Tại sao miền nam không trồng được vải

Kể từ ngày giàn khoan HD 981 của Trung Quốc cắm vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, hàng ngàn câu chuyện không tốt lành ập xuống nhân dân Việt Nam, trong đó, đáng kể nhất vẫn là những người nông dân chân lấm tay bùn quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời lại chịu thiệt hại nặng nề nhất bởi cái gián khoan này. Những nông dân trồng vải ở Hưng Yên và các tỉnh phía Bắc phải dở khóc dở cười ra sao với cái giàn khoan này?

Trái vải bị bỏ rơi…

Một nông dân tên Tuất, ở Lục Ngạn, chia sẻ: “Nói chung là giá vải năm nay không cao như năm ngoái, năm ngoái giá vải nó cao hơn thì thu hoạch được nhiều hơn, năm nay thì không được mấy. Năm nay giá vải nó rẻ hơn, năm nay tình hình như thế này thì mình không xuất cho nó – Trung Quốc, mà nó cũng không lấy của mình. Nhưng mà năm nay giá không được tốt, đầu mùa thì giá khoảng 20 ngàn một ký, còn giờ thì chỉ có gần mười ngàn một ký thôi!”

Theo ông Tuất, mùa vải năm nay trái sung mãn, phải nói là bội thu về sản phẩm, những trái vải tròn, căng mẩy và không có sâu bọ đã khiến ông nhiều lần nhìn vườn vải thiều mà khấp khởi hy vọng rằng năm nay sẽ khấm khá hơn mọi năm, chuyện sắm sửa trong nhà cũng như cho con cái tiền ăn học sẽ rộng tay hơn một chút. Thế nhưng đến ngày thu hoạch, mọi chuyện lại hoàn toàn khác!

Kế hoạch trồng trọt đều tùy thuộc vào chỉ định của thương nhân TQ. Chính vì thế, khi thương lái Trung Quốc bỏ thị trường Việt Nam thì người nông dân chỉ còn biết chép miệng và loay hoay tìm hướng để tự cứu mình

Nếu như năm ngoái, vải đầu mùa được thương lái mua với giá hai mươi ngàn đồng trên mỗi kí lô, nhưng năm nay, vải đầu mùa chỉ bán được cao nhất là mười lăm ngàn đồng trên một kí lô trong khi đó, chất lượng vải năm nay đạt hơn rất nhiều so với năm ngoái. Và cũng khác với không khí mua bán tấp nập mọi năm, mùa vải năm nay việc mua bán diễn ra chậm chạp, nhiều vườn vải rơi vào tình trạng chín bói, chuyển sang trạng thái lên men và gây thối… Và năm ngoái, vải giữa mùa bán được từ bảy đến mười hai ngàn đồng trên một ký thì hiện tại, chỉ cần bán được với giá năm ngàn đồng một ký là chủ vườn đã mừng khấp khởi. Vì nguồn vải thiều bị khủng hoảng thừa trong khi đầu ra không có bởi thương lái Trung Quốc đã bỏ hẳn thị trường vải thiều Việt Nam. Trong khi đó, mọi kế hoạch nông nghiệp ở các tỉnh Tây Bắc đều phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp ở đây từ cam, quýt, nhãn lồng, vải thiều… đều nhắm đến Trung Quốc, kế hoạch trồng trọt đều tùy thuộc vào chỉ định của thương nhân Trung Quốc. Chính vì thế, khi thương lái Trung Quốc bỏ thị trường Việt Nam thì người nông dân chỉ còn biết chép miệng và loay hoay tìm hướng để tự cứu mình.

Tại sao miền nam không trồng được vải
Được mùa nhưng nông dân không phấn khởi lắm. Ảnh tinngan.vn Ảnh tinngan.vn

Và hướng tự cứu của nhà nông Tây Bắc nói riêng cũng như các tỉnh miền Bắc nói chung trong mùa vải thiều này chính là thị trường miền Nam. Mặc dù không dần dập và chộn rộn như thị trường Trung Quốc, nhưng thị trường miền Nam lại mang đến cho nông dân miền Bắc một niềm tin mới.

