Tại sao con trai có tên đệm là văn

Đăng nhập

Đăng nhập để trải nghiệm thêm những tính năng hữu ích

Zalo

  • Nóng

  • Mới

  • VIDEO

  • CHỦ ĐỀ

Cách đệm “Thị” cho con gái, “Văn” cho con trai là điều mà bấy lâu nay chúng ta vẫn muốn tìm câu trả lời, sau đây mời các bạn cùng giải mã nguồn gốc của cách đặt tên này.

Tên đệm từ lâu đã tồn tại và là một yếu tố quan trong liên quan đến cái tên xuyên xuốt cuộc đời , tên đệm “Thị - Văn” là cách nhiều người vẫn dùng để phân biệt giữa con gái và con trai. Lý giải cho điều này, người ta căn cứ cho thấy chúng xuất phát từ chế độ Phụ hệ - Mẫu hệ qua các thời kỳ phát triển.

Trải qua dòng thời gian, cách đệm “Thị” đại diện cho chế độ Mẫu hệ, còn đệm “Văn” chính là tiếng nói của phái mạnh trong thời phong kiến, nói lên mong ước công thành, danh toại.

Giải mã cách đệm "Thị" cho con gái

Cách gọi này đưa mỗi người trở về thời hồng hoang của các bộ lạc và thị tộc xưa. Trong thời điểm này, vai trò của người đàn bà được đánh giá là quan trọng nhất bởi xã hội thời kỳ bấy giờ rất cần lực lượng người lao động sản xuất đông đảo, trong khi việc sinh nở và nuôi con lại rất khó khăn.

Cuốn Từ nguyên từ điển có câu “Phu nhân xưng thị” (đàn bà gọi là thị). Như vậy có thể hiểu rằng “Thị” là cách phụ nữ dùng để xưng thay cho từ "tôi". Ở giai đoạn phát triển của xã hội loài người, thị tộc mẫu hệ chính là hình thức con người lúc đó thừa nhận và tuân theo trong xã hội. Người phụ nữ có vai trò đứng đầu trong gia đình và thị tộc, tên gọi cũng phải được ra đời để thể hiện sự rạch ròi quan hệ xã hội đó. Bởi vậy, “Thị” được xem như tên gọi đại diện cho một xã hội thị tộc mẫu hệ.

Ý nghĩa của chữ "Thị" trong cuốn sách Hiện đại Hán ngữ từ điển (Bắc Kinh, 1992) đã chỉ ra, cách đặt tên đệm này sau họ của người phụ nữ đã có chồng là để cho dễ xưng hô.

Giải mã cách đệm "Văn" cho con traiVăn ra đời sau chữ thị vì phụ hệ đi sau mẫu hệ. Ở thời kỳ phong kiến gắn với Nho giáo, học thức được coi là thước đo xã hội. Xã hội xem trọng học giỏi, kiến thức, văn ôn võ luyện.

Ông bà ta rất coi trọng học hành thi cử tiến thân đối với nam nhi bởi vậy mới có câu:

“Trai nam nhơn thi chữ


 Gái thục nữ thi tài”

Chữ 文 Văn xuất xứ đầu tiên nghĩa là “chữ”. Chữ tượng hình là chữ bắt chước hình tượng các loài mà đặt ra kêu là “văn” 文, gộp cả hình với tiếng gọi là “tự” 字. Văn tự là chữ viết, thành ra ta có Anh Văn, Pháp Văn,Hoa Văn...

Văn còn là “văn minh” 文明, “văn hóa” 文化. Người xưa tôn thờ sao Văn Xương, Văn Khúc vì tượng trưng cho thông minh, hiếu học, học giỏi, văn chương, mỹ thuật, âm nhạc.

Cũng chính ở thời kỳ phong kiến, xã hội trọng nam khinh nữ nên chỉ nam giới mới có tiếng nói, mới được tham gia các cuộc thi, người Việt xưa đặt tên con lót chữ “Văn” cho con trai với mong muốn con mình học giỏi, thi đậu, thành đạt.

