN và TÂM.

Ngũ uẩn khổ bao quát chính 7 loại khổ trước, THÂN thì sinh lão bệnh tử, TÂM thì phiền não, lo âu, trăm điều uẩn ức.

Triết lý sâu sắc của Khổ

Khổ (chữ Hán: 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là khái niệm quan trong trong nhà Phật, cũng là cơ sở của Tứ diệu đế. Khổ xuất phát từ ngũ uẩn, chịu quy luật của vô thường, con đường thoát khổ là Bát chính đạo.

Sở cầu bất đắc khổ là gì
Khổ xuất phát từ ngũ uẩn, chịu quy luật của vô thường, con đường thoát khổ là Bát chính đạo.

Trong Tứ diệu đế, chân lý thứ nhất Khổ đế nói về tính chất của khổ như sau: "Sinh là khổ; già là khổ; bệnh là khổ; chết là khổ; lo lắng, than thở, buồn rầu, tuyệt vọng là khổ; không đạt gì mình ưa thích là khổ; nói tóm lại: mọi thứ dính líu đến Ngũ uẩn là khổ."

Phật giáo chỉ ra bản chất của khổ, giúp con người hiểu thế nào là khổ để không rơi vào trạng thái tuyệt vọng, để khi đối mặt với đau khổ trong cuộc sống hiện thực thì con người biết cách sống tích cực. Khổ đau của con người không có từ ngữ nào diễn tả hết, ngoại trừ câu nói đúc kết rằng: "Đời là bể khổ".

Bên cạnh Bát khổ còn vô số nỗi khổ khác đang chi phối kiếp này của chúng sinh, tạo ra nỗi khổ không cùng. Nỗi khổ mênh mông ấy tuy có khác biệt, nhưng đều chung một gốc là bởi sự vô mình. Tức là vì vô minh, vì ngu si, không rõ chân tướng về thế giới và chính thân mình mà khổ.

Sở cầu bất đắc khổ là gì
Bên cạnh Bát khổ còn vô số nỗi khổ khác đang chi phối kiếp này của chúng sinh, tạo ra nỗi khổ không cùng. Nỗi khổ mênh mông ấy tuy có khác biệt, nhưng đều chung một gốc là bởi sự vô mình.

Đức Phật vì không thể nhìn chúng sinh chịu khổ, nên Ngài đã xuất gia, tìm ra phương pháp tu tập chân chính để con người có thể giải thoát khỏi nỗi khổ về vật chất và tinh thần. Ngài đã ngộ ra rằng, nguyên nhân của mọi sự khổ đau là do vô minh mà thành.

Người Phật tử phải thành tâm tu tập Phật pháp, như thế mới biết dùng trí tuệ suy tư, nhận thức bản chất khổ đau, nhìn ra chân tướng vạn pháp, chuyên tâm tu hành theo triết lý cao đẹp của nhà Phật. Như thế nỗi khổ mới tiêu hao dần, khiến cho tâm thanh tịnh, đạt được hạnh phúc an yên, đến khi an lạc tuyệt đối Niết Bàn.

Tứ đại giai không trong đạo Phật

Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là một khái niệm quan trọng của Phật giáo, là cơ sở của Tứ diệu đế. Khổ là một trong ba tính chất của sự vật và được đúc kết trong câu nhận định Đời là bể khổ.

Không phải chỉ là những cảm thụ khó chịu mới là Khổ. Khổ dùng để chỉ tất cả mọi hiện tượng vật chất và tâm thức, xuất phát từ Ngũ uẩn, chịu dưới quy luật của sự thay đổi và biến hoại. Như thế tất cả những điều an lạc đang có cũng là khổ vì chúng sẽ hoại diệt. Khổ xuất phát từ Ái (sa. tṛṣṇā) và con đường thoát khổ là Bát chính đạo..

Chân lý thứ nhất - Khổ đế - của Tứ diệu đế nói về tính chất của khổ như sau:

Sinh là khổ; già là khổ; bệnh là khổ; chết là khổ; lo lắng, than thở, buồn rầu, tuyệt vọng là khổ; không đạt gì mình ưa thích là khổ; nói tóm lại: mọi thứ dính líu đến Ngũ uẩn là khổ.

Sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tằng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ uẩn xí thạnh khổ.

