Tại sao gọi là chùa keo

Chùa Keo Thái Bình là một ngôi chùa tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc đỉnh cao thế kỷ XVII. Hiện nay Chùa Keo Thái Bình còn lại 17 công trình với 128 gian. Các công trình chính của chùa được sắp xếp theo một đường trục vô hình gọi là đường thần đạo. Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Lan – Nguyên giám đốc Bảo tàng tỉnh Thái Bình: nếu tính tam quan ngoại là điểm đầu và gác chuông là điểm cuối, thì hai điểm này nằm trên một đường thẳng. Đây cũng là trung điểm tạo nên sự đối xứng trong kiến trúc của chùa. 

Nhà nghiên cứu Bùi Duy Lan – Nguyên giám đốc Bảo tàng tỉnh Thái Bình: Bất kỳ công trình kiến trúc tôn giáo nào thì nó có một trục để đối xứng. Đấy là nguyên tắc của kiến trúc tôn giáo rồi. Nhưng chùa Keo không hoàn toàn tuân thủ như thế bởi vì phía trước có một cái hồ nên người ta phải đi rước, đi tham quan quành theo đường kiệu. Và nó có quy luật là đi ở bên Đông, về thì ở bên Tây để dòng người không bị chen vào nhau, đi theo dòng nước chảy. Thì riêng ở chùa Keo trục thần đạo của nó không hoàn thiện.

Nhìn tổng thể, Chùa Keo Thái Bình được thiết kế theo kiểu “nội công ngoại quốc” và “tiền Phật hậu Thánh”. Nhưng điểm độc đáo của Chùa Keo Thái Bình là các tòa nhà được thiết kế theo mô hình hai chữ công lồng trong chữ Quốc mà ít chùa có được. Nguyên tắc kiến trúc này tạo cho Chùa Keo Thái Bình sự đăng đối, trang nghiêm và bề thế nhưng không khô cứng.

Nhà nghiên cứu Bùi Duy Lan – Nguyên giám đốc Bảo tàng tỉnh Thái Bình: Chùa Keo đúng ngoại là quốc nhưng trong là 2 chữ công được ngăn ra bởi tòa giá roi. Thí dụ chùa ông Hộ, ống muống, tòa tam bảo của chùa Phật thì thành một chữ Công. Bên đây phải sau tòa giá roi, bắt đầu từ Tòa Thiêu Hương, tòa Phục Quốc và Tòa Thượng Điện nó lại thành một chữ Công thứ hai. Nên đây nội nhị Công ngoại Quốc nói như thế thì chuẩn hơn .

Đi sâu vào tìm hiểu, có thể thấy kiến trúc chùa phân ra thành nhiều lớp đơn và kép, có sự giãn cách khác nhau. Thông thường, các ngôi chùa Việt có 1 tam quan, nhưng Chùa Keo Thái Bình lại có hai tam quan. Lớp cổng đầu tiên – tam quan ngoại hay còn gọi là nghi môn đền được nâng lên thành một ngôi nhà hoàn chỉnh với ba gian hai chái, không có cửa, không có tường. Còn Tam quan nội được thiết kế ba gian, như một tòa nhà có cửa, có chái mà không có lòng nhà. Cấu trúc cả trước lẫn sau chỉ có một hàng cột, nhìn phía nào cũng chỉ thấy cửa và hiên, thể hiện thuyết “sắc sắc không không” của đạo Phật. Đặc biệt, bộ cánh cửa gian giữa tam quan nội khi đóng lại tạo thành một tác phẩm khắc gỗ độc đáo. Bức phù điêu khắc họa “lưỡng long mẫu tử chầu nguyệt” với những nét chạm hình rồng và đao mác tua tủa vút lên, không chỉ tiêu biểu cho phong cách mỹ thuật thời Lê Trung Hưng mà còn phần nào tái hiện lịch sử đất nước lúc bấy giờ. 

Mặc dù có kiến trúc tiền Phật hậu Thánh nhưng khu thờ Thánh độc lập với khu thờ Phật cho thấy vị trí quan trọng của Thiền sư Dương Không Lộ với đời sống tâm linh của người dân trong vùng. Hai khu này được ngăn cách bởi Tòa giá roi. Theo các nghiên cứu, tòa Giá roi chỉ riêng có ở chùa Keo Thái Bình, có ý nghĩa và chức năng như một ngôi đình. Nơi đây đã từng diễn ra việc xử phạt, phân xử của người dân làng Keo ngày trước. Những con sơn nội, sơn ngoại của chùa cũng rất đặc biệt. Nó không chỉ có tác dụng đỡ đầu bẩy hay xà mà còn là một tác phẩm nghệ thuật tinh xảo, thể hiện sự lành nghề của những người thợ.

