So sánh chữ kanji và chữ hán năm 2024

Ngôn ngữ tiếng Nhật hiện nay tồn tại đồng thời 3 hệ thống chữ viết là: “Hiragana” (chữ mềm), “Katakana” (chữ cứng) và “Kanji” (chữ Hán). Trong đó, Kanji là một hệ thống chữ bắt nguồn từ Trung Quốc. Trong tiếng Nhật hiện đại, chữ Hán được sử dụng rất nhiều bên cạnh hệ thống chữ Hiragana.

Tiếng Nhật cần có hệ thống chữ Kanji

Có vẻ lạ và quá phức tạp khi ngôn ngữ của một quốc gia lại có đến 3 hệ thống chữ viết: “Hiragana”, “Katakana” và “Kanji”. Một ngày nào đó, người Nhật có thể đơn giản hóa ngôn ngữ của họ và bỏ chữ Hán như người Hàn Quốc và các ngôn ngữ Châu Á khác đã làm. Nhưng hiện tại, đó không phải là trường hợp được xem xét đến và người Nhật cần chúng.

Chúng còn giúp giải nghĩa đầy đủ cho một câu. Không có chúng, gần như không thể hiểu được ý nghĩa của một câu. Không có khoảng trắng trong tiếng Nhật để phân tách nơi một từ bắt đầu và kết thúc. Điều này có nghĩa là Kana bị xáo trộn với nhau trong một chuỗi ký hiệu dài.

Kana là những mẫu thông tin bổ sung, một phần của ngữ pháp cơ bản. Nhưng nếu không có chữ Kanji, nó sẽ trở thành một mớ bòng bong và khó hiểu ý nghĩa. Nếu chúng ta chỉ biết nghĩa từ tiếng Anh của những chữ Kanji đó, thì vẫn có thể đọc và hiểu câu đó.

Bên cạnh đó, nhiều từ được phát âm giống nhau nhưng có chữ Hán khác nhau. Bản thân từ “Kanji” có thể có nghĩa là “ký tự Trung Quốc” hoặc “cảm giác/cảm xúc”. Tất cả phụ thuộc vào ký tự tiếng Nhật mà người ta sử dụng: 漢字 hoặc 感じ.

So sánh chữ kanji và chữ hán năm 2024

Kanji được du nhập từ Trung Hoa

Kanji, còn được gọi là ký tự Trung Quốc, là các ký tự tiếng Nhật có nguồn gốc từ tiếng Trung Quốc. Trước đây, khi Nhật Bản chưa có hệ thống chữ viết riêng, người Nhật đã mượn chữ tượng hình của Trung Quốc để dựa vào đó. Phát triển hệ thống chữ Hán và tạo kiểu chữ của riêng họ.

Các ký tự Trung Quốc được du nhập vào Nhật Bản dưới thời trị vì của Thiên hoàng từ năm 630 đến năm 894. Thường được sử dụng trong văn bản, sáng tác văn học, bảo quản và công việc hành chính và ký tự này đã từng được coi là ngôn ngữ của giới thượng lưu, quý tộc trí thức lúc bấy giờ.

Kể từ thế kỷ 10, người Nhật đã tạo ra các ký tự Kana bao gồm: Katakana với các nét cứng là các đường thẳng và cong, được sửa đổi và đơn giản hóa từ các bộ ký tự Kanji và Hiragana tạo thành các đường cong lướt Katakana mượt mà hơn.

Vào thế kỷ 19, khi người Nhật trao đổi với phương Tây, họ đã thay đổi các từ Kanji và tạo ra nhiều chữ Kanji mới có ý nghĩa đơn giản và phổ biến hơn các chữ Hán cổ. Điều thú vị là những sáng tạo chữ Hán này đã được người Trung Quốc tiếp nhận và du nhập cho đến tận bây giờ vẫn được sử dụng một cách rộng rãi.

Hệ thống Kanji không hoàn toàn là chữ tượng hình

Nhiều người thường quan niệm sai lầm rằng chữ Hán là chữ tượng hình, có nghĩa là chúng trông giống như từ mà chúng đại diện. Mặc dù điều đó đúng với một số chữ Hán, nhưng nó không đúng với toàn bộ hệ thống chữ viết.

So sánh chữ kanji và chữ hán năm 2024

Có hàng chục nghìn chữ Kanji trong tiếng Nhật

Có hàng chục nghìn chữ Kanji vì Hán tự đã biến đổi rất nhiều trong vài thiên niên kỷ qua. Có 2.136 chữ Hán mà Bộ Giáo dục Nhật Bản cho là “thiết yếu”. Những chữ Hán này được gọi là “Jouyou Kanji”. Mặc dù có nhiều cách sử dụng thường xuyên hơn, đặc biệt là trong các bài báo học thuật hoặc tin tức, đây là cơ sở cho giáo dục và xóa mù chữ ở Nhật Bản. Vì vậy, nói về cách các ký hiệu và ý nghĩa của Nhật Bản sẽ có cách đọc khác nhau. Và cách kết hợp Kanji với Kana hoặc Kanji khác để tạo ra từ mới.

Ngôn ngữ Nhật Bản hiện đại sử dụng hệ thống chữ Hiragana và chữ Hán

Trong một câu tiếng Nhật điển hình thường bao gồm chữ Hiragana, chữ Hán và đôi khi còn có cả chữ Katakana. Ví dụ như một câu như thế này: “今日はいい日ですね” (“kyou wa ii hi desu ne” – Tạm dịch: Hôm nay là một ngày đẹp nhỉ) thì trong câu này, Kyou (今日) và Hi (日) là các chữ Hán, các chữ còn lại là chữ Hiragana.

