Tội cố ý truyền HIV AIDS cho người khác bị phạt bao nhiêu lâu

Tội lây truyền HIV cho người khác và cố ý truyền HIV cho người khác được quy định cụ thể về hành vi vi phạm, lỗi, khung hình phạt và các quy định khác liên quan đến hành vi lây truyền HIV cho người khác, cụ thể như sau:

Quy định về tội lây truyền HIV cho người khác

Theo điều 117, điều 118 Bộ Luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung ngày 19/06/2009 thì Tội lây truyền HIV cho người khác và cố ý truyền HIV cho người khác được quy định như sau:

Tội lây truyền HIV cho người khác

1. Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:

A) Đối với nhiều người;

B) Đối với người chưa thành niên;

C) Đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình;

D) Đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

Tội cố ý truyền HIV cho người khác

1. Người nào cố ý truyền HIV cho người khác, nếu không thuộc trường hợp nêu trên (quy định tại Điều 117 của Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi, bổ sung 2009) thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

A) Có tổ chức;

B) Đối với nhiều người;

C) Đối với người chưa thành niên;

D) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

Đ) Lợi dụng nghề nghiệp.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Trân trọng !
P. Luật sư tranh tụng - Công ty Luật Minh Gia

Mục lục bài viết

  • 1. Khái quát chung
  • 2. Phân tích và bình luận các đặc điểm của tội danh
  • 2.1Tội lây truyền HIV cho người khác
  • 2.1.1 Dấu hiệu chủ thế của tội phạm
  • 2.1.2 Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm
  • 2.1.3 Dấu.hiệu lỗi của chủ thể
  • 2.1.4 Khung hình phạt
  • 2.2Tội cố ý truyền HIV cho người khác
  • 2.2.1 Dấu hiệu chủ thế của tội phạm
  • 2.2.2 Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm
  • 2.2.3 Dấu hiệu lỗi của chủ thể
  • 2.2.4 Khung hình phạt được áp dụng

1. Khái quát chung

STT Tội lây truyền HIV cho người khác Tội cố ý truyền HIV cho người khác
1

Điều 148. Tội lây truyền HIV cho người khác

1. Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ỷ lây truyền HIV cho người khác, trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiêm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tĩnh dục, thỉ bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Đổi với 02 người trở lên;

b) Đổi với người dưới 18 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 145 của Bộ luật này;

c) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;

d) Đổi với thầy thuốc hoặc nhãn viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình;

đ) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vĩ lý do công vụ của nạn nhân.

Điều 149. Tội cố ý truyền HIV cho người khác

1. Người nào cố ý truyền HIV cho người khác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 148 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Đoi với người đang thi hành công vụ hoặc vĩ lý do công vụ của nạn nhân;

c) Đổi với người dưới 18 tuổi;

d) Đổi với từ 02 người đến 05 người;

đ) Lợi dụng nghề nghiệp;

e) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;

b) Đổi với 06 người trở lên;

c) Gây roi loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

d) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cẩm đảm nhiệm chức vụ, cẩm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đen 05 năm.

2 Điều 148Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 Điều 149 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017

Tội cố ý truyền HIV AIDS cho người khác bị phạt bao nhiêu lâu

>>Luật sư tư vấn pháp luật doanh nghiệp, gọi:1900.6162

2. Phân tích và bình luận các đặc điểm của tội danh

2.1Tội lây truyền HIV cho người khác

2.1.1 Dấu hiệu chủ thế của tội phạm

Chủ thể của tội lây truyền HIV cho người khác được quy định là người “bị nhiễm HIV” và theo Điều 12 BLHS là người từ đủ 16 tuổi trở lên vì tội này không thuộc các tội mà tuổi chịu hách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS. Việc quy định đặc điểm “bị nhiễm HIV” của chủ thể là cho phép và không có nghĩa truy cứu đặc điểm nhân thân. Chỉ khi có dấu hiệu này, chủ thể mới có thể thực hiện được hành vi lây truyền HIV cho người khác.

2.1.2 Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội phạm này được quy định là hành vĩ lây truyền HIV cho người khác. Trong đó, hành vi lây truyền được hiểu là hành vi đưa HIV từ cơ thể mình sang cơ thể người khác bằng cách thức bất kỳ, có thể qua đường tình dục hoặc đường máu.

Trong trường hợp lây truyền qua đường tình dục, cần chú ý: Hành vi lây truyền qua đường tình dục được điều luật loại trừ không phải là tội phạm trong trường hộp nạn nhân biết về tình trạng nhiễm HIV của người có hành vi lây truyền mà vẫn tự nguyện quan hệ tình dục với họ.