Nét độc đáo nhất trong kiến trúc Chùa Keo Thái Bình chính là Gác chuông. Không chỉ thể hiện chiều sâu văn hóa của mảnh đất, con người Thái Bình, gác chuông còn ẩn chứa trong nó giá trị về nghệ thuật kiến trúc độc đáo, khác biệt. Gác chuông gồm 3 tầng 12 mái, như một bông sen khổng lồ nên nhìn bề thế và phức tạp, đạt được hiệu quả thẩm mỹ cao. Gác chuông chùa Keo đã được xác lập kỷ lục là gác chuông bằng gỗ cao nhất Việt Nam.

Đi sâu vào nghiên cứu, có thể thấy người xưa đã khéo léo áp dụng cách làm của dân gian trong xây dựng chùa. Đó là kết nối các công trình, chi tiết với nhau bằng hệ thống mộng, kèo vô cùng chuẩn xác. Bằng sự sáng tạo tuyệt vời, những người thợ đã liên kết các công trình của Chùa Keo mà không cần dùng tới một chiếc đinh nào. 

Nhà nghiên cứu Bùi Duy Lan – Nguyên giám đốc bảo tàng tỉnh Thái Bình : Riêng hệ thống ghép mộng của cụm đấu củng đấu vọi của chùa Keo thì cả nước Việt Nam không hề có công trình thứ hai. Bởi vì đây là một chùm mộng, một chùm các gánh đòn dọc, đòn ngang để gia cố. Mỗi một cụm này đã là mối liên kết cụm 6. Cả công trình này tạo thành trên 300 khối mối liên kết như thế. Vì thế nên bão cũng không liên lụy, bom đạn cũng không thể làm cho nó xê dịch được.


Ông Đỗ Ngọc Trung - Trưởng ban Quản lý di tích Chùa Keo: Trong những năm qua công tác trùng tu tôn tạo được thực hiện nghiêm theo quy định của pháp luật. Trùng tu tôn tạo di tích ưu tiên hàng đầu gìn giữ yếu tố gốc của chùa Keo, chính vì vậy các công trình của chùa Keo vẫn bảo tồn yếu tố gốc.


Ấn tượng về kiến trúc là cảm xúc của nhiều du khách trong và ngoài nước khi đến tham quan chùa Keo Thái Bình. Hiện nay công tác bảo tồn di tích Chùa Keo luôn được đặt lên hàng đầu. 


Ông Vincent Bendet, một du khách Pháp: Chùa rất đẹp và mong muốn sẽ được quay trở lại tham quan chùa nhiều lần nữa.


Trải qua gần 400 năm, Chùa Keo Thái Bình vẫn giữ nguyên kiến trúc độc đáo của mình. Có thể tìm thấy ở đó tư duy về xây dựng, kiến trúc, nghệ thuật, thẩm mỹ tiêu biểu. Qua di tích chùa Keo và những hiện vật còn lưu giữ, chúng ta có thể hiểu thông điệp mà người xưa gửi gắm đến thế hệ hôm nay và mai sau. Đó là sự nhắn nhủ của cha ông về nghệ thuật kiến trúc tạo hình, là vẻ đẹp tâm linh Phật giáo trong dòng chảy văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc./. 

Ninh Thanh

Chùa Keo có tên chữ là “Thần quang tự”, chùa tọa lạc tại làng Keo, xã Duy Nhất (huyện Vũ Thư) nên dân gian gọi là chùa Keo.

Theo sử sách ghi lại, Thiền sư họ Dương, húy là Minh Nghiêm, hiệu là Không Lộ, sinh năm 1016 tại hương Hải Thanh, nay là xã Xuân Hồng (huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định). Ông là người dựng chùa Nghiêm Quang (chùa Keo ngày nay) làm nơi tu hành vào năm 1061. Do có công chữa bệnh cho vua Lý Thánh Tông nên được vua phong làm Quốc sư triều Lý.

