BXH Nhac.vn là bảng xếp hạng nhạc uy tín được cập nhật vào mỗi Thứ Hai hàng tuần , dựa trên các số liệu thống kê trên Nhac.vn. Các tiêu chí dùng để xác định điểm xếp hạng của mỗi tác phẩm bao gồm lượt nghe, yêu thích, bình luận, chia sẻ của người dùng trên cả phiên bản web desktop và ứng dụng mobile.
- 01
- 02
- 03
- 04
- 05
- 06
- 07
- 08
- 09
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Rihanna biểu diễn tại Lễ hôi Âm nhạc Kollen Music Festival năm 2012 |
8 |
3 |
1 |
41 |
47 |
Danh sách đĩa nhạc của nữ ca sĩ nhạc R&B người Barbados Rihanna bao gồm 7 album phòng thu, 2 album phối khí, 47 đĩa đơn hát chính - hợp tác với các nghệ sĩ khác và 3 đĩa đơn làm từ thiện. Rihanna xuất hiện lần đầu tiên trên các bảng xếp hạng trong năm 2005 với đĩa đơn "Pon de Replay" được phát hành vào ngày 22 tháng 8. Bài hát giành vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, UK Singles Chart và Ireland. Ca khúc sau đó được chứng nhận đĩa bạch kim tại Hoa Kỳ và đĩa vàng tại Úc [1][2]. Album đầu tay của Rihanna có tên Music of the Sun đã trở thành một album Hit top-ten trên bảng xếp hạng Billboard 200 ở Hoa Kỳ cũng như đứng vị trí trong top 40 tại nhiều bảng xếp hạng album khác. Hai đĩa đơn tiếp theo được trích từ album là "If It's Lovin' that You Want" và "Let Me".
Năm sau, Rihanna phát hành album phòng thu thứ 2 mang tên A Girl Like Me và đã gặt hát được nhiều thành công hơn album đầu. A Girl Like Me đã giành vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Canadian Albums Chart ở Canada, album cũng đứng vị trí thứ 5 tại Hoa Kỳ và nằm trong top-20 ở những quốc gia khác. Hai đĩa đơn đầu tiên trích từ A Girl Like Me là "SOS" (đứng vị trí thứ 1 tại 3 quốc gia) và "Unfaithful" (giành vị trí đầu bảng tại 2 nước). Album này sau đó được chứng nhận đĩa bạch kim tại 5 quốc gia.
Trong năm 2007, Rihanna phát hành album phòng thu thứ 3 và cũng là album thành công nhất của cô hiện nay có tên Good Girl Gone Bad. Album giành vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Billboard 200 và đứng top 10 trên các bảng xếp hạng album khác. Good Girl Gone Bad được chứng nhận rất nhiều album bạch kim ở một số quốc gia sau khi có một số phiên bản của album được phát hành lại. Bảy đĩa đơn trích từ Good Girl Gone Bad là một sự thành công vượt trội trên toàn thế giới bao gồm cả đĩa đơn "siêu hit" "Umbrella". Sau đó, Rihanna phát hành tiếp 6 đĩa đơn khác trong đó có hai đĩa đơn quán quân tại Hoa Kỳ là "Take a Bow" và "Disturbia".
Sau đó, Rihanna phát hành tiếp tục album phòng thu thứ tư của cô trong tháng 11 năm 2009 mang tên Rated R. Album này tuy không thành công như album trước nhưng cũng đã đạt được một số thành công nhất định khi giành vị trí thứ 1 tại Thụy Sĩ, thứ 4 tại Mỹ và Canada, nhưng chỉ nằm trong top-20 ở những quốc gia. Đĩa đơn đầu tiên trích từ Rated R: "Russain Roulette" là một ca khúc hit nằm trong top 10 trên toàn thế giới. "Rude boy" đĩa đơn tiếp theo trích từ Rated R và cũng là ca khúc thứ sáu của Rihanna giành vị trí quán quân tại Hoa Kỳ trong vòng 5 tuần liên tiếp [3]. Rihanna cũng hợp tác với rapper người Mỹ Eminem khi phát hành ca khúc "Love the Way You Lie" trong tháng 8 năm 2010. Trước khi phát hành, bài hát đã giành vị trí thứ 1 tại Úc, Canada, Ireland, New Zealand và Hoa Kỳ cũng như đứng vị trí thứ 3 ở Anh.