2.1.3 Dấu.hiệu lỗi của chủ thể

Lỗi của chủ thể được xác định là lỗi cố ý. Người phạm tội biết mình bị nhiễm HIV. Họ cũng biết hành vi mà mình thực hiện có khả năng làm cho HIV từ mình lây truyền sang người khác nhưng vẫn thực hiện hành vi đó. Trường hợp không biết mình bị nhiễm HIV cũng như trường họp chủ động có biện pháp tránh lây truyền là những trường họp không có lỗi cố ý.

2.1.4 Khung hình phạt

Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cơ bản có mức phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.

Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng có mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

- Đổi với 02 người trở lên: Đây là trường hợp chủ thể phạm tội này đối với nhiều nạn nhân.

- Đổi với người dưới 18 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 145 của Bộ luật này: Đây là trường hợp nạn nhân của hành vi lây truyền HIV là người dưới 18 tuổi. Điều luật còn quy định thêm dấu hiệu "nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 145 của Bộ luật này”. Tuy nhiên, quy định này là không cần thiết vì giữa tội lây truyền HIV và các tội được quy định tại Điều 142 và Điều 145 là hoàn toàn khác nhau. Việc quy định thêm như vậy phá vỡ tính thống nhất trong kỹ thuật lập pháp.

- Đổi với phụ nữ mà biết là có thai: Đây là trường họp nạn nhân của hành vi lây truyền HIV là phụ nữ có thai và người phạm tội biết việc có thai của nạn nhân.

- Đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình: Đây là trường hợp giữa nạn nhân của hành vi lây truyền HIV và người phạm tội có quan hệ đặc biệt. Nạn nhân là người mà người phạm tội phải biết ơn và tôn trọng vì là người trực tiếp chữa bệnh cho mình. Do vậy, lỗi của người phạm tội trong trường họp này là lỗi cố ý tăng nặng.

- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân: Đây là trường hợp nạn nhân của hành vi lây truyền HIV là người liên quan đến công vụ. Họ có thể bị người phạm tội thực hiện hành vi lây truyền HIV khi đang thi hành công vụ. Họ cũng có thể bị người phạm tội thực hiện hành vi lây truyền HIV trước khi hoặc sau khi thi hành công vụ. Động cơ của hành vi lây truyền HIV có thể để răn đe, cản trở không cho nạn nhân thi hành công vụ hoặc để trả thù việc nạn nhân đã thi hành công vụ. Công vụ ở đây được hiểu “... là hoạt động theo đúng pháp luật của chủ thể được cơ quan nhà nước giao nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước bao gồm quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án.”

Điều luật quy định trường hợp lây truyền HIV qua đường tình dục không phải là tội phạm nếu nạn nhân biết về tình trạng nhiễm HIV của người có hành vi lây truyền mà vẫn tự nguyện quan hệ tình dục với họ. Quy định này cần được xem lại vì:

- Tính nguy hiểm cho xã hội nói chung và tính nguy hiểm cho cá nhân cụ thể của hành vi nhất định là 2 vấn đề khác nhau tuy có sự thống nhất với nhau. Vỉệc quy định hành vi nào đó là tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi đó là vì hành vi đó nguy hiểm cho xã hội nói chung và nhằm bảo vệ xã hội nói chung chứ không phải bảo vệ cá nhân cụ thể. Nguyên tắc chung này dường như không được tuân thủ khi điều luật quy định về trường hợp không phải là tội phạm trên đây.

- Xét về mặt thực tế, hành vi truyền HIV qua đường tình dục cho người khác mà họ chấp nhậíi không phải là không nguy hiểm cho xã hội. Thêm một người nhiễm HIV là thêm gánh nặng cho xã hội, cho nhà nước chứ không phải chỉ là gánh nặng cho cá nhân bị nhiễm HIV và gia đình họ. Thêm một người nhiễm HIV cũng chứa đựng nguy cơ tăng nguồn có thể lây nhiễm HIV cho người khác. Đặc biệt, tính nguy hiểm cho xã hội của trường họp này có thể thấy ngay và rõ ràng nếu như đó là trường họp phụ nữ mang thai đã đồng ý cho người nhiễm HIV lây truyền cho mình qua đường tình dục. Hành vi lây truyền trong hợp này rõ ràng là nguy hiểm không chỉ cho người mẹ mà nó còn có thể lây truyền HIV cho đứa trẻ được sinh ra sau này.

2.2Tội cố ý truyền HIV cho người khác

2.2.1 Dấu hiệu chủ thế của tội phạm

Chủ thể của tội cố ý truyền HIV cho người khác được quy định là chủ thể bình thường và theo Điều 12 BLHS là người từ đủ 16 tuổi trở lên vì tội này không thuộc các tội mà tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS.

