Tại sao khi sử dụng súng B40 B41 thì không được vác bên vai trái và ngắm bắn bằng mặt trái
- 1 Ra đời
- 2 Uy lực
- 3 Một số cách biên chế B41
- 3.1 Việt Nam
- 3.2 Trung Quốc
- 3.3 Biên chế tên lửa chống tăng có điều khiển 9M14 Malyutka
- 4 Sản xuất và độ phổ biến
- 5 Cấu tạo súng
- 6 Kính ngắm, thước ngắm
- 7 Đạn
- 7.1 Một vài loại đạn
- 7.2 Đạn chuyển động trong nòng
- 7.3 Đạn khi bay
- 7.4 Đầu nổ lõm
- 7.5 Ngòi và truyền nổ
- 8 Cách bắn
- 9 Chiến thuật
- 9.1 Chống xe tăng
- 9.2 Chống bộ binh, lô cốt
- 9.3 Mục tiêu hiện đại
- 9.4 B41 hiện đại hóa
- 10 Những sai lầm thường thấy khi nói về B41
- 10.1 Người Mỹ coi B41 có thể dùng như pháo
- 10.2 Lệch gió ngược
- 10.3 Cách đo xa
- 10.4 Lưới chống
- 10.5 Dùng B-41 bắn máy bay
- 10.6 Súng B41 cần khoảng trống lớn
- 10.7 Nhầm lẫn giữa B41 và các phiên bản súng Trung Quốc
- 10.8 Chính xác về năm ra đời
- 11 Quốc gia sử dụng
- 12 Chú thích
- 13 Xem thêm
- 14 Tham khảo
- 15 Liên kết ngoài
Mục lục
- 1 Lịch sử
- 2 Trang bị
- 3 Một số tên khác nhau
- 4 Mô tả
- 4.1 Súng
- 4.2 Đạn
- 4.3 Lắp đạn và liều
- 4.4 Ngòi nổ
- 4.5 Đạn B40
- 4.6 Bắn
- 5 Chiến thuật
- 6 Hạn chế
- 6.1 Các quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng B40
- 7 Xem thêm
- 8 Chú thích
- 9 Tham khảo
- 10 Liên kết ngoài
Lịch sửSửa đổi
RPG-2 được phát triển ở Nga sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trước và trong chiến tranh thế giới 2, kỹ thuật của người Liên Xô không thể chế tạo được những súng chống tăng vác vai nhỏ gọn hiệu quả. Trước chiến tranh, người Nga phát triển hai loại vũ khí phản lực, một là giàn tên lửa bắn đạn trái phá BM-13 Katyusha nổi tiếng, hai là Model 1935 76 mm DRP, sau này trở thành các súng lớn chống tăng không giật, ngoài ra có lựu đạn lõm chống tăng. Nhưng kiểu súng chống tăng cá nhân lại không có.
Kinh nghiệm chiến trường cho thấy các súng chống tăng cá nhân Panzerfaust của Đức rất đắc dụng. Người Nga dựa vào mẫu một loại vũ khí phổ biến của Đức là Panzerfaust 44 để chế lại với tên mới là RPG. Phiên bản RPG-1 gần như giống hệt Panzerfaust 44, và không được đưa vào trang bị. Còn RPG-2 là loại cải tiến, bắt đầu được trang bị năm 1949.
Súng này vào Việt Nam trong thời kỳ hiện đại hóa quân đội sau 1954. Nó nhanh chóng tỏ ưu thế trước khẩu Bazooka kiểu 1944 do Mỹ chế tạo, được chấp nhận trang bị với tên gọi B-40. Khẩu súng được ưa chuộng vì nó sẽ thừa kế kinh nghiệm đối phó với hỏa lực mạnh của địch bằng cách đánh gần, nối tiếp nhiệm vụ của khẩu Bazooka.
Súng tiểu liên - AK
Tác dụng, tính năng chiến đấu
- Súng tiểu liên AK trang bị cho một người sử dụng, dùng hỏa lực, lưỡi lê, báng súng để tiêu diệt sinh lực địch.
- Súng có cấu tạo gọn nhẹ, bắn được cả liên thanh và phát một. Bắn liên thanh là hình thức hỏa lực chủ yếu.
- Súng AK sử dụng đạn kiểu 1943 do Liên Xô sản xuất và sử dụng đạn kiểu 1956 do Trung Quốc sản xuất, Việt Nam thường gọi là đạn K56. Đạn K56 có 4 loại đầu đạn, đầu đạn thường, đầu đạn vạch đường, đầu đạn xuyên, đầu đạn cháy. Hộp tiếp đạn chứa được 30 viên.
- Tầm bắn ghi trên thước ngắm từ 100 – 800m, AKM và AKMS đến 1000m.
- Tầm bắn hiệu quả 400m.
- Tầm bắn thẳng với mục tiêu cao 0.5m là 350m, với mục tiêu cao 1.5m là 525m.
- Tốc độ đầu của đầu đạn 710m/s; AKM và AKMS là 715m/s
- Tốc độ bắn ;
+ Lý thuyết khoảng 600 phát/phút.
+ Chiến đấu: khi bắn liên thanh 100 phát/phút, khi băn phát một 40 phát/phút.
Khối lượng của súng: AK là 3.8kg; AKM là 3.1kg; AKMS là 3.3kg. Khi lắp đủ 30 viên đạn khối luợng của súng tăng 0.5kg.