Khi xã hội ngày càng phát triển, phần vì thay đổi thói quen, phần vì những quan niệm xưa trong cách đặt tên không còn được để ý nhiều nữa, nên trong thời hiện đại  trong tên người Việt đặt  không còn bắt buộc phải có chữ đệm “Thị - Văn”.

Có bao giờ bạn tò mò về quy tắc đặt tên của người Việt, khi mà tên gọi của chúng ta luôn đi kèm với ‘nam Văn nữ Thị’ không? Nếu có, hãy cùng khám phá ý nghĩa của chúng nhé:

Từ nhiều đời nay, cách đặt tên của người Việt thường tuân theo một quy tắc phổ biến đó là nam – văn, nữ - thị. Cũng giống như các quốc gia khác trên thế giới, quy tắc này được xem như cách tạo đặc trưng cho tên nam và nữ. Vậy tại sao người Việt cổ lại chọn đệm chữ ‘văn’ cho con trai và chữ ‘thị’ cho con gái để phân biệt giới tính mà không phải là bất kỳ từ nào khác?

1. Quy tắc đặt tên của người Việt: Chữ ‘Văn’ trong tên nam giới

Theo thói quen, nam giới Việt thường có thể có nhiều tên đệm khác nhau nhưng không bao giờ sử dụng chữ ‘thị’, thay vào đó phổ biến nhất là chữ ‘văn’.

Theo lý giải của một số người, tên đệm này bắt nguồn từ quan niệm thời phong kiến đối với nam giới. Khi đó, chí có nam giới mới được đi học và đi thi, làm người ‘có chữ nghĩa’. Vì thế đây trở thành một trong số những điểm đặc trưng để phân biệt hai giới với nhau.

Chữ ‘văn’ trong tên đệm nhằm nhấn mạnh rằng nam giới thường là những người có đi học, là học trò. Có lẽ vì ý nghĩa hay ho này mà lâu dần ai cũng muốn chứng tỏ bản thân là người có chữ nghĩa và học thức. Do đó, các bậc cha mẹ khi sinh được con trai thường đặt chữ ‘văn’ làm tên đệm để thể hiện ước mơ muốn con cái được thành, danh toại, sự nghiệp học hành được suôn sẻ thuận lợi.

Thói quen đặt tên này dần được hình thành và ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ. Kết quả là tạo thành một công thức đặt tên phổ biến cho nam giới Việt: họ + Văn + tên.

2. Quy tắc đặt tên của người Việt: Ý nghĩa của chữ ‘Thị’ trong tên nữ giới

Về mặt từ gốc, học giả An Chi có lý giải ‘thị’ là một từ Việt gốc Hán để chỉ phụ nữ. Vì thế có lẽ từ này xuất hiện trong tên đệm của nữ giới từ sau thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Trong Từ nguyên từ điển có câu ‘Phu nhân xưng thị’ (đàn bà gọi là thị) và giải thích thêm ‘thị’ còn là một từ để phụ nữ dùng để tự xưng.

Xung quanh việc sử dụng chữ ‘thị’ để đặt tên cho con gái cũng có nhiều tranh cãi. Từ ‘thị’ nguyên gốc có nghĩa là họ hoặc ngành họ. Người Trung Hoa thường dùng chữ ‘thị’ sau tên của người chồng thanh cho tên cúng cơm của người phụ nữ đó.

Tuy nhiên, khi truyền sang Việt Nam, cách dùng của từ này lại có đôi chút khác biệt. Nữ giới trong gia đình quyền quý Việt Nam vẫn giữ họ cha và thêm chữ thị đằng sau. Tiêu biểu cho cách gọi này có thể thấy trong nhiều tài liệu lịch sử với những danh xưng như: hoàng hậu Dương thị, bà phi Nguyễn thị,…lúc này người đọc sẽ hiểu rằng người viết muốn nói đến bà hoàng hậu họ Dương hoặc bà phi họ Nguyễn.

