Tại sao nói ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội?

Mục lục bài viết

  • 1. Ý thức xã hộilà gì?
  • 2. Bản chất của ý thức xã hội
  • 3. Khái niệm ý thức xã hội, tồn tại xã hội theo quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen
  • 4. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
  • 5. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
  • 6. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội

1. Ý thức xã hộilà gì?

Ý thức xã hộilà khái niệm triết học dùng để chỉ các hình thái khác nhau của tinh thần trong đời sống xã hội bao gồm những tư tưởng, quan điểm, tình cảm, tâm trạng, thói quen, phong tục, tập quán,truyền thống… của cộng đồng xã hội được sinh ra trong quá trình xã hội tồn tại và phản ánh tồn tại xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ý thức xã hội chỉ là một bộ phận của đời sống tinh thần.

2. Bản chất của ý thức xã hội

  • Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định.Nguồn gốc, nội dung, tính chất của ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định; và khi tồn tại xã hội thay đổi, nhất là khi phương thức sản xuất thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi các yếu tố của ý thức xã hội với mức độ, nhịp điệu khác nhau. Khi trong tồn tại xã hội có sự phân chia giai cấp, ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội một cách đa dạng, phức tạp, bị ảnh hưởng bởi các yếu tố trung gian (lợi ích, tình cảm…). Khi những điều kiện tồn tại xã hội thay đổi thì một số yếu tố cụ thể trong ý thức xã hội sẽ thay đổi theo. Tuy nhiên cũng có những yếu tố không thay đổi trong hàng ngàn năm dù cho các điều kiện tồn tại xã hội liên tục thay đổi.
  • Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với tồn tại xã hội.Do sức ỳ của ý thức xã hội, những tác động qua lại về lợi ích trong xã hội và do bản chất là sự phản ánh của tồn tại xã hội nên một số yếu tố của ý thức xã hội cụ vẫn tồn tại và phát huy ảnh hưởng trong tồn tại xã hội mới. Tuy nhiên, trong những điều kiện nhất định, một số yếu tố của ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Trong quá trình phát triển của ý thức xã hội, các tư tưởng, quan điểm… thường có sự kế thừa lẫn nhau, nó là sự thống nhất giữa giữ gìn và loại bỏ, do đó cần phải chống khuynh hướng "bảo thủ" và "phủ định sạch trơn".
  • Giữa các hình thái ý thức xã hội luôn có sự xâm nhập, ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau. Ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định thường có một hình thái ý thức xã hội nổi lên đóng vai trò chủ đạo, chi phối các hình thái ý thức xã hội khác. Do đó, việc tìm hiểu sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội có ý nghĩa thực tiễn lớn.
  • Ý thức xã hội có thể tác động mạnh mẽ trở lại tồn tại xã hội; nó có thể thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội khi phản ánh đúng quy luật vận động của tồn tại xã hội; thậm chí kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội khi phản ánh không đúng quy luật vận động của tồn tại xã hội.

3. Khái niệm ý thức xã hội, tồn tại xã hội theo quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen

Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, nội dung cơ bản của khái niệm ý thức xã hội được thể hiện rõ ở luận điểm “ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức”(1). Trước khi rút ra kết luận này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải thích rõ về quan hệ giữa những ý niệm, quan niệm của con người với hoạt động vật chất của họ: “... những quan niệm, tư duy, sự giao tiếp tinh thần của con người xuất hiện ra còn là sản phẩm trực tiếp của các quan hệ vật chất của họ. Đối với sự sản xuất tinh thần, đúng như nó biểu hiện trong ngôn ngữ của chính trị, của luật pháp, của đạo đức, của tôn giáo, của siêu hình học, v.v.. trong một dân tộc thì cũng thế”(2). Những luận điểm này khẳng định, ý thức xã hội là sản phẩm của tồn tại xã hội. Ý thức xã hội bắt nguồn từ tồn tại xã hội, hình thành do nhu cầu của tồn tại xã hội, và đặc biệt, là kết quả tất yếu của hoạt động vật chất có tính xã hội của con người và cũng đáp ứng yêu cầu của tồn tại xã hội một cách tất yếu.

Cùng với khái niệm ý thức xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng bàn đến khái niệm tồn tại xã hội. Theo các nhà kinh điển, tồn tại xã hội là quá trình đời sống hiện thực của con người. Đó là quá trình hoạt động, sinh sống vật chất của các cá nhân cùng với những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ. Trong toàn bộ sinh hoạt hiện thực của con người, trước hết các ông nói đến vị trí, vai trò quan trọng quyết định của sản xuất vật chất, đặc biệt là sự sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt. C.Mác và Ph.Ănghen viết: “Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”(3).

4. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

Tiếp thu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời trên cơ sở thực tiễn của thời đại và thực tế ở Nga, V.I.Lênin đã phát triển và khái quát thêm nhiều nội dung mới và cụ thể hơn về vấn đề nguồn gốc, bản chất của ý thức xã hội. Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, sau khi phê phán quan điểm sai lầm của Bôgđanốp khi ông ta cho rằng tồn tại xã hội và ý thức xã hội là đồng nhất. V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Tồn tại xã hội và ý thức xã hội không phải là đồng nhất, cũng như nói chung, tồn tại và ý thức không phải là đồng nhất. Con người, khi liên hệ với nhau, đều xử sự với tư cách là những sinh vật có ý thức, nhưng hoàn toàn không thể do đó mà kết luận rằng ý thức xã hội là đồng nhất với tồn tại xã hội”(4). Theo V.I.Lênin, “Trong tất cả những hình thái xã hội ít nhiều phức tạp, và nhất là trong hình thái xã hội tư bản, con người, khi liên hệ với nhau, đều không có ý thức về những mối quan hệ xã hội giữa họ với nhau, hoặc về những quy luật chi phối sự phát triển của những mối quan hệ ấy, v.v.[...] Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, đó là học thuyết của Mác. Hình ảnh có thể phản ánh vật thể một cách gần đúng, nhưng ở đây mà nói về sự đồng nhất thì vô lý”(5)và ông đi đến kết luận: “Nói chung, ý thức phản ánh tồn tại, đó là một nguyên lý chung của toàn bộ chủ nghĩa duy vật, và không thể không nhìn thấy mối liên hệ trực tiếp và mật thiết giữa nguyên lý ấy với nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội”(6).

Khẳng định ý thức xã hội là sự phản ánh và do tồn tại xã hội quyết định, triết học Mác - Lênin cũng đồng thời nhấn mạnh, ý thức xã hội không phụ thuộc hoàn toàn vào tồn tại xã hội mà nó có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Quan điểm này được thể hiện rõ trong những luận điểm phê phán chủ nghĩa duy tâm khi họ tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, ý thức xã hội. Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra quan niệm duy tâm về lịch sử (thực chất là giải thích sai lệch về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội) của cả phái Hêghen trẻ và phái Hêghen già: “Phái Hêghen trẻ cho rằng những quan niệm, ý niệm, khái niệm, nói chung những sản phẩm của ý thức mà họ gán cho là có một sự tồn tại độc lập, đều là những xiềng xích thật sự đối với con người, - giống như phái Hêghen già tuyên bố rằng chúng là những sợi dây ràng buộc thực sự đối với xã hội loài người, - cho nên dĩ nhiên phái Hêghen trẻ chỉ cần tiến hành đấu tranh chống lại những ảo tưởng đó của ý thức mà thôi. Vì theo họ tưởng tượng, những quan hệ của con người, tất cả mọi hành động và cử chỉ của con người... đều là sản phẩm của ý thức của họ”(7).

Khi bàn về nguyên nhân của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, triết học Mác - Lênin cho rằng, chính sự phân công lao động xã hội là nguyên nhân đầu tiên và chủ yếu nhất. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Phân công lao động chỉ trở thành phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện sự phân chia thành lao động vật chất và lao động tinh thần. Bắt đầu từ lúc đó, ý thức có thể thực sự tưởng tượng rằng nó là một cái gì khác chứ không phải là ý thức về thực tiễn hiện có, rằng nó có thể thực sự đại biểu cho một cái gì đó mà không đại biểu cho một cái gì hiện thực cả; bắt đầu từ lúc đó, ý thức có khả năng tự giải thoát khỏi thế giới và chuyển sang xây dựng lý luận “thuần túy”, thần học, triết học, đạo đức, v.v..”(8).

Một nguyên nhân khác của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội là do sự phân chia xã hội thành giai cấp và sự xuất hiện của nhà nước. Vì lợi ích giai cấp mà các giai cấp thống trị sẵn sàng áp đặt ý chí và nguyện vọng của mình vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động sản xuất tinh thần. Chính điều đó làm cho ý thức xã hội ít nhiều mang tính chất chủ quan, không phản ánh đúng thực trạng kinh tế - xã hội.

Ngoài các nguyên nhân trên, trình độ và đặc điểm nhận thức của con người cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự độc lập của ý thức xã hội. Theo Ph.Ăngghen, trong buổi bình minh của lịch sử, do nhận thức thấp kém, con người đã có những quan niệm sai lầm về sự cấu tạo của thân thể họ, về thiên nhiên, về những lực lượng bí ẩn... Những quan niệm sai lầm đó được thể hiện không chỉ trong tôn giáo mà còn cả trong triết học. Trong quá trình phát triển của nhận thức, những quan niệm sai lầm đó được gạt bỏ dần dần, nhưng không phải vì thế mà chúng không còn gây ảnh hưởng đến những giai đoạn nhận thức tiếp theo.

5. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội

Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng là một biểu hiện nữa của tính độc lập tương đối của ý thức. Đây là qui luật phát triển của ý thức xã hội. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.

Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến cách hình thái ý thức khác.

Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt quan trọng, còn ở Tây Âu thời trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống tinh thần xã hội như triết học, nghệ thuật, đạo đức, chính trị, pháp quyền, ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác nhau. Ở Pháp cuối thế kỷ XVIII và Đức cuối thế kỷ XIX triết học và văn hóa là công cụ quan trọng nhất để tuyên truyền những tư tưởng chính trị, là vũ đài của cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng xã hội tiên tiến.

Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học, văn học, nghệ thuật… mà tách rời đường lối chính trị đổi mới đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.

6. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội

Đâu là biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Chủ nghĩa Mác Lênin không những chống lại quan điểm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường phủ nhận vai trò tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Ph. Ăng ghen đã khẳng định “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật…đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế.”

Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh, vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội, vào mức độ thâm nhập của tư tưởng đó vào quần chúng. Vì vậy cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức của tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội.

Như vậy, nguyên lý của triết học Mác Lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đây cũng là cơ sở lý luận để quán triệt quan điểm của Đảng ta trong việc kết hợp phát triển kinh tế với xây dựng nền văn hóa mới, và con người mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ghi chú:

(1), (2), (3), (7), (8) C.Mác và Ph.Ăngghen:Toàn tập,t.3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.37, 37, 29, 27, 45.

(4), (5), (6) V.I.Lênin:Toàn tập,t.18, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.400, 400, 400.