2.2.2 Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội cố ý truyền HIV cho người khác được quy định là hành vi truyền HIV cho người khác. Trong đó, hành vi truyền HIV được hiểu là hành vi đưa HIV từ ngoài vào cơ thể người khác bằng cách thức bất kỳ. Xét về tính chất, hành vi truyền HIV ở tội phạm này (Điều 149 BLHS) và hành vi lây truyền HIV ở tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 148 BLHS) đều có thể làm cho người khác bị nhiễm HIV. Xét về dấu hiệu pháp lý, 02 hành vi phạm tội này có sự khác nhau. Hành vi phạm tội được quy định tại Điều 148 là hành vi (cố ý) lây truyền HIV cho người khác và để có thể thực hiện được hành vi này chủ thể được quy định phải là người bị nhiễm HIV. Trong khi đó, hành vi phạm tội được quy định tại Điều 149 là hành vi (cố ý) truyền HIV cho người khác và chủ thể thực hiện không đòi hỏi có dấu hiệu như chủ thể được quy định tại Điều 148. Các dấu hiệu của 02 tội phạm này được quy định rõ ở cả 02 điều luật.

2.2.3 Dấu hiệu lỗi của chủ thể

Lỗi của chủ thể được quy định là lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành vi của mình có thể làm cho nạn nhân bị nhiễm HIV nhưng vì mong muốn hoặc vì chấp nhận hậu quả này nên đã thực hiện.

2.2.4 Khung hình phạt được áp dụng

Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cơ bản có mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng cho trường họp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

- Có tổ chức: Đây là trường họp đồng phạm truyền HIV cho người khác mà trong đó có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm.

- Đổi với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân: Đây là trường hợp nạn nhân của hành vi cố ý truyền HIV là người liên quan đến công vụ. Họ có thể bị người phạm tội thực hiện hành vi cố ý truyền HIV khi đang thi hành công vụ. Họ cũng có thể bị người phạm tội thực hiện hành vi cố ý truyền HIV trước khi hoặc sau khi thi hành công vụ. Động cơ của hành vi cố ý truyền HIV có thể để răn đe, cản trở không cho nạn nhân thi hành công vụ hoặc để trả thù việc nạn nhân đã thi hành công vụ. Công vụ ở đây được hiểu “... là hoạt động theo đúng pháp luật của chủ thể được cơ quan nhà nước giao nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước bao gồm quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án.”

- Đối với người dưới 18 tuổi: Đây là trường họp nạn nhân của hành vi cố ý truyền HIV là người dưới 18 tuổi.

- Đối với từ 02 người đến 05 người: Đây là trường hợp có nhiều nạn nhân (từ 2 đến 5) và họ có thể trở thành nạn nhân trong cùng một lần hoặc ở các lần khác nhau.

- Lợi dụng nghề nghiệp: Đây là trường hợp khi thực hiện hành vi cố ý truyền HIV, chủ thể thực hiện đã lợi dụng nghề nghiệp của mình. Nhờ nghề nghiệp mà họ có thể thực hiện hoặc thực hiện được dễ dàng hon hành vi truyền HIV cho nạn nhân.

- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhãn mà tỷ lệ tốn thương cơ thể từ 31% đến 60%): Đây là trường họp tăng nặng trách nhiệm hình sự vì việc bị truyền HIV đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần của nạn nhân và như vậy có nghĩa hành vi phạm tội còn xâm phạm rất nghiêm trọng sức khỏe của nạn nhân.

Khoản 3 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

- Đổi với phụ nữ mà biết là có thai: Đây là trường hợp nạn nhân là người có thai và chủ thể biết nạn nhân mà mình thực hiện hành vi truyền HIV là có thai.

- Đối với 06 người trở lên: Đây là trường hợp có nhiều nạn nhân (từ 06 trở lên).

- Gây rối loạn tăm thần và hành vỉ của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên: Đây là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự vì việc bị truyền HIV đã ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần của nạn nhân và như vậy có nghĩa hành vi phạm tội còn xâm phạm đặc biệt nghiêm trọhg sức khỏe của nạn nhân.

- Làm nạn nhân tự sát: Đây là trường hợp nạn nhân đã tự sát mà nguyên nhân dẫn đến tự sát là do bị truyền HIV. Giữa việc bị truyền HIV và việc tự sát có QHNQ với nhau.

Khoản 4 của điều luật quy định khung hình phạt bổ sung (có thể được áp dụng) là: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Như đã bình luận trên, dấu hiệu hành vi phạm tội cũng như dấu hiệu chủ thể được quy định tại Điều 148 và Điều 149 có sự khác nhau rất rõ ràng. Không thể có trường hợp “cố ý truyền HIV cho người khác” (Điều 149) lại có thể thuộc trường hợp quy định tại Điều 148 là trường hợp “lây truyền” vì “truyền” và “lây truyền” hoàn toàn khác nhau. Do vậy, nội dung “... nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 148 của Bộ luật này...” trong Điều 149 BLHS không những không cần thiết mà còn không hợp lý.