Miền Nam hứa hẹn

Nếu như trong những năm 1980, khi miền Bắc rơi vào nạn đói do nền kinh tế tập trung bao cấp, nhiều gia đình miền Bắc không còn gì để sống, phải dắt díu nhau vào miền Nam tìm đất hứa và miền Nam đã mở rộng vòng tay hào hiệp để đón những người Bắc xa xứ bằng nhiều hướng khác nhau, trong đó có người làm ăn thành đạt, cũng có người xin ăn lây lất qua ngày… Thì hiện tại, thị trường miền Nam một lần nữa làm mảnh đất hứa cho trái vải thiều miền Bắc.

Vì miền Nam ít trồng được cây vải mà người miền Nam lại rất thích trái vải, chính vì thế, việc tiêu thụ trái vải ở miền Nam trở nên dễ dàng, thuận lợi. Hơn nữa, người miền Nam rộng lượng và chi tiền không bị ki bo, keo kiệt

Một người chuyên bỏ mối vải thiều ở miền Trung và miền Nam, tên Hóa, chia sẻ: “Hai bốn ký bỏ tại trên này thì ba trăm lẻ năm nghìn, sáng xuất ra là ba trăm mốt, nhưng bỏ sỉ thì ba trăm lẻ năm nghìn, bảo đảm hàng đẹp chứ không phải vải hư vải thối. Có hai loại là vải đai xanh với đai đỏ, là vải thiều chứ không phải vải u, vải này hạt nhỏ. Năm nay được mùa vải nên giá mới rẻ thứ chứ, mọi năm đâu có rẻ thế này, mọi năm tầm này phải bán hai lăm ba mươi nghìn một ký chứ giờ có hai mươi, mười tám nghìn một ký chứ mấy. Rẻ hơn nhiều, rẻ hơn năm bảy giá, do nó không sang Trung Quốc được, mọi năm Trung Quốc nó thu mua nhiều thì hàng mình mới đắt.”

Theo ông Hóa, ban đầu, cứ ngỡ rằng Trung Quốc không mua vải của người Việt, nông dân sẽ chết đói vì không tiêu thụ được vải và một viễn cảnh những gốc vải bị chặt tả tơi để trồng cây khác hiện dần trước mắt. Thế nhưng khi những nhà buôn miền Bắc quyết định đổ xô vào miền Nam thì câu chuyện đã hoàn toàn khác.

Vì miền Nam ít trồng được cây vải mà người miền Nam lại rất thích trái vải, chính vì thế, việc tiêu thụ trái vải ở miền Nam trở nên dễ dàng, thuận lợi. Hơn nữa, người miền Nam rộng lượng và chi tiền không bị ki bo, keo kiệt, chính vì thế việc mua bán ít có chuyện “cò kè bớt một thêm hai”, việc trả chác chua ngoa hiếm xãy ra, chỉ cần phải giá là mua, không phải giá thì đi, chuyện mua bán đối với người miền Nam vừa dễ thương vừa hào sảng, phóng khoáng.

Và có lẽ chính vì thế mà một số nhà buôn miền Bắc đã bỏ hẳn ý định nối lại thị trường với Trung Quốc, đào sâu vào thị trường miền Nam. Chính thị trường miền Nam đã cứu cây vải thiều xứ Bắc. Với giá thành hiện tại, có những ngày nhà vườn mang vải ra chợ đầu mối quá nhiều, mỗi kí lô vải sụt xuống còn ba ngàn đồng, nghĩa là một kí vải mua chưa được nửa ổ bánh mì thịt. Nhưng tại các chợ miền Nam, giá mỗi kí vải vẫn dao động từ hai mươi đến hai mươi lăm ngàn đồng, vẫn bán rất chạy và không khí chợ miền Nam luôn làm cho nhà buôn miền Bắc lần đầu đưa vải vào miền Nam lâng lâng hy vọng.

Khác với việc buôn bán với nhà buôn Trung Quốc, bắt nhà buôn Việt Nam phải hầu hạ, chầu chực và đôi khi gài thế để ứ hàng, cuối cùng phải bán đổ bán tháo… Các nhà buôn miền Nam luôn nói thẳng và cảm thấy không vừa giá thì tuyên bố không mua, nếu đúng giá thì vui vẻ nhận hàng. Hầu như làm việc với nhà buôn miền Nam luôn tạo cảm giác gần gũi, dễ sống gấp triệu lần so với việc phải chơi với nhà buôn Trung Quốc.