So sánh chữ kanji và chữ hán năm 2024

Một vài chữ Hán có nhiều hơn một cách đọc

Chữ Hán là một ngôn ngữ dùng để ghi lại phát âm. Thông thường mỗi ký tự sẽ có một cách đọc. Tuy nhiên, một vài chữ Hán có thể có nhiều hơn một cách đọc. Chữ Hán có thể thay đổi với nhiều cách phát âm đa dạng với ý nghĩa độc lập hoặc phụ thuộc vào từng bối cảnh khác nhau. Có 2 cách để đọc chữ Hán đó là đọc theo âm Onyomi (音読み: âm Hán Nhật) và đọc theo âm Kunyomi (訓読み: âm Nhật). Lấy ví dụ, chữ Hán 月 có thể được đọc là “Getsu” (âm Kunyomi) hoặc “Tsuki” (âm Onyomi). 月 là chữ “Nguyệt” trong âm Hán Việt, có nghĩa là mặt trăng hay tháng (tuần trăng).

“Okurigana” (送り仮名) là một phần của chữ Hán được viết bằng Hiragana

Okurigana là các ký tự đi kèm, các hậu tố kana theo sau các từ chữ Hán thường thực hiện chức năng ngữ pháp, biểu thị loại từ như động từ, trạng từ hoặc tính từ cho từ chữ Hán đó. Ví dụ như, từ お祭り (Omatsuri – nghĩa là Lễ hội) được ghép bởi chữ Hán 祭 và chữ Okurigana là chữ Hiragana り đứng ngay phía sau.

“Furigana” (ふりがな) là chữ Hiragana được ghi để diễn tả cách đọc chữ Hán

Trong tiếng Nhật, có một số chữ Hán ít khi được sử dụng và rất khó đọc. Furigana là một loại chữ viết được ghi bên phải hoặc trên đầu ký tự chữ Hán để giúp người đọc, đặc biệt là trẻ em và những người mới học tiếng Nhật hiểu được cách phát âm của ký tự đó. Cách biểu thị như vậy còn được gọi là Rubi (ルビ).

So sánh chữ kanji và chữ hán năm 2024

“Kokuji” (国字) là chữ Hán do Nhật Bản sáng tạo ra

“Kokuji” là chữ Hán của riêng người Nhật. Một vài ví dụ về loại chữ này như: Touge (峠 – nghĩa là đỉnh đèo, cao trào), Hatake (畑 – nghĩa là ruộng) và Tsuji (辻 – nghĩa là Ngã tư đường). Hầu hết các chữ Kokuji không có âm Onyomi. Bức ảnh những con cá ở trên là cá tuyết, trong tiếng Nhật được viết bằng chữ Kokuji, Tara (鱈).

“Shin-jitai” (新字体 – Tân Tự Thể) là những chữ Hán giản thể được viết một cách đơn giản

Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, Chính phủ Nhật Bản đưa ra cách viết giản thể Shin-jitai để đơn giản hóa hệ thống chữ Hán trong tiếng Nhật, ví dụ chữ 竜 (Ryu – âm Hán Việt là Long, nghĩa là rồng) là chữ Hán thể Shin-jitai của chữ 龍. Trong hệ thống chữ Hán thể Shin-jitai, một vài chữ Hán đã bị biến mất khỏi hệ thống ngôn ngữ tiếng Nhật.

So sánh chữ kanji và chữ hán năm 2024

“Kakijyun” (書き順) là trình tự để viết một chữ Hán

“Kakijiun” hay còn được gọi là “Hitsujyun” (筆順: thứ tự viết). Hầu hết Kakijyun đều được Chính phủ Nhật Bản quy định nhưng cũng có một số trường hợp ngoại lệ. Trẻ em ở các trường tiểu học ở Nhật có những tiết học về Kakijiun. Tại đó, chúng có sách vở luyện tập để tập viết chữ Hán theo đúng thứ tự viết Kakijiun. Hình ảnh phía trên là thứ tự viết Kakijiun của chữ Hán 夏 (Natsu – âm Hán Việt là Hạ, có nghĩa là mùa hè). Bạn phải viết chữ này theo đúng thứ tự của mũi tên màu đỏ.

Nghệ thuật Thư đạo (Shodou 書道) là việc viết chữ Hán lên giấy Washi bằng mực tàu.

Thư đạo là nghệ thuật viết chữ Hán đẹp được du nhập từ Trung Quốc vào Nhật Bản (còn được biết đến với tên gọi là nghệ thuật Thư pháp). Thư đạo được dạy như một môn học ở các trường học ở Nhật Bản từ tiểu học, trung học cơ sở, cho đến một số trường trung học phổ thông. Những người nghệ sỹ chuyên viết thư đạo được gọi là Shodouka (書道家). Trong một đất nước luôn coi trọng và gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, Thư đạo đã trở thành một bộ môn nghệ thuật có giá trị tinh thần to lớn với mỗi người dân Nhật Bản.

Trên đây là những thông tin thú vị về hệ thống chữ Kanji. Theo dõi thêm nhiều bài viết hữu ích và hấp dẫn khác về đất nước, đời sống và con người Nhật Bản cùng chúng tôi nhé! Du khách cũng đừng bỏ lỡ chuyến du lịch Nhật Bản để có cơ hội khám phá nhiều hơn về đất nước này.