Ngày 3-6 năm Nhâm Tuất, Thiền sư Dương Không Lộ viên tịch, hưởng thọ 79 tuổi. Để tri ơn công lớn, nghĩa dầy, năm 1667, vua Lý Anh Tông cho đổi tên chùa Nghiêm Quang thành chùa Thần Quang và tên Thần Quang tự bắt đầu có từ đó.

 Lễ khai chỉ mở cửa đền, đây là tập tục báo hiệu Lễ hội chùa Keo chính thức bắt đầu.

Chùa Thần Quang chỉ tồn tại được 500 năm, đến năm 1611 một trận hồng thủy lớn đã cuốn trôi mất ngôi chùa. Sau đó, dân làng Keo phải di cư đi nơi khác và chia làm hai làng, một làng di chuyển sang hữu ngạn sông Hồng (nay là xã Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định), một làng di chuyển sang tả ngạn sông Hồng (nay là xã Duy Nhất, Vũ Thư, Thái Bình). Cũng từ đó, dân hai làng bắt đầu cuộc vận động xây dựng lại chùa.

Theo văn bia còn lưu giữ tại chùa, chùa Keo Thái Bình do quận công Hoàng Nhân Dũng thời Lê Trịnh đứng ra khởi công, xây dựng năm 1630 và sau 28 tháng toàn bộ công trình chùa Keo hoàn thành.

Trải qua gần 400 năm tồn tại, qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo từ thời Lê Trung Hưng thế kỷ 17 và là ngôi chùa cổ đẹp nhất Việt Nam. Hiện nay, toàn bộ kiến trúc chùa Keo gồm 17 công trình, với 128 gian phân bố trên diện tích hơn 2.000 m2. Đó là các công trình kiến trúc chính như: Tam quan, chùa Phật, điện thánh, gác chuông, hành lang, khu tăng xá,vườn tháp…

 Đông đảo nhân dân và du khách gần xa tới chiêm bái, vãn cảnh chùa Keo Thái Bình.

Chùa Keo còn lưu giữ được nhiều kiến trúc gỗ đặc sắc, đáng chú ý là bộ cánh cửa gian trung quan, đây là một kiệt tác chạm khắc gỗ thế kỷ 17. Trong khu chùa phật, hiện còn lưu giữ rất nhiều pho tượng có giá trị nghệ thuật cao có niên đại thế kỷ 17, 18 như các pho Tuyết Sơn, La Hán, quan thế âm Bồ Tát… Nhưng ấn tượng nhất tại ngôi chùa cổ gần 400 năm tuổi là Tòa gác chuông làm bằng gỗ, thiết kế ba tầng nguy nga, bề thế với chiều cao hơn 21 m, được sách kỷ lục Guiness Việt Nam ghi nhận là tháp chuông bằng gỗ cao nhất Việt Nam.

Ông Nguyễn Công Diện, Phó Chủ tịch UBND huyện Vũ Thư, Trưởng Ban tổ chức lễ hội truyền thống chùa Keo mùa thu năm 2020 cho biết: Mỗi năm, chùa Keo mở hội hai lần, hội Xuân vào mồng 4 tháng Giêng âm lịch, hội Thu diễn ra vào trung tuần tháng 9 âm lịch với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao mang tính dân gian, gần gũi với nét sinh hoạt của cư dân trồng lúa nước đồng bằng châu thổ sông Hồng. Ngoài việc tế lễ, rước kiệu, còn thi bơi chải trên sông và các nghi thức bơi chải cạn chầu Thánh, múa ếch vồ…

Lễ hội được mở hằng năm để nhân dân trong vùng dâng hương, ngưỡng vọng, thành kính tri ân Đức Phật, Đức Thánh; tưởng nhớ công đức của Quốc sư Dương Không Lộ; các bậc tiền nhân có công hộ quốc, an dân và những người có công dựng chùa. Là dịp để quê lúa Thái Bình được đón du khách gần xa về hành lễ và thưởng ngoạn các giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc của di tích chùa Keo.

Với những giá trị riêng có, tháng 9-2012, chùa Keo được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp bằng công nhận di tích quốc gia đặc biệt; tháng 10-2017, chùa được đón nhận Bằng ghi danh Lễ hội chùa Keo là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Lễ hội chùa Keo mùa thu năm 2020 diễn ra từ ngày 26 đến 31-10 (tức mồng 10 đến 15-9 âm lịch).

MAI TÚ

Video liên quan

Chủ đề