Thành ngữ nỗi mình thêm tức nỗi nhà thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng

Đáp án đúng là C. hoa Giải thích: Căn cứ bài Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ Cách giải: - Từ có thể có một nghĩa hay nhiều nghĩa. Từ nhiều nghĩa là kết quả của hiện tượng chuyển nghĩa. - Nghĩa gốc là nghĩa xuất hiện từ đầu, làm cơ sở để hình thành các nghĩa khác. Nghĩa chuyển là nghĩa được hình thành trên cơ sở của nghĩa gốc. - Từ hoa trong câu trên được dùng theo nghĩa chuyển - chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ để chỉ người con gái đẹp.

Trong “Truyện Kiều”, có một đoạn mô tả sự kiện được coi như bước ngoặt trong đời nàng Thúy Kiều. Đó là khi gia đình Vương Ông gặp họa “Phải tên xưng xuất tại thằng bán tơ” đem lại, thì cha con Vương Ông-Vương Quan bị bắt đóng gông (Già giang một lão một trai); nhà cửa bị tàn phá (Rụng rời khung cửi tan tành gói may); của cải bị cướp bóc (Đồ tế nhuyễn của riêng tây/ Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham). Từ một tư gia tương đối khá giả, gia đình Thúy Kiều bỗng chốc rơi vào cảnh khuynh gia bại sản. Trước tai họa đó, nàng bắt buộc phải chọn một giải pháp tình thế vô cùng éo le, bi kịch: Hy sinh chữ tình chọn chữ hiếu ngõ hầu đem lại sự bình yên gia cảnh. Chấp nhận bán mình để lấy tiền chuộc cha và em, Thúy Kiều đã trở thành tấm gương tuyệt vời của lòng hiếu thảo.

Sau khi bắn tin chấp nhận điều này, lập tức có hai nhân vật xuất hiện: Bà mối lái và Mã Giám Sinh đến xem mặt, ngã giá để mua Kiều. Nguyễn Du đã mô tả tâm trạng u uất, buồn tủi của nàng vào lúc “Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra”:Nỗi mình thêm tức nỗi nhà/Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.

Hai câu thơ làm cho ta hình dung một sự tình: Nàng Kiều vừa đi từ trong buồng ra vừa khóc (với nước mắt rơi hàng hàng). Nhưng hai từ “thềm hoa” và “lệ hoa” được dùng ở đây với nghĩa gì?

Trước hết ta thấy, từ “hoa” trong“Truyện Kiều”là một từ xuất hiện với tần số nhiều chưa từng thấy: 107 lần.

“Hoa”, tức bông hoa, chỉ "1: Cơ quan sinh sản hữu tính của cây hạt kín, thường có màu sắc và hương thơm (hoa cải, hoa bưởi, hoa nhãn...); 2: Cây trồng để lấy hoa làm cảnh (hoa đào, hoa hồng, hoa thược dược, hoa cẩm chướng,...)..." (“Từ điển tiếng Việt”, Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2020). Nhưng trong “Truyện Kiều”,"hoa"được dùng với những sắc thái nghĩa rất đa dạng.

Bởi có tới 76 trường hợp "hoa" được dùng hoán dụ với nghĩa chỉ "người đẹp, sắc đẹp, tình yêu” (Từ điển Truyện Kiều, Đào Duy Anh, NXB Khoa học Xã hội, 1974), cụ thể,"hoa"được Nguyễn Du dùng để đặc tả khuôn mặt, dáng vẻ, dung nhan của Kiều:Nàng càng ủ dột nét hoa; Lời thề đâu đã phũ phàng với hoa; Xót nàng chút phận thuyền quyên/ Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn; Về đây nước trước bẻ hoa/ Vương tôn quý khách ắt là đua nhau; Sợ gan nát ngọc liều hoa; Hoa xuân đương nhụy ngày xuân còn dài; Từ nghe vườn mới thêm hoa/ Miệng nhà đã lắm tin nhà thì không; Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,...

Cũng từ nghĩa này, "hoa" kết hợp với những thành tố khác tạo nên những tổ hợp mang nghĩa chuyển.

-Hoađèn, chỉ "ngọn đèn tỏa sáng":Đã hay chàng nặng vì tình/ Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru.

- Hoa khôi(khôi: Đứng đầu), danh từ chỉ "người đẹp nhất trong một vùng, một lĩnh vực". Trong"Truyện Kiều", Nguyễn Du dùng từ này chỉ "người đẹp nhất trong chốn thanh lâu" (hàm ý: Nàng Kiều):Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi/ Thiếp hồng tìm đến, hương khuê gửi vào.

- Hoa lê, "hoa cây lê", cũng hàm ý chỉ người đẹp:Cớ sao trằn trọc canh khuya/ Màu hoa lê đã đầm đìa giọt mưa.

-Hoa nguyệt, "hoa và trăng", giống như "nguyệt hoa", hai từ này chỉ "quan hệ nam nữ" (thường là nghĩa không hay):Đừng điều nguyệt nọ hoa kia/ Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai; Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.

-Hoa quan,"mũ hoa" (mũ có trang trí bông hoa bằng vàng hay ngọc):Sẵn sàng phượng liễn loan nghi/ Hoa quan giấp giới hà y rỡ ràng.

-Hoa rơi, chỉ "người con gái đẹp bị lưu lạc": Nàng rằng:Chút phận hoa rơi/ Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.

-Hoa tàn, chỉ "người con gái đẹp phải trải qua nỗi đoạn trường, khổ ải, nhan sắc đã suy giảm":Hoa tàn mà lại thêm tươi/ Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.

-Trướng hoa, "bức trướng thêu hoa", chỉ "buồng ở của phụ nữ":Kiều từ trở gót trướng hoa/ Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.

-Hoa cười ngọc thốt, "hoa và ngọc" được nhân cách hóa, chỉ nụ cười tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc:Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

-Hoa đào năm ngoái, theo ý thơ của Thôi Hiệu:Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong(Khuôn mặt người (quen) không biết đi đâu mất/ Chỉ còn thấy hoa đào năm cũ cười với gió đông). Câu thơ của Nguyễn Du:Trước sau nào thấy bóng người/ Hoa đào năm ngoái còn cười gió đônglại mô tả tâm trạng của chàng Kim, sau thời gian cách xa Kiều (vì việc "thúc phụ từ đường", chàng phải về quê chịu tang), nay quay lại nhà người yêu thấy phong cảnh, gia thế nhà nàng đã đổi thay tan nát (Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời). Chàng xót xa nhìn hoa đào "hiện tại" mà liên tưởng tới "hoa đào năm ngoái" khi còn có Thúy Kiều ở bên.

Ngoài các từ ghép phái sinh trên, "hoa" còn xuất hiện trong một loạt thành ngữ khác: Cỏ nội hoa tàn (nhan sắc người con gái đã phai tàn), hoa ghen thua thắm (người con gái rất đẹp, đến hoa cũng phải ghen), hoa rụng hương bay (người con gái đã qua đời), hoa thải hương thừa (người con gái không còn trinh tiết, bị vứt bỏ, khinh rẻ), hoa trôi bèo giạt (cảnh lênh đênh, trôi nổi của đời người con gái), hoa xuân đương nhụy (người con gái ở độ tuổi xuân xanh, đang đẹp), hoa xưa ong cũ (người con gái gặp lại người cũ, tình nhân cũ), liễu chán hoa chê (chỉ cảnh ăn chơi hết tầm, tới mức chẳng còn thiết gì nữa), nguyệt nọ hoa kia (quan hệ nam nữ linh tinh, không đứng đắn),...

Quay trở lại hai từ "thềm hoa" và "lệ hoa" dẫn ở đầu bài này. "Thềm hoa'', chỉ "thềm nhà có trồng hoa” (Đào Duy Anh còn cho rằng "hoặc là thêm từ "hoa" cho lời thêm đẹp"). Còn "lệ hoa", dùng để chỉ "nước mắt của người con gái đẹp". Trong câu thơ:Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàngthì "lệ hoa" chính là để tả những giọt nước mắt của Thúy Kiều. Nàng Kiều, đẹp từ dáng điệu, từ cử chỉ, từ lời nói. Tất nhiên là lúc nàng vui vẻ, hạnh phúc, tràn đầy sức sống. Điều đó quá rõ ràng. Nhưng ngay cả khi Thúy Kiều buồn rầu, đau khổ... thì sự thể hiện của nàng vẫn là những nét riêng chỉ người đẹp mới có: "Ủ dột nét hoa", "Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa", "Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây",...

Như vậy, với cách thể hiện của mình trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du "cấp" cho từ “hoa” những nét nghĩa vô cùng đặc sắc. Từ "hoa" gắn liền với Thúy Kiều, thể hiện diện mạo, dung nhan "sắc nước hương trời" và thể hiện mọi cung bậc tình cảm của nàng trong những hoàn cảnh mà 15 năm lưu lạc nàng đã trải qua:Lúc là "hoa" của đời thường/ Lúc là "quốc sắc thiên hương" lẫy lừng(Thơ Phạm Văn Tình).

PGS, TSPHẠM VĂN TÌNH (Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam)

 Đề bài:   Phân tích đoan thơ sau

“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà … Nét buồn như cúc , điệu gầy như mai”

Dàn bài chi tiết

   A- Mở bài:

   – Giới thiệu…

   – Truyện Kiều của Nguyễn Du là một bản cáo trạng bằng thơ lên án xã hội xấu xa tàn bạo mà còn biểu hiện nỗi đau khổ của những con người bị áp bức.

   – Nàng Kiều nhân vật chính là hiện thân của những con người bị chà đạp. Nỗi đau khổ đầu tiên của Kiều phải chịu là sắc tài bị vùi dập thảm thương. Nhà thơ Nguyễn Du đã hoá thân vào nhân vật để hiểu tâm trạng nàng lúc đó:

   ( Trích dẫn …)

“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”

   B- Thân Bài:

   *Tâm trạng của nàng Kiều:

   – Đau đớn, tủi nhục, ê chề, nước mắt đầm đìa.

   – Câm lặng, thụ động như một cái máy vì tự nguyện bán mình.

   + Nêu ngắn gọn những sự việc trước đó.

   Phải bán mình cho MGS bởi gia đình nàng gặp tai hoạ bất ngờ, thằng bán tơ đã vu oan cho gia đình nàng. Cha và em bị bắt, bị đánh đập dã man, tài sản của gia đình bị vơ vét sạch. Là đứa con trong gia đình không còn con đường nào khác, Kiều đành hi sinh mối tình đầu, chấp nhận mình làm vợ lẽ MGS để có tiền cứu cha và em. Đoạn thơ này đã miêu tả cụ thể tâm trạng của nàng lúc đó.

   + Phân tích cụ thể đoạn thơ:

   Mở đầu đoạn thơ, nhà thơ đã ghi lại cụ thể tâm trạng của nàng: “Nỗi mình thêm tức nỗi nhà” đó là nỗi đau uất hận cao độ bởi cảnh ngộ gia đình nàng bị chia li tan tác, cha và em bị đánh đập dã man, không chỉ vậy còn có nỗi niềm riêng của nàng. Cái “nỗi mình” mà thơ nhắc là tình yêu của nàng dành cho Kim Trọng. Mối tình đầu trong sáng đang toả sắc lên hương. Giờ đây vì cảnh ngộ gia đình nàng phải chia li. Hai nỗi niềm chồng chất đè nặng lên tâm tư nàng, khiến cho nàng càng đau xót.

   – Bởi vậy từ trong phòng bước ra, giáp mặt với MGS trong lễ “vấn danh” mỗi bước đi của nàng chứa đầy tâm trạng “thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng” à với cách miêu tả có tính chất ước lệ: thềm hoa, lệ hoa, câu thơ vừa có giá trị gợi hình, vừa có giá trị gợi cảm. Trước mắt người đọc hiện ra khuôn mặt thấm đầy nước mắt, những giọt nước mắt tủi phận, vừa thương cho mình, vừa thương cho cha và em, vừa căm tức cuộc đời ngang trái đã đổ ập tai hoạ xuống gia đình nàng.

   – Không những vậy tâm trạng nàng lúc này còn là sự e ngại, ngượng ngùng: “ngại ngùng dín gió e sương – nhìn hoa bóng thẹn trông gương mặt dày”.

   Là một thiếu nữ sinh ra và lớn lên trong gia đình gia giáo, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”. Thế mà giờ sắc tài của nàng phải chấp nhận để cho người ta xem xét, vạch vòi, thử, ép. Nàng vô cùng tủi hổ, e thẹn. Nhìn hoa mà thẹn với hoa, nhìn thấy gương mà như cảm thấy da mặt mình dày lên. Điều đó thể hiện nàng đã ý thức rất rõ về nhân phẩm của mình nhưng vì cảnh ngộ gia đình, sự sống của cha và em, nàng đành chấp nhận, hình ảnh nàng lúc này giống cái bóng lặng câm nhoè dần trước ánh sáng của đồng tiền: “Mối càng vén tóc bắt tay”. Sắc đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”, vẻ tươi tắn như hoa Hải Đường mơn mởn giờ như món hàng cho mụ mối vén tóc bắt tay, co kéo, chào mời, nâng lên hạ xuống. Bởi vậy tâm trạng nàng: “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”. Với bút pháp so sánh và hình ảnh ước lệ, nhưng người đọc vẫn nhận rõ tâm trạng nàng lúc này, đó là nỗi buồn, tủi hận xót xa. Hình ảnh nàng chỉ là bông hoa cúc úa tàn, chỉ là cành mai gầy giữa  gông bão của cuộc đời.

   C- Kết bài :

   Thông qua việc miêu tả tam trạng nàng Kiều, đoạn thơ đã phản ánh một hiện thực lớn của lịch sử lúc đó, những người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã trở thành một thứ hàng hoá. Những tên như kẻ bán tơ vu oan, tên qua xử kiện bất chấp công lí, tên buôn người vô lương tâm, và sức mạnh của đồng tiền đã gây ra bất hạnh ấy cho người phụ nữ. Nhà thơ đã lên án, phê phán những kẻ tàn bạo đó, đồng thời biểu hiện niềm xót đau với nàng kiều. Nhà thơ đã cùng cảm thông chia sẻ. Nếu trước ông từng trân trọng tài sắc của nàng bao nhiêu thì giờ ông càng đau xót cho sắc tài bị sỉ nhục, bởi vậy đây chính là tiếng kêu cứu của nhà thơ bênh vực quyền sống cho người phụ nữ. Đoạn thơ cũng như toàn tác phẩm vừa mang giá trị hiện thực, vừa mang giá trị nhân đạo sâu sắc