Xét theo nguyên nhân và mức độ gây khổ thì có tam khổ (ba loại khổ), còn nếu xét theo hình thức sự việc thì có bát khổ (tám loại khổ).[1]

Tam khổ

Tam khổ là ba nỗi khổ xét theo nguyên nhân và mức độ gây khổ, gồm:

  1. Khổ khổ (sa. duḥkha-duḥkha) Nghĩa là khổ vì những sự khổ của thế tục, chẳng hạn khổ vì đói khát, khổ vì phải trải nạn chiến tranh. Đây là mức độ khổ thấp nhất mà ai cũng cảm nhận được.[2]
  2. Hoại khổ (sa. vipariṇāma-duḥkha) Nghĩa là khổ vì sự thay đổi. Ở cấp độ này, ngay cả những kinh nghiệm tưởng có vẻ khoái lạc thì cũng là khổ. Sở dĩ con người cảm thấy các kinh nghiệm đó là vui sướng là bởi họ đã so sánh chúng với những kinh nghiệm đau đớn. Sự vui sướng đó chỉ là tương đối. Trong khi đó, sự vật luôn thay đổi, vì vậy sau một thời gian thì những kinh nghiệm tưởng chừng là vui sướng đó chỉ còn là sự nhàm chán, không thỏa mãn,[3] sự vui sướng rồi cũng mất đi.
  3. Hành khổ (sa. saṃskāra-duḥkha) Nghĩa là cái khổ bao trùm tam giới, sáu cõi (tất cả chúng sanh trong luân hồi). Minh họa của cái khổ này là hợp uẩn cấu nhiễm của chúng sanh và cái hợp uẩn cấu nhiễm này không những là nền tảng cho cái khổ trong kiếp này mà còn là nền tảng cho đau khổ trong kiếp sau. Cái khổ này nối tiếp nhau kéo từ đời này sang đời khác một khi con người vẫn nằm trong vòng vô minh.[4] Sự nhận biết về khổ ở mức độ này là sâu sắc nhất.[5]

Bát khổ

Bát khổ là tám nỗi khổ xét theo hình thức sự việc, thực ra đều thuộc loại Khổ khổ trong Tam khổ.[1] Nhân sinh quan Phật giáo cho rằng "đời là bể khổ"; con người ai ai cũng phải chịu bát khổ, gồm:[6][7][8]

  1. Sinh khổ Con người khổ trong sự sinh sống. Người ta khổ từ khi còn là bào thai trong bụng mẹ. Con phải nằm trong bụng mẹ chật hẹp, cũng là khổ. Mẹ phải mang nặng đẻ đau biết bao khó nhọc, đó là khổ. Sinh con ra rồi thì cha mẹ cũng phải khổ. Con người sống trên đời phải mưu kế sinh nhai, cũng là khổ.
  2. Lão khổ Khi đến tuổi già thì thân thể trở nên già nua, mắt mờ, tai điếc. Đó là khổ.
  3. Bệnh khổ Con người phải chịu đau đớn, khổ sở cả về thể xác và tinh thần khi mắc bệnh. Đó là khổ.
  4. Tử khổ Khi sắp chết thì sợ hãi tinh thần, ngạt hơi rất khổ. Chết đi rồi thì thân xác phân hủy, hôi tanh, gia quyến đau lòng. Đó là khổ.
  5. Ái biệt ly khổ Con người phải chịu khổ khi yêu mà lại phải chia lìa điều mình yêu, hàng ngày đem lòng mong nhớ. Đó là khổ. Có hai loại ái biệt ly khổ: sinh ly (chia lìa nhau khi còn sống) và tử biệt (chia lìa nhau khi chết).
  6. Sở cầu bất đắc khổ (hay cầu bắt đắc khổ) Con người khổ khi không được toại (bất đắc) nguyện vọng, tham muốn, khao khát của bản thân (sở cầu). Chẳng hạn, lúc đói thì muốn có cái ăn cái mặc; lúc no lại muốn giàu sang phú quý.
  7. Oán tằng hội khổ Con người chịu khổ khi phải tiếp xúc với những thứ mà không thích hoặc oán ghét.
  8. Ngũ uẩn khổ (hay ngũ uẩn xí thạnh khổ) Con người khổ vì có sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn - sắc, thụ, tưởng, hành và thức - trong cơ thể. Chẳng hạn, mơ ước (tưởng) quá thì cũng khổ, biết (thức) nhiều thì cũng khổ.
  • Vô ngã
  • Vô thường
  • Luân hồi
  • Niết Bàn

  1. ^ a b Diệu, Kim (2008). Đố vui Phật pháp. Nhà xuất bản Tôn giáo. tr. 137.
  2. ^ Diệu Kim (2008), tr. 137.
  3. ^ Đạt-lai Lạt-ma, XIV (2007). Tứ diệu đế. Nhà xuất bản Tôn giáo. tr. 112-13.
  4. ^ Đạt-lai Lạt-ma (2007), tr. 116.
  5. ^ Diệu Kim (2008), tr. 138.
  6. ^ Bộ môn Triết học (Khoa Triết học), Trường ĐH Kinh tế TP.HCM (2007). Triết học Mác-Lênin. Thành phố Hồ Chí Minh: Trường ĐH Kinh tế TP.HCM. tr. 33.
  7. ^ Đoàn, Trung Còn (1963). Phật học từ điển. 2. Phật học tùng thơ. tr. 149.
  8. ^ Diệu Kim (2008), tr. 138-40.

  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Đài Bắc: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Khổ_(Phật_giáo)&oldid=66647500”