Tại sao Quảng Bình không được chọn xây dựng nhà máy điện hạt nhân

Trưởng ban Kinh tế T.Ư cho biết, việc Đảng, Nhà nước dừng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận với lý do lớn nhất là chi phí lớn trong bối cảnh nợ công tăng, ngân sách khó, đồng thời chúng ta cũng cần thêm thời gian để tích luỹ vốn, chuyên môn nhằm từng bước làm chủ công nghệ hạt nhân.

Việc dừng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận đã được ông Nguyễn Văn Bình, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế T.Ư, nhắc tới khi phát biểu tại Hội nghị báo cáo viên T.Ư quán triệt Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng phát triển năng lượng quốc gia đến 2030, tầm nhìn 2045, tổ chức tại Ban Tuyên giáo T.Ư, hôm nay, 8.5.

Trong bài trình bày của mình, khi nhìn lại hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết 18 năm 2007 của Bộ Chính trị về định hướng phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, ông Bình cho biết, Nghị quyết 18 cùng với Kết luận 26 năm 2003 của Bộ Chính trị đã đưa ra những mục tiêu, định hướng và cả các nhóm chính sách "đã rất đúng và trúng".

Điển hình như nhóm chính sách đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia gắn với đảm bảo an ninh xã hội, an ninh quốc phòng, hay nhóm chính sách về giá năng lượng dần dần bỏ bao cấp để thị trường hoá cũng là bước tiến vì nếu cứ bảo thủ thì không có đủ nguồn vốn cho đầu tư vào năng lượng. Hoặc nhóm chính sách cho các ngành năng lượng mới, năng lượng tái tạo, điện hạt nhân...

Tuy nhiên, việc thực hiện Kết luận 26 và Nghị quyết 18 của Bộ Chính trị cũng có những mặt còn hạn chế. Một trong số đó được ông Bình nhắc tới là việc đào tạo bổ sung đón đầu một số lĩnh vực còn yếu, chưa thực sự gắn kết với yêu cầu nhiệm vụ, nhất là trong năng lượng mới và tái tạo, năng lượng sinh học, lọc hoá dầu, điện hạt nhân…

Khi nhắc tới điện hạt nhân, ông Bình cho rằng, việc dừng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận đã được Đảng, Nhà nước quyết định sau khi cân nhắc một cách cẩn trọng với nhiều lý do.

“Lý do lớn nhất là chi phí. Nếu chi phí cao thì chúng ta không chịu nổi trong bối cảnh khi đó là nợ công, nợ nước ngoài đều đã cao, ngân sách thì khó khăn. Cho nên, trước mắt chúng ta chọn cách phát triển các nguồn khác”, ông Bình nói, song nhấn mạnh thêm rằng: “Nhưng dừng không có nghĩa là chúng ta không phát triển điện hạt nhân nữa. Việc dừng là để chúng ta tích luỹ thêm về vốn, chuyên môn, từng bước làm chủ các công nghệ hạt nhân mới yên tâm vận hành các nhà máy. Vì an toàn là vấn đề rất quan trọng”.

Theo Trưởng ban Kinh tế T.Ư, công nghệ hạt nhân không chỉ phục vụ điện mà còn nhiều lĩnh vực khác, cho nên, chúng ta phải tiếp tục học tập, tích luỹ công nghệ hạt nhân.

“Chúng ta phải liệu cơm gắp mắm. Ai cũng biết đi ô tô thì tiện nghi, an toàn hơn xe máy, xe đạp nhưng nếu chưa đủ điều kiện thì xe mua xe máy thôi. Khi có thêm tiền thì học lái ô tô đi cho an toàn. Nghĩa là ta biết hướng lên nhưng cũng phải phù hợp với thực tiễn”, ông Bình nói.

Ngày 22.11.2016, Quốc hội đã thông qua nghị quyết về việc dừng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, sau khi đã có chủ trương thực hiện từ năm 2009.

Tại buổi họp báo sau khi Quốc hội thông qua nghị quyết dừng dự án, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, cũng cho hay, việc dừng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 được T.Ư Đảng, Quốc hội, Chính phủ cân nhắc rất kỹ lưỡng trên cơ sở điều kiện kinh tế của Việt Nam tại thời điểm hiện tại.