Tháng 11, 2010, Rihanna đã phát hành album phòng thu thứ năm Loud. Album đã đạt chứng nhận đĩa bạch kim ở Mỹ và tận 6 đĩa bạch kim ở Anh. Album có tổng cộng bảy đĩa đơn, bao gồm nhiều đĩa đơn rất thành công như "Only Girl (In the World)", "What's My Name?" (hợp tác với Drake) và "S&M". Một năm sau khi ra album này, cô tiếp tục phát hành album phòng thu tiếp theo Talk That Talk với đĩa đơn đầu tiên "We Found Love" hợp tác với DJ người Anh Calvin Harris là một thành công lớn trên toàn thế giới. Ca khúc này đã lọp vào top 20 ở các bảng xếp hạng trên 20 quốc gia, bao gồm cả Billboard Hot 100 với vị trí quán quân trong 10 tuần lễ liên tiếp, trở thành đĩa đơn có thời gian đạt vị trí quán quân lâu nhất trong sự nghiệp của cô. Album phòng thu thứ 7, "Unapologetic", trở thành album đầu tiên của cô đạt vị trí quán quân tại Billboard 200. Đĩa đơn "Diamonds" đứng đầu các bảng xếp hạng của trên 20 nước. Ngoài ra album còn có các đĩa đơn thành công khác như "Stay" (kết hợp với Mikky Ekko) và "Pour It Up".
Album[sửa | sửa mã nguồn]
Album phòng thu[sửa | sửa mã nguồn]
Album biên tập[sửa | sửa mã nguồn]
Đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]
Hát chính[sửa | sửa mã nguồn]
"Pon de Replay" | 2005 | 6 | 5 | 3 | 18 | 6 | 2 | 1 | 3 | 2 | 2 |
| Music of the Sun |
"If It's Lovin' that You Want" | 9 | 25 | — | — | 25 | 8 | 9 | 19 | 11 | 36 | |||
"SOS" | 2006 | 1 | 2 | 1 | 12 | 2 | 3 | 3 | 3 | 2 | 1 |
| A Girl Like Me |
"Unfaithful" | 2 | 3 | 1 | 7 | 2 | 2 | 4 | 1 | 2 | 6 |
| ||
"We Ride" | 24 | 40 | 4 | — | 45 | 17 | 7 | 42 | 17 | — | |||
"Break It Off" (hợp tác với Sean Paul) | — | — | 19 | — | — | — | — | — | — | 9 | |||
"Umbrella" (hợp tác với Jay-Z) | 2007 | 1 | 1 | 1 | 6 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 |
| Good Girl Gone Bad |
"Shut Up and Drive" | 4 | 9 | 6 | — | 6 | 5 | 12 | 14 | 5 | 15 |
| ||
"Don't Stop the Music" | 1 | 1 | 2 | 1 | 1 | 6 | 3 | 1 | 4 | 3 |
| ||
"Hate That I Love You" (hợp tác với Ne-Yo) | 14 | 13 | 17 | 16 | 11 | 13 | 6 | 13 | 15 | 7 |
| ||
"Take a Bow" | 2008 | 3 | 1 | 17 | 12 | 6 | 1 | 2 | 7 | 1 | 1 |
| |
"Disturbia" | 6 | 1 | 2 | 3 | 5 | 4 | 1 | 4 | 3 | 1 |
| ||
"Rehab" | 26 | — | 19 | — | 4 | 22 | 12 | 13 | 16 | 18 |
| ||
"Russian Roulette" | 2009 | 7 | 5 | 9 | 4 | 2 | 5 | 9 | 1 | 2 | 9 |
| Rated R |
"Hard" (hợp tác với Jeezy) | 51 | — | 9 | — | — | 33 | 15 | — | 42 | 8 |
| ||
"Wait Your Turn" | 82 [75] | — | — | — | — | 32 | — | — | 45 [76] | — | |||
"Rude Boy" | 2010 | 1 | 3 | 7 | 8 | 4 | 3 | 3 | 5 | 2 | 1 |
| |
"Rockstar 101" (hợp tác với Slash) | 24 | — | — | — | — | — | — | — | — | 64 | |||
"Te Amo"[78] | 22 | 10 | 66 | 66 | 11 | 16 | — | 9 | 14 | — |
| ||
"Only Girl (In the World)" | 1 | 2 | 1 | 2 | 2 | 1 | 1 | 2 | 1 | 1 |
| Loud | |
"What's My Name?" (hợp tác với Drake) | 18 | 28 | 5 | 16 | 12 | 3 | 3 | 13 | 1 | 1 |
| ||
"Raining Men"[81] (hợp tác với Nicki Minaj) | — | — | — | — | — | — | — | — | 142 | 111 | |||
"S&M" | 2011 | 1 | 3 | 1 | 3 | 2 | 3 | 2 | 2 | 3 | 1 |
| |
"California King Bed" | 4 | 9 | 20 | 30 | 8 | 11 | 4 | 10 | 8 | 37 | |||