Chính vì thế, theo ông Hóa, thị trường miền Nam sẽ thay thế cho thị trường Trung Quốc trong nhiều năm tới và ông lấy làm hối tiếc tại sao không nghĩ sớm đến việc đưa nông sản vào miền Nam mà bán để dễ dàng và thuận tiện nhiều thứ mà lại dây dưa với người Trung Quốc quá lâu dài để rồi hàng trăm thứ hệ lụy không đáng có đã ập lên đầu người dân Việt Nam.

Câu chuyện trái vải thời giàn khoan Trung Quốc xâm lược Việt Nam là một câu chuyện dài, bởi nó liên quan đến người nông dân và nó phản ánh tâm tư của nhà nông Việt Nam trước bối cảnh lịch sử hết sức rối ren của đất nước mà trong đó, phần lỗi lại thuộc về một thứ gì đó thuộc cấp độ vĩ mô.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Thưa quý độc giả,
Báo điện tử VTC News mong nhận được sự ủng hộ của quý bạn đọc để có điều kiện nâng cao hơn nữa chất lượng nội dung cũng như hình thức, đáp ứng yêu cầu tiếp nhận thông tin ngày càng cao. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn quý độc giả luôn đồng hành, ủng hộ tờ báo phát triển. Mong nhận được sự ủng hộ của quý vị qua hình thức:

(VTC News) – Đưa vải vào miền Nam có giải quyết được khó khăn cho bà con nông dân trồng vải thời điểm này hay không vẫn là câu hỏi khó.
“Nhờ đẩy mạnh đưa vải thiều vào miền Nam, nông dân đã tiêu thụ được 60-70% lượng vải thiều mà các năm trước phải phụ thuộc thị trường Trung Quốc” là thông tin được Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải đưa ra tại phiên họp báo Chính phủ chiều 1/7.

Tại sao miền nam không trồng được vải
Vải thiều vào miền Nam chỉ là giải pháp tạm thời

Thoạt đầu, thông tin này có thể tạm thời làm yên lòng người nghe bởi con số mà lãnh đạo Bộ Công Thương nói hẳn nhiên phải chính xác.

Tuy nhiên, nhiều người bắt đầu ngờ ngợ ở sự ước đoán “nếu 90 triệu dân mỗi người ăn vài lạng sẽ giúp nông dân tiêu thụ hết vải thiều” mà vị lãnh đạo này đưa ra.

Có thể hiểu đó chỉ là lời kêu gọi thực lòng của lãnh đạo ngành Công Thương nhằm cứu vãn một tình thế vốn đang rất khó khăn của người nông dân trồng vải hiện tại. Nhưng, lời kêu gọi đó rất có thể sẽ chỉ trở thành một lời nói suông bởi đi kèm đó không có những lý do thuyết phục.

Có thể thấy, chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” được phát động nhiều năm nay, nhưng kết quả thu được vẫn thực sự rất khiêm tốn. Nhiều loại hàng hóa vốn là thế mạnh của Việt Nam như may mặc, nông sản... đã và đang chấp nhận "lép vế" bởi hàng Trung Quốc tràn lan ở thị trường Việt nhờ ưu thế giá rẻ, mẫu mã bắt mắt dù chất lượng có kém hơn.

Rõ ràng ở đây là câu chuyện thị trường. Nhu cầu thực tế của người tiêu dùng tác động trực tiếp đến thị trường. Muốn giải bài toán thị trường đương nhiên phải nhìn từ góc độ của thị trường chứ không thể áp đặt yếu tố chính trị, hay gần hơn là hô hào lòng yêu nước một cách thuần túy.

Thế nên, việc mỗi người dân ăn vài lạng vải mỗi ngày để giải quyết bài toán đầu ra tức thì cho nông dân trồng vải theo lời ông Hải có lẽ chỉ là chuyện… ước ao.

Nhu cầu tiêu dùng thực tế của mỗi người dân là khác nhau. Thứ nữa, họ chưa được chuẩn bị sẵn sàng về tâm lý “yêu hàng Việt” một cách vô điều kiện nên khó tiếp nhận ngay lời kêu gọi của Thứ trưởng ngành.

Muốn dân yêu hàng Việt, trước hết phải bắt đầu từ thị trường. Làm tốt khâu tiếp thị, khâu bảo quản, phân phối, đặc biệt chú ý đầu tư sản xuất hiệu quả để có giá thành cạnh tranh mới có thể khiến dân tin dùng hàng hóa trong nước. Để giải bài toán này, cần có sự chuẩn bị, thực hiện từ rất lâu chứ không thể chờ đến khi quả vải "gặp hạn" vì thị trường Trung Quốc mới đem ra bàn tính, sẽ khó thành hiện thực.

Trở lại câu chuyện đưa quả vải vào miền Nam, liệu đây có phải là điều dễ dàng và giải quyết được ngay khó khăn trước mắt?

Đem vấn đề này trao đổi với ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện chính sách và chiến lược Phát triển nông nghiệp, nông thôn (Bộ NN&PTNN), chúng tôi thấy thực tế còn có rất nhiều khó khăn mà chúng ta chưa tính đến.

Theo ông Tuấn, vải thiều là đặc sản ở miền Bắc, chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc qua đường tiểu ngạch. Nhờ những ưu thế về địa lý, những tỉnh trồng vải thiều như Bắc Ninh, Hưng Yên… đều khá gần với các cửa khẩu như Tân Thanh, Lạng Sơn, Lào Cai, Móng Cái nên xuất khẩu thuận tiện, thời gian xuất đi cũng nhanh và đó là lợi thế cạnh tranh cho quả vải.

Mặt khác, do thu hoạch ra đến đâu, thương lái thu mua luôn và xuất hàng đi ngay nên trước nay bà con nông dân không chú ý đến đầu tư cho khâu bảo quản, hoặc chế biến sâu nhằm chuẩn bị cho những tình huống xấu như chuyện Trung Quốc hạn chế nhập vải hiện nay.

“Nay chuyển quả vải vào miền Nam, thời gian lâu hơn, đường vận chuyển cũng không thuận tiện, có khi vào được các chợ, các siêu thị miền Nam phải mất cả tuần. Nếu không có công nghệ bảo quản tốt, quả vải vào đến nơi có còn đủ tươi ngon, có được người tiêu dùng đón nhận?”, ông Tuấn đặt vấn đề.

Mặt khác, cũng theo vị chuyên gia này, hiện ở miền Nam cũng đang đúng vụ chôm chôm. Liệu quả vải miền Bắc cạnh tranh được với chôm chôm ở miền Nam hay không cũng cần được tính toán kỹ.

Những vấn đề ông Tuấn nêu ra cho thấy, nếu lúc này chúng ta quá lạc quan và tin tưởng ở việc đưa quả vải vào tiêu thụ ở thị trường miền Nam thì có lẽ còn hơi sớm. Có thể trước mắt, đó là giải pháp duy nhất để chúng ta bám vào, tạm thời tháo gỡ khó khăn được tới đâu hay tới đó.

Nhưng từ sự bị động lần này trong xuất khẩu vải, đã đến lúc các ngành công thương, nông nghiệp phải nhìn xa hơn, tính toán bước đi chắc chắn hơn để giảm thiểu sự bấp bênh khi để nhiều mặt hàng nông sản, đơn cử như quả vải phải phụ thuộc quá lớn và một thị trường nhiều bất ổn như Trung Quốc.

Đặc biệt, với những mặt hàng mang tính thời vụ ngắn như quả vải, cả thu hoạch, lẫn tiêu thụ chỉ gói gọn trong 1, 2 tháng, thì càng cần thiết phải tính toán ngay đến việc tìm một đầu ra ổn định hơn.

Tìm kiếm các thị trường xuất khẩu mới ngoài Trung Quốc là việc phải được các ngành xúc tiến nhanh. Bên cạnh đó, việc quy hoạch vùng sản xuất,  rồi đầu tư công nghệ, hệ thống bảo quản, phân phối, tiêu thụ cũng phải được sắp xếp lại để việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững đạt hiệu quả thực chất. Đó không chỉ là vấn đề "lộ trình tái cơ cấu" mà là vấn đề cấp bách của ngành nông nghiệp Việt Nam.


Hoàng Lan