Lý do chủ yếu là sau khi cân đối lại các nguồn lực phát triển kinh tế trong tình hình hiện nay, lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ thấy rằng cần ưu tiên nguồn lực cho các dự án lớn, cấp bách hơn.

Tin liên quan

Tại sao Quảng Bình không được chọn xây dựng nhà máy điện hạt nhân

Tại sao Quảng Bình không được chọn xây dựng nhà máy điện hạt nhân

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

Tại một hội nghị vào tháng trước về Quy hoạch Điện VIII ( 2021-2030) do Bộ Công Thương tổ chức, các chuyên gia Viện Năng lượng, cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc lập kế hoạch phát triển năng lượng ở Việt Nam, đã đề xuất đưa điện hạt nhân vào cơ cấu năng lượng của Việt Nam sau năm 2040. Cụ thể, Viện dự kiến ​​năng lượng hạt nhân sẽ đóng góp 1 gigawatt (GW) điện cho Việt Nam vào năm 2040 và 5 GW vào năm 2045.

Đến cuối năm 2019, tổng công suất phát điện lắp đặt của Việt Nam là 54,88 GW, bao gồm điện than (33,2%), thủy điện lớn (30,1%), dầu khí (14,8%), và thủy điện nhỏ và năng lượng tái tạo (20,3%). Việt Nam hiện đặt mục tiêu tăng gấp đôi công suất lên 130 GW vào năm 2030. Trong một kịch bản được trình bày tại hội thảo, Viện Năng lượng dự kiến tổng công suất lắp đặt của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng sau đó và có thểđạt mức 268 GW vào năm 2045.

Như vậy, nếu Việt Nam đạt công suất điện hạt nhân là 5 GW vào năm 2045, thì công suất này chỉ chiếm 1,9% tổng công suất lắp đặt dự kiến của Việt Nam vào thời điểm đó – một tỉ lệ không đáng kể. Tuy nhiên, điện hạt nhân có thể được coi là một nguồn năng lượng ổn định giúp tăng cường sự ổn định của hệ thống điện quốc gia. Phát triển năng lượng hạt nhân cũng có thể là một cách để chính phủ Việt Nam xây dựng năng lực quốc gia về sản xuất và công nghệ hạt nhân, đồng thời biểu tượng cho tầm nhìn biến Việt Nam thành một nước công nghiệp vào năm 2045.

Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á có tham vọng phát triển năng lượng hạt nhân. Philippines và Indonesia cũng đang xem xét việc hồi sinh kế hoạch phát triển năng lượng hạt nhân. Việt Nam trước đây từng chuẩn bị xây hai nhà máy điện hạt nhân với tổng công suất 4 GW tại Ninh Thuận, nhưng dự án đã bị hoãn lại hồi tháng 11/2016 vì nhiều lý do khác nhau, bao gồm vấn đề kinh phí và lo ngại về an toàn.

Việt Nam vẫn còn nhiều thời gian để xem xét cẩn trọng lựa chọn năng lượng hạt nhân. Tuy nhiên, nếu xét những vấn đề và tranh cãi liên quan đến năng lượng hạt nhân, Việt Nam không cần phải theo đuổi lựa chọn này bằng mọi giá. Thay vào đó, Việt Nam nên tập trung vào các giải pháp thay thế khác, chẳng hạn như năng lượng tái tạo và các nhà máy điện khí, vốn an toàn hơn, có chi phí hợp lý hơn trong khi ít gây tranh cãi.

Năng lượng tái tạo đang nổi lên trở thành một nguồn năng lượng quan trọng cho Việt Nam. Tới cuối năm 2019, tổng công suất lắp đặt của các dự án điện mặt trời của Việt Nam đạt 5,5 GW, chiếm khoảng 44% tổng công suất điện mặt trời của Đông Nam Á. Các trang trại điện gió, cả trên bờ và ngoài khơi, cũng đang bùng nổ trên cả nước. Theo GWEC Market Intelligence, Việt Nam có tổng công suất điện gió lắp đặt hơn 4,87 GW vào cuối năm 2019, biến Việt Nam thành thị trường điện gió lớn thứ hai ở Đông Nam Á.