"Man Down" | — | 3 | 63 | 1 | — | — | — | 9 | 54 | 59 |
| ||
"Cheers (Drink to That)" | 6 | 62 | 6 | 64 | — | 16 | 5 | 66 | 15 | 7 |
| ||
"We Found Love" (hợp tác với Calvin Harris) | 2 | 3 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 |
| Talk That Talk | |
"You da One" | 26 | 50 | 12 | 23 | — | 12 | 10 | 36 | 16 | 14 |
| ||
"Talk That Talk" (hợp tác với Jay-Z) | 2012 | 28 | 54 | 30 | 24 | — | 22 | 37 | 11 | 25 | 31 |
| |
"Princess of China" (với Coldplay) | 16 | 20 | 17 | 24 | 41 | 5 | 8 | 20 | 4 | 20 |
| Mylo Xyloto | |
"Birthday Cake" (hợp tác với Chris Brown) | — | — | — | — | — | — | — | — | — | 24 |
| Talk That Talk | |
"Where Have You Been" | 6 | 9 | 5 | 2 | 17 | 8 | 4 | 15 | 6 | 5 |
| ||
"Cockiness (Love It) [Remix]" (hợp tác với ASAP Rocky) | — | — | — | — | — | — | — | — | — | 102 | |||
"Diamonds" | 6 | 3 | 1 | 1 | 1 | 2 | 2 | 1 | 1 | 1 |
| Unapologetic | |
"Stay" (hợp tác với Mikky Ekko) | 2013 | 4 | 3 | 1 | 2 | 2 | 2 | 4 | 2 | 4 | 3 |
| |
"Pour It Up" | — | — | 49 | 92 | — | — | — | — | 94 | 19 | |||
"—" Bài hát không có mặt trên bảng xếp hạng hoặc không phát hành ở nước đó. |
Đĩa đơn hợp tác[sửa | sửa mã nguồn]
2007 | "Roll It" (J-Status hợp tác với Shontelle & Rihanna) | — | 33 | — | 8 | — | — | — | 89 | — | — | The Beginning | |
2008 | "If I Never See Your Face Again" (Maroon 5 hợp tác với Rihanna) | 11 | 54 | 12 | — | — | 16 | 21 | 52 | 28 | 51 | It Won't Be Soon Before Long | |
"Live Your Life" (T.I. hợp tác với Rihanna) | 3 | 5 | 4 | 3 | 17 | 3 | 2 | 8 | 2 | 1 |
| Paper Trail | |
2009 | "Run This Town" (Jay-Z hợp tác với Rihanna & Kanye West) | 9 | 29 | 6 | 1 | — | 3 | 9 | 9 | 1 | 2 |
| The Blueprint 3 |
2010 | "Love the Way You Lie" (Eminem hợp tác với Rihanna) | 1 | 1 | 1 | 1 | 3 | 1 | 1 | 1 | 2 | 1 |
| Recovery |
"Who's That Chick?" (David Guetta hợp tác với Rihanna) | 7 | 4 | 26 | 5 | 6 | 4 | 8 | 8 | 6 | 51 |
| One More Love | |
2011 | "All of the Lights" (Kanye West hợp tác với Rihanna & Kid Cudi) | 24 | — | 53 | 52 | — | 13 [102] | 13 | 46 | 15 | 18 |
| My Beautiful Dark Twisted Fantasy |
"Fly" (Nicki Minaj hợp tác với Rihanna) | 18 | — | 55 [105] | — | — | 14 | 13 | — | 16 | 19 [105] |
| Pink Friday | |
2012 | "Take Care" (Drake hợp tác với Rihanna) | 9 | 36 | 15 [107] | 27 | — | 18 | 6 | 50 | 9 | 7 [108] |
| Take Care |
"—" Bài hát không có mặt trên bảng xếp hạng hoặc không phát hành ở nước đó. |
Đĩa đơn từ thiện[sửa | sửa mã nguồn]
2008 | "Just Stand Up!" (cùng với Artists Stand Up to Cancer) | 39 | 73 | 10 | — | 11 | 19 | 26 | 11 | Một trong các nghệ sĩ trong chiến dịch của Artists Stand Up to Cancer'. |
2010 | "Redemption Song" | — | — | — | — | — | — | — | 81 | Bài hát được làm lại từ Bob Marley phát hành cho chiến dịch cứu trợ thiên tai ở Haiti. |
"Stranded (Haiti Mon Amour)" (hợp tác với Jay-Z & Bono) | — | 10 | 6 | 14 | 3 | — | 41 | 16 | Tổ chức từ thiện bài hát trong album Hope For Haiti Now. | |
"—" Bài hát không có mặt trên bảng xếp hạng hoặc không phát hành ở nước đó. |
Các xuất hiện khác[sửa | sửa mã nguồn]
Những bài hát này không xuất hiện trên bất kỳ bản phát hành chính thức của Rihanna.
2005 | "The One" | 534[115] | Memphis Bleek |
"Boom Boom" | Ghetto Story[116] | Cham | |
2007 | "First Time" | From Nothin' to Somethin'[117] | Fabolous |
"Livin' a Lie" | Love Hate[118] | The-Dream | |
2008 | "Where Do We Go" | Razah[119] | Razah |
"Throw Your Hands Up" | Let's Get Physical[120] | Elephant Man | |
"Numba 1 (Tide Is High)" (chỉ có ở phiên bản album) | Not 4 Sale[121] | Kardinal Offishall |
Video âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]
KeyVideo âm nhạc chưa được phát hành |
Đạo diễn người Canada Little X làm đạo diễn cho video âm nhạc cho đĩa đơn đầu tay của Rihanna "Pon de Replay".
DVD[sửa | sửa mã nguồn]
2008 | Good Girl Gone Bad Live
| 6 | 2 | 2 | 9 | 6 |
|
Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ US sales figures for Anti as of March 2016.[54] Although additional 1.4 million copies were downloaded for free from Tidal, Billboard and Nielsen Music did not recognize the count of the sales, because they were distributed by Samsung.[55]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af “RIAA – Gold & Platinum: "Rihanna"”. Recording Industry Association of America. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2011.
- ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2005 Singles”. Australian Recording Industry Association. 2005. Truy cập 15 tháng 2 năm 2009.
- ^ TJ (4 tháng 3 năm 2010). “Black Eyed Peas Remain On Top, Rihanna Has A Record-Breaking "Rude Boy"”. Neon Limelight. Truy cập 4 tháng 3 năm 2010.
- ^ a b c d “Discography Rihanna”. Australian-Charts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2011.
- ^ “Discografie Rihanna”. Ultratop.be. Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2011.
- ^ a b c “Rihanna > Charts & Awards > Billboard Albums”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2009.
- ^ a b c “Discography Rihanna”. lescharts.com (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2009.
- ^ “German Charts: Rihanna” (bằng tiếng Đức). Media Control GfK International. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Discography Rihanna”. Irish-Charts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
- ^ “Discography Rihanna”. Charts.org.nz. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
- ^ a b c “Rihanna (click "Charts")”. swisscharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
- ^ a b c d “Chart Stats – Rihanna”. ChartStats.com. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Gold & Platinum: December 2005”. Canadian Recording Industry Association. 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2009.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “BPI – Certified Awards Search”. British Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2011.
- ^ a b Jones, Alan (ngày 4 tháng 1 năm 2011). “Rihanna tops albums chart, as singles set new record”. MusicWeek.com. United Business Media.
- ^ Herrera, Monica (ngày 8 tháng 10 năm 2010). “Rihanna: The Billboard Cover Story”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2010.
- ^ a b “Interview With Evan Rogers (Who Discovered Rihanna & Shontelle)”.
- ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2006 Albums”. Australian Recording Industry Association. 2006. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2009.
- ^ a b “Gold & Platinum Certification: November 2010”. Canadian Recording Industry Association. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2010.
- ^ a b c d e f g h “Gold-/Platin-Datenbank (Rihanna)” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
- ^ “2006 Certification Awards – Multi Platinum”. Irish Recorded Music Association. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2010.
- ^ a b c d e f g h “Search for: Rihanna”. swisscharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2011.
- ^ Trust, Gary (ngày 23 tháng 7 năm 2010). “Ask Billboard: Rating Rihanna – Chart Beat”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2010.
- ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2008 Albums”. Australian Recording Industry Association. 2008. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Gold & Platinum: September 2010”. Canadian Recording Industry Association. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ “2007 Certification Awards – Multi Platinum”. Irish Recorded Music Association. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2010.
- ^ a b c “Latest Gold / Platinum Albums”. Radioscope. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2011.
- ^ a b c Lane, Dan. “Rihanna racks up 20 million record sales in the UK!”. The Official Charts Company. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2012.
- ^ a b “Rihanna Drops 'We Found Love'; New Album Due Nov. 21”. Billboard.com. Prometheus Global Media. ngày 22 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2011.
- ^ “Beyoncé, Lady Gaga, Rihanna albums to hit shelves November 23”. ngày 17 tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2012.
- ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2010 Albums”. Australian Recording Industry Association. ngày 31 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2011.
- ^ “Certifications Albums Platine - année 2010” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2011.
- ^ “2009 Certification Awards – Platinum”. Irish Recorded Music Association. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Charts UK: Lady Gaga repasse en pole position”. Ozap.com. 2011. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2011.
- ^ Grein, Paul (ngày 22 tháng 12 năm 2010). “Week Ending Dec. 19, 2010: Michael Wouldn't Have Liked This (Comment #44, dated Wed Dec 22, 2010 11:09 pm PST, by Grein)”. Yahoo Chart Watch. Yahoo!. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2011.[liên kết hỏng]
- ^ “Weekly US music releases: Rihanna's 'Loud,' Springsteen's 'Promise,' and Kid Rock”. independent.co.uk. ngày 10 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2012.
- ^ “ARIA Charts - Accreditations - 2011 Albums”. Australian Recording Industry Association. ngày 30 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
- ^ “Gold and Platinum Search (Loud, Rihanna)”. Music Canada. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2011.
- ^ “The Irish Charts - All there is to know”. irishcharts.ie. Irish Recorded Music Association. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2011.
- ^ “Rihanna's Fans Unlock the Worldwide Launch of Her New Single, "We Found Love" - Today at 9:00am ET, Simultaneously on Her Facebook Page and Radio!”. PR Newswire. ngày 22 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2012.
- ^ “ARIA Charts”. ARIA. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011.
- ^ //www.irishcharts.ie/awards/multi_platinum11.htm
- ^ Langhorne, Cyrus (ngày 22 tháng 8 năm 2012). “2 CHAINZ UNLOCKS NO. 1, RICK ROSS STAYS BOSSY AT NO. 3 & INSANE CLOWN POSSE TAKEOVER TOP 5”. 4CONTROL Media, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Rihanna Back At Number 1!”. Hip.Music. Hiphollywood. ngày 13 tháng 8 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Rihanna: Unapologetic”. Amazon.com. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2012.
- ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2013 Albums”. Australian Recording Industry Association. Truy cập 11 tháng 11 năm 2013.
- ^ a b c “Ultratop − Goud en Platina – 2012”. Ultratop & Hung Medien / hitparade.ch. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “BEA-2012” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
- ^ “2013 Certification Awards – Platinum”. Irish Recorded Music Association. Truy cập 15 tháng 3 năm 2013.
- ^ a b “The Official Swiss Charts and Music Community: Awards (Rihanna)”. swisscharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2011.
- ^ a b c “Canada certifications – Rihanna”. Music Canada.
- ^ “NZ Top 40 Albums Chart – ngày 17 tháng 12 năm 2012”. Recording Industry Association of New Zealand. Truy cập 27 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Rihanna equals Madonna's chart record with Unapologetic”. Official Charts Company. ngày 25 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
- ^ Caulfield, Keith (ngày 28 tháng 11 năm 2012). “Rihanna earns first No. 1 Album on Billboard 200 Chart”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2012.
- ^ Ryan, Patrick (ngày 15 tháng 3 năm 2016). “A tale of 2 albums: Kanye stumbles, Rihanna soars”. USA Today. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2016.
- ^ Kreps, Daniel (1 tháng 2 năm 2016). “On the Charts: Adele's '25' Reclaims Number One, Nears 8 Million Copies”. Rolling Stone. Truy cập 1 tháng 2 năm 2016.
- ^ “RIHANNA - COFFRET 4 CD - SES 4 PREMIERS ALBUMS (ALBUM)”. lescharts.com (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2012.
- ^ “Top 50 Ξένων Aλμπουμ” [Top 50 Foreign Albums (Week 22/2010)]. IFPI (bằng tiếng en with some Greek). IFPI. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ "Rated R: Remixed – Rihanna". Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2010.
- ^ " Good Girl Gone Bad [The Remixes] – Rihanna". Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2010.
- ^ "Rated R: Remixed – