Tiêm Anti-D là gì

Yếu tố Rhesus là 1 protein trên bề mặt hồng cầu. Khoảng 15% dân số không có yếu tố Rh được gọi là người mang nhóm máu Rh âm.

Mẹ Bố Con
+ + + Không điều trị
+ +/- Không điều trị
+ +/- Điều trị
Không điều trị

Trong suốt thai kỳ, máu mẹ và máu con là 2 hệ thống riêng biệt, tuy nhiên một số lượng nhỏ máu thai nhi sẽ qua nhau vào tuần hoàn mẹ. Yếu tố Rh sẽ có trong tuần hoàn mẹ → tạo kháng thể chống lại yếu tố Rh (Rh antibodies), gọi là hiện tượng nhạy cảm Rh (Rh sensitization).

Khi lần mang thai đầu tiên của người mẹ nhóm máu Rh âm, và thai nhóm máu Rh dương, thường không có vấn đề gì nghiêm trọng xảy ra, do người mẹ chưa tạo kịp nhiều kháng thể cho đến khi sinh.

Nếu không được điều trị dự phòng thì những lần mang thai kế tiếp, kháng thể Rh từ người phụ nữ này sẽ qua bánh nhau vào tuần hoàn thai Rh dương → thiếu máu tán huyết cho thai.

– Sau sẩy thai tự nhiên

– Phá thai nội khoa, ngoại khoa

– Thai ngoài tử cung

– Khi thực hiện các thủ thuật xâm lấn chẩn đoán tiền sản: chọc ối, sinh thiết gai nhau, lấy máu thai nhi…

– Xuất huyết bất thường trước khi chuyển dạ

– Ngoại xoay thai

– Chấn thương bụng kín

3.1 Nguồn Gốc

Anti-D immune globulin là dung dịch chứa IgG anti-D (anti-Rh) được sản xuất từ huyết tương người. Khi tiêm vào người mang nhóm máu Rh âm chưa nhạy cảm với yêu tố Rh, nó sẽ tấn công các yếu tố Rh trong tuần hoàn, ngăn sự tạo kháng thể Rh.

3.2 Mục Đích

Để dự phòng hiện tượng nhạy cảm Rh và bệnh lý tán huyết cho thai kỳ sau.

3.3 Thời Điểm Sử Dụng

– Trước sinh:

+ Sau bất cứ nguy cơ truyền máu thai nhi – mẹ nói trên (SOGC-2003), và sau những trường hợp thai trứng

+ Tuổi thai 28-30 tuần (không có sự khác biệt về hiệu quả khi phác đồ tiêm 2 mũi vào 28 và 34 tuần – theo NICE và ACOG)

– Sau sinh:

+ Trong vòng 72 giờ sau sinh bé Rh dương

+ Trong vòng 72 giờ sau khi mẹ truyền máu có Rh dương (tổng truyền <20% thể tích máu cơ thể)

3.4 Liều Lượng

– Trước sinh:

+ Tiêm bắp 200 mcg anti-D immune globulin: cho thai phụ trong những trường hợp nguy cơ truyền máu thai nhi – mẹ

+ Tiêm bắp 300 mcg anti-D immune globulin: cho thai phụ từ 28-30 tuần tuổi thai

– Sau sinh:

+ Tiêm bắp 300 mcg anti-D immune globulin cho sản phụ sinh bé Rh dương

4.1 Trước Sinh

– Xét nghiệm nhóm máu Rhesus của chồng

– Tiêm bắp 200 mcg anti-D immune globulin cho những trường hợp nguy cơ truyền máu thai nhi – mẹ

– Tiêm bắp 300 mcg anti-D immune globulin cho thai phụ từ 28-30 tuần tuổi thai, nếu sản phụ đến khám thai trễ vẫn có thể chích anti-D globulin nếu thai không quá 34 tuần tuổi thai

4.2 Sau Sinh

– Xét nghiệm nhóm máu trẻ sơ sinh

– Tiêm bắp 300 mcg anti-D immune globulin cho sản phụ sinh bé Rh dương

– Chuẩn bị máu cùng nhóm và cùng yếu tố Rhesus là mục tiêu chính trong cuộc chuyển dạ đối với thai phụ mang Rhesus âm.

– Nhập viện trước ngày dự sinh và mua dự trù 2 đơn vị máu hiếm.

– Ngay sau khi sinh, sẽ lấy máu từ cuống rốn của thai để làm xét nghiệm: nhóm máu ABO/Rh, định lượng Hb, Bilirubin.

Leave a reply →

Có một số nhóm máu gồm A, B, AB, O và một số nhóm máu hiếm hơn. Máu có thể là rh+ hoặc rh-. Loại rh phụ thuộc vào nhóm máu của bố mẹ bạn. Phụ nữ có nhóm máu rh- sẽ mang một thai có rh+ trong tử cung, tế bào máu từ thai của cô ấy có thể đi vào đường máu của cô ấy. Hệ miễn dịch của cô ấy sẽ coi máu từ bào thai là chất lạ và sẽ phản ứng bằng cách tạo ra kháng thể, những kháng thể này sẽ phá hủy tế bào máu của bào thai.

Bằng cách tiêm các kháng thể chống lại rh được gọi là Anti-D, hệ miễn dịch của người phụ nữ này sẽ được bảo vệ để không tạo ra các kháng thể làm ảnh hưởng đến các lần mang thai trong tương lai. Những phụ nữ có nhóm máu rh- sẽ được tiêm một mũi Anti-D; mũi này được tiêm ngay sau khi nạo thai hoặc sau khi hoàn thành một kỳ mang thai.

Sự không tương thích Rh xảy ra khi bà mẹ mang thai có nhóm máu Rh âm tiếp xúc với máu Rh dương từ thai nhi, dẫn đến sự phát triển của kháng thể Rh trong cơ thể người mẹ. Điều này khiến thai nhi bị thiếu máu, có thể dẫn đến bệnh tan máu của trẻ sơ sinh. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến tử vong. Do đó, mọi sản phụ đều cần xét nghiệm Rh khi mang bầu.

Mỗi giọt máu chứa các tế bào hồng cầu, mang oxy đi khắp cơ thể bạn; ngoài ra máu cũng chứa các tế bào bạch cầu giúp cơ thể chống nhiễm trùng và tiểu cầu đóng vai trò quan trọng trong quá trình đông máu.

Nhưng đó không phải là tất cả các thành phần có trong máu. Máu của bạn còn chứa các kháng nguyên, có bản chất là các protein và đường nằm trên bề mặt các tế bào hồng cầu và đây là cách mà các nhà khoa học phân loại nhóm máu của từng người. Trong khi có ít nhất 33 hệ thống nhóm máu thì thực tế lâm sàng chỉ có hai hệ thống được sử dụng rộng rãi. Đây là các hệ thống nhóm máu ABO và Rh dương / Rh âm. Hai hệ thống này kết hợp với nhau tạo thành tám nhóm máu cơ bản mà hầu hết mọi người đều quen thuộc:

  • Nhóm máu A dương tính
  • Nhóm máu A âm tính
  • Nhóm máu B dương tính
  • Nhóm máu B âm tính
  • Nhóm máu AB dương tính
  • Nhóm máu AB âm tính
  • Nhóm máu O dương tính
  • Nhóm máu O âm tính

Thì tương tự đối với trường hợp bà mẹ mang thai có nhóm máu Rh âm như mẹ nhóm máu O Rh- khi mang thai, nhóm máu O Rh+ khi mang thai, nhóm máu B Rh+ khi mang thai ....

Sự không tương thích Rh xảy ra khi bà mẹ mang thai có nhóm máu Rh âm tiếp xúc với máu Rh dương từ thai nhi

Khi mang thai, các vấn đề có thể xảy ra nếu sản phụ Rh(+) và thai nhi mang Rh(-) thì được gọi là bất đồng nhóm máu mẹ con. Thông thường, máu sản phụ không hòa lẫn với máu của thai nhi trong quá trình mang thai. Tuy nhiên, một lượng nhỏ máu của em bé có thể tiếp xúc với máu của sản phụ trong khi sinh hoặc nếu sản phụ bị chảy máu hoặc chấn thương bụng khi mang thai. Nếu sản phụ Rh(-) và thai nhi Rh(-), cơ thể của sản phụ có thể tạo ra các protein gọi là kháng thể Rh sau khi tiếp xúc với các tế bào hồng cầu của thai nhi.

Các kháng thể được tạo ra không phải là vấn đề nguy hiểm trong lần mang thai đầu tiên. Mối quan tâm lớn hơn là với lần mang thai tiếp theo của cùng chính sản phụ đó. Nếu thai nhi tiếp theo mag Rh(+) thì các kháng thể Rh này có thể đi qua nhau thai và phá huỷ các tế bào hồng cầu của thai nhi. Điều này có thể dẫn đến thiếu máu đe dọa tính mạng thai nhi, đây là tình trạng trong đó các tế bào hồng cầu bị phá hủy nhanh hơn khả năng sản xuất hồng của của cơ thể thai nhi, trong khi đó các tế bào hồng cầu đóng vai trò cực kỳ quan trọng để mang oxy đi khắp cơ thể và nuôi dưỡng thai nhi.

Do đó, sản phụ mang Rh(-) được khuyến cáo nên thực hiện một số xét nghiệm máu khác như xét nghiệm sàng lọc kháng thể trong ba tháng đầu của thai kỳ, trong tuần thứ 28 của thai kỳ và khi sinh. Xét nghiệm sàng lọc kháng thể được sử dụng để phát hiện kháng thể chống lại máu Rh(+). Nếu sản phụ chưa bắt đầu sản xuất kháng thể Rh, có thể sản phụ sẽ cần tiêm một sản phẩm máu có tên là globulin miễn dịch Rh. Globulin miễn dịch ngăn cơ thể sản phụ sản xuất kháng thể Rh trong thai kỳ. Nếu em bé sinh ra mang nhóm máu Rh(-) thì không cần điều trị bổ sung, còn em bé sinh ra là Rh(+), sản phụ sẽ cần một mũi tiêm khác ngay sau khi sinh.

Nếu sản phụ Rh(-) và thai nhi có thể là Rh(+), bác sĩ có thể khuyên nên tiêm globulin miễn dịch Rh trong các tình huống máu của sản phụ có thể tiếp xúc với máu thai nhi, bao gồm:

  • Sảy thai
  • Phá thai
  • Mang thai ngoài tử cung - khi trứng được thụ tinh và làm tổ bên ngoài tử cung, thường là trong ống dẫn trứng
  • Cắt bỏ thai trứng (molar pregnancy), đây là khối u không ung thư (lành tính) phát triển trong tử cung
  • Chọc dò nước ối - xét nghiệm tiền sản trong đó mẫu chất lỏng bao quanh và bảo vệ em bé trong tử cung (nước ối) được lấy ra để xét nghiệm hoặc điều trị
  • Lấy mẫu để sinh thiết gai nhau
  • Thử nghiệm di truyền trước sinh (tên tiếng Anh là Cordocentesis), còn gọi là lấy mẫu xét nghiệm máu qua da tại vùng dây rốn (PUBS). Máu được lấy từ tĩnh mạch trong dây rốn để tiến hành kiểm tra các bất thường về nhiễm sắc thể. Bác sĩ thường thực hiện xét nghiệm này khi thai nhi được 18 tuần tuổi. Xét nghiệm này có nguy cơ sảy thai cao hơn xét nghiệm chọc ối hay sinh thiết gai nhau. Nói chung, xét nghiệm này chỉ được thực hiện khi kết quả của các xét nghiệm khác không rõ ràng
  • Chảy máu khi mang thai
  • Chấn thương bụng khi mang thai
  • Bác sĩ hoặc hộ sinh thực hiện xoay tư thế của thai nhi bằng thủ công trước khi chuyển dạ
  • Trong quá trình sinh con bị chảy máu và có sự tiếp xúc giữa máu của mẹ và trẻ

Nếu xét nghiệm sàng lọc kháng thể cho thấy sản phụ đã sản xuất kháng thể thì việc tiêm globulin miễn dịch Rh sẽ không có hiệu quả. Thai nhi và sản phụ sẽ được theo dõi cẩn thận và sát sao. Người đó có thể được truyền máu qua dây rốn khi mang, nếu cần thiết, thai nhi có thể được truyền máu qua dây rốn hoặc ngay sau khi sinh.

Tiêm phòng anti-D Immunoglobulin làm trung hòa mọi kháng nguyên RhD dương tính có thể đã xâm nhập vào máu của người mẹ khi mang thai. Nếu các kháng nguyên đã được trung hòa, máu của người mẹ sẽ không tạo ra kháng thể chống lại hồng cầu của thai nhi.

Sản phụ sẽ được tiêm phòng anti-D Immunoglobulin nếu bác sĩ nghi ngờ sản phụ có nguy cơ kháng nguyên RhD từ thai nhi đã xâm nhập vào máu của sản phụ trong trường hợp sản phụ bị chảy máu, có thủ thuật xâm lấn (như chọc ối) hoặc nếu bị chấn thương bụng.

Tiêm phòng anti-D Immunoglobulin cũng được chỉ định trong ba tháng cuối của thai kỳ nếu nhóm máu của sản phụ âm tính với RhD. Điều này là do có khả năng một lượng máu nhỏ từ thai nhi sẽ đi vào máu của sản phụ trong thời gian này.

Tiêm phòng anti-D Immunoglobulin

3.2 Dự phòng chống D thường quy trước khi sinh

Hiện tại có hai cách để sản phụ tiêm phòng anti-D Immunoglobulin

  • Phác đồ điều trị 1 liều: Sản phụ được tiêm immunoglobulin vào trong tuần từ 28 đến 30 của thai kỳ
  • Phác đồ điều trị 2 liều: Sản phụ sẽ được nhận được 2 mũi tiêm; một trong tuần thứ 28 và liều còn lại trong tuần thứ 34 của thai kỳ

Hiện này, dường như không có sự khác biệt nào về hiệu quả giữa các phác đồ điều trị 1 liều hoặc 2 liều.

3.3 Khi nào sản phụ được tiêm phòng anti-D Immunoglobulin?

Tiêm phòng anti-D Immunoglobulin được khuyến nghị cho tất cả phụ nữ mang thai có nhóm máu Rh(-), những người chưa nhạy cảm với kháng nguyên RhD, ngay cả khi trước đó sản phụ đã được tiêm phòng anti-D Immunoglobulin.Vì khi đã tiêm phòng anti-D Immunoglobulin sẽ không bảo vệ sản phụ suốt đời để chống lại bệnh rhesus do đó, sản phụ cần tiêm nhắc lại nếu sản phụ đáp ứng các điều kiện cần thiết để cần phải tiêm lại.

3.4 Tiêm phòng anti-D Immunoglobulin sau khi sinh

Sau khi sinh, mẫu máu của trẻ sơ sinh sẽ được lấy từ dây rốn. Nếu sản phụ có RhD âm tính và trẻ sơ sinh dương tính với RhD và sản phụ chưa sản xuất kháng thể chống lại Rh(+) thì sản phụ sẽ được tiêm phòng anti-D Immunoglobulin trong vòng 72 giờ sau khi sinh.Việc tiêm sẽ phá hủy bất kỳ tế bào máu RhD(+) đã xâm nhập vào máu của sản phụ trong quá trình sinh nở. Điều này có nghĩa là máu của sản phụ sẽ không có cơ hội tạo ra kháng thể và sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ lần mang thai tiếp theo mắc bệnh rhesus (hay còn gọi là bệnh tán huyết ở trẻ sơ sinh do bất đồng nhóm máu mẹ con).

3.5 Biến chứng do tiêm phòng anti-D Immunoglobulin

Một số các tác dụng phụ có thể gặp do dị ứng với tiêm phòng anti-D Immunoglobulin như phát ban hoặc các triệu chứng giống như cúm.Mặc dù anti-D Immunoglobulin được sản xuất từ ​​huyết tương của người hiến máu và sẽ được xét nghiệm, sàng lọc cẩn thận, nhưng vẫn có thể có một số rủi ro nhưng rất nhỏ. Tuy nhiên, bằng chứng tiêm phòng anti-D Immunoglobulin cho thấy lợi ích của việc ngăn ngừa bệnh rhesus vượt xa so với những rủi ro này.

Vì vậy, khi xuất hiện các triệu chứng bất thường trong thai kỳ, bạn nên được thăm khám và tư vấn với bác sĩ chuyên khoa.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 (phím 0 để gọi Vinmec) hoặc đăng ký lịch trực tuyến TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn!

Bài viết tham khảo nguồn: nhs.uk

XEM THÊM:

Video liên quan

Chủ đề