Trong tương lai, năng lượng tái tạo sẽ tiếp tục đóng một vai trò quan trọng đối với an ninh năng lượng của Việt Nam. Viện Năng lượng ước tính tổng tiềm năng năng lượng mặt trời của Việt Nam là 434 GW, trong khi năng lượng gió là 377 GW. Tổng hai nguồn năng lượng này là quá đủ để đảm bảo điện cho sự phát triển kinh tế Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Đến năm 2045, năng lượng tái tạo dự kiến ​​sẽ chiếm 43% tổng công suất lắp đặt của Việt Nam, gấp nhiều lần so với tỉ lệ 1,9% được dự kiến cho năng lượng hạt nhân.

Vì các nguồn năng lượng tái tạo không ổn định, bị ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết thay đổi nên vẫn cần các nguồn năng lượng ổn định hơn. Tuy nhiên, ngay cả trên khía cạnh này, năng lượng hạt nhân không phải là lựa chọn tốt nhất cho Việt Nam do công suất hạn chế của nó. Một nguồn năng lượng ổn định sạch hơn, dễ phát triển hơn và an toàn hơn là các nhà máy điện khí. Hiện tại, Việt Nam đang xây dựng hoặc quyhoạch một số kho chứa khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) và các nhà máy điện khí đi kèm, nhà máy đầu tiên trong số này sẽ đi vào hoạt động năm 2026. Đến năm 2028, các nhà máy này sẽ có tổng công suất 10,4 GW. Nếu tất cả các nhà máy điện khí theo quy hoạch được xây dựng, tổng công suất của chúng sẽ đạt 108,5 GW.

Điểm yếu của các nhà máy điện khí là chúng khá đắt trong khi ít nhiều phụ thuộc vào LNG nhập khẩu. Tuy nhiên, so với năng lượng hạt nhân, chúng vẫn an toàn hơn và khả thi hơn về mặt tài chính. Do tính chất phức tạp của các nhà máy điện hạt nhân, chính phủ Việt Nam có thể sẽ phải chịu gánh nặng kép, vừa là chủ sở hữu, vừa là người cung cấp tài chính cho các dự án đó. Tuy nhiên đối với các nhà máy điện khí, chúng có thể được đầu tư xây dựng và vận hành bởi các nhà đầu tư tư nhân hoặc nước ngoài, do đó giúpchính phủ không phải bận tâm về những vấn đề này.

Một yếu tố quan trọng không kém có thể cản trở tham vọng điện hạt nhân của Việt Nam là nhận thức tiêu cực về năng lượng hạt nhân trong cộng đồng, đặc biệt là sau thảm họa hạt nhân năm 2011 tại Fukushima. Năm 2017, khi giải thích về quyết định tạm gác lại dự án điện hạt nhân Ninh Thuận của Việt Nam, nguyênChủ tịch nước Trương Tấn Sang đã thừa nhận rằng sự cố ở Fukushima đã gây lo ngại cho người dân địa phương, dẫn đến việc phản đối dự án. Trên thực tế, không chỉ người dân Ninh Thuận lo lắng; người dân ở các địa phương khác nơi các nhà máy điện hạt nhân được quy hoạch cũng chia sẻ lo ngại tương tự. Vì vậy, nếu chính phủ Việt Nam quyết định theo đuổi các dự án này, căng thẳng chính trị – xã hội có thể tăng lên,gây thêm nhiều thách thức cho nỗ lực phát triển điện hạt nhân của Việt Nam.

Khi nền kinh tế tiếp tục phát triển, nhu cầu năng lượng của Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng. Năng lượng hạt nhân, dù hấp dẫn ở một số khía cạnh nhất định, vẫn là một lựa chọn tốn kém và gây tranh cãi. Năng lượng tái tạo và điện khí có thể cung cấp những giải pháp tốt hơn cho thách thức năng lượng của Việt Nam trongtương lai.

Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản trên ISEAS Commentary.