Cách dùng chữ ‘thị’ của người Việt thậm chí còn có thể linh hoạt hơn khi chữ Nôm được sử dụng rộng rãi. Lúc này, người ta sử dụng chữ ‘thị’ gắn trước tên riêng của một người phụ nữ cụ thể như Thị Mầu, Thị Kính,…Đến khoảng thế kỷ 15, chữ ‘thị’ dần gắn liền với tên và họ của nữ giới, như một cách khẳng định gốc gác của người đó, tạo thành công thức đặt tên họ + Thị + tên.

Tuy nhiên, ngày nay công thức đặt tên ‘nam văn nữ thị’ dường như đã được thay đổi ít nhiều. Có không in người sử dụng những tên đệm khác, có ý nghĩa đẹp hơn để hợp với tên chính thức.

1. Thị

Nói tới thị xin mọi người trở về cái thời hồng hoang, ăn lông ở lổ của bộ lạc và thị tộc. Xã hội khi đó rất lạc hậu nên cần người, sanh đẻ rất khó nuôi, thành ra vai trò người đờn bà rất quan trọng. Thị tộc mẫu hệ là hình thức thị tộc đầu tiên và phổ biến của xã hội loài người. Người phụ nữ có vai trò lớn, là người đứng đầu gia đình và các thị tộc.

Thị tộc phụ hệ là giai đoạn kế tiếp thị tộc mẫu hệ, ra đời từ thời kỳ đồ đá.

Dân tộc Việt phải nhắc tới Hồng Bàng Thị (鴻龐氏) dịch ra là họ Hồng Bàng, nhưng ý nghĩa ban đầu là “người mẹ Hồng Bàng”. Bên Tàu có, như: “Phục Hi thị” 伏羲氏, “Thần Nông thị” 神農氏, “Cát Thiên thị” 葛天氏, “Hữu Hỗ thị” 有扈氏 cũng là kiểu này.

Nữu Hỗ Lộc thị thời nhà Thanh là một trong bát kỳ, Sùng Khánh Hoàng thái hậu dòng tộc Nữu Hỗ Lộc thị là thân mẫu của Càn Long Hoàng đế. Hòa Thân, một nhân vật đầy quyền lực cũng thuộc Nữu Hỗ Lộc thị.

Thị là một danh xưng mặc định cho người đờn bà. Cả Tàu lẫn Việt đều chỉ đại từ nhơn xưng ngôi thứ ba số ít chỉ phụ nữ là”y thị”.
Thành ra có những cách gọi, xưng hô đờn bà như bà Trần Thị,Nguyễn Thị,Lý Thị, Vương Thị.

Nên nhớ Việt tộc là một tộc khá cá biệt của thế giới văn minh, chúng ta theo chế độ mẫu hệ dài hơn người Tàu nữa, Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh là bằng chứng. Tôi đã từng nói Việt tộc ta trường tồn là có một phần “mẫu hệ”, nhờ mẫu hệ mà 1000 năm bị Tàu đô hộ ta không mất gốc.

Cái chế độ mẫu hệ ở Việt Nam ta từ hồi Bà Trưng, Bà Triệu và tới nay đã là phụ hệ khi con mang họ cha. Tuy nhiên con mang họ cha là lý thuyết thôi, trong gia đình quyền lực của các bà vẫn bao trùm.

Cái câu “Hỏi má mày” nghe trong xóm làng hơi bị nhiều. Ông bà xưa VN ta có câu : ”Mua heo chọn nái mua gái chọn dòng” là vì thế.

Người Việt mình rất nhơn văn, không có tục bó chưn đau đớn như Tàu, chẳng có tục tùy táng người hầu, vợ lẽ sau khi chết…

Việt cổ có tục xâm mình ,ăn trầu và nhuộm răng đen. Người Việt đặt tên con gái thì bưng nguyên chữ 氏 thị vô làm chữ lót một cách bất di bất dịch. Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan, bà là chánh thất vua Gia Long, là mẹ đẻ của hoàng tử Cảnh.

Đoan Huy Hoàng thái hậu Hoàng Thị Cúc –tên thường gọi là Bà Từ Cung là thứ thất của vua Khải Định –mẹ của vua Bảo Đại… rồi bà Nguyễn Hữu Thị Lan, bà Bùi Thị Xuân, Ngô Đình Thị Hiệp…

Người Việt đặt lót thị nhiều chứ người Tàu không thấy kiểu này. Nói vầy cho dễ hiểu nè, Việt đặt là Bành Thị Chơi,Tàu đặt tên là Bành Sướng Chơi và Tàu kêu thông dụng là bà Bành thị. Không phải con gái là cứ đặt thị, có người không lót chữ thị, tùy ý thích thôi. Thí dụ như : Bà Đạm Phương nữ sử tên thật là Công Tôn Nữ Đồng Canh là cháu nội vua Minh Mạng. Ca sĩ Quỳnh Giao tên thiệt là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang là cháu sơ vua Minh Mạng. Nhưng lại có bà Tôn Nữ Thị Ninh. Cái tên này hay nè? Công Tằng Tôn Nữ Tạ Thị Đánh Đu Tòn Ten Bong Lòng Đèn Lấp La Lấp Lánh Như Ánh Thuỳ Dương Ta nghe Thị Mẹt, Thị Màu, Thị Nở, Thị Hết, Thị Bẹt là một dạng gọi trỏng của người VN. Nhưng thị cũng là một cái họ riêng dù hiếm hoi. Vua Minh Mạng cho người Khmer họ Thị

Kết luận: Lót chữ thị 氏 là dấu vết và nhắc nhớ tới mẫu hệ của Việt tộc ta.

Văn ra đời sau chữ thị vì phụ hệ đi sau mẫu hệ.

Trong Nho giáo xưa thì học là giỏi, trau dồi học vấn,văn ôn võ luyện.
Võ thì mạnh bạo, nhưng sát phạt, không dám khoe, văn thì phải khoe.

Ông bà ta quan niệm học hành thi cử tiến thân. “Trai nam nhơn thi chữ

Gái thục nữ thi tài”

Chữ 文 Văn xuất xứ đầu tiên nghĩa là “chữ”. Chữ tượng hình là chữ bắt chước hình tượng các loài mà đặt ra kêu là “văn” 文, gộp cả hình với tiếng gọi là “tự” 字.

Văn tự là chữ viết, thành ra ta có Anh Văn, Pháp Văn,Hoa Văn…

Văn còn là“văn minh” 文明, “văn hóa” 文化.
Người xưa tôn thờ sao Văn Xương, Văn Khúc vì tượng trưng cho thông minh, hiếu học, học giỏi, văn chương, mỹ thuật, âm nhạc, thành đạt.

“Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ nhu

Chín trăng em đợi, mười thu em chờ”

Người Việt thích lót chữ văn cho con trai là muốn con mình học giỏi, thi đậu, thành đạt.
Các bạn nên hiểu là bên Tàu cũng có lót chữ văn, tuy nhiên không nhiều như Việt mình, thí dụ Triệu Văn Trác, Mã Văn Tài.

Nhưng con gái mà tên Phạm Văn Phương thì cũng lạ. Văn cũng là một cái họ khá phổ biến của người Tàu và VN, thí dụ Văn Thiên Tường. Nhưng cũng như thị, người Việt không phải cứ con trai là lót chữ văn. Thí dụ như Hồ Quý Ly có con là Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương. Nhà Lê Sơ, con cháu Lê Lợi đặt tên là Lê Nguyên Long, Lê Bang Cơ, Lê Nghi Dân, Lê Tư Thành… Chúa Nguyễn thì lót chữ Phúc cho con, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Khoát… Vua Minh Mạng thì làm bài phiên hệ “Miên-Hường…” đặt cho con.

Họ Ngô thì lấy chữ Đình lót cho con: Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm…

Túm lại: Chữ lót văn là như vậy đó “Đêm qua chớp bể mưa nguồn Hỏi người tri kỷ có buồn hay chăng Cá buồn cá lội tung tăng

Em buồn em biết đãi đằng cùng ai?”

Nguyễn Gia Việt/Dansaigonxua

Quảng Cáo: Đúc tượng đồng, làm tượng chân dung.... từ hình ảnh chụp/ tranh vẽ

Video liên quan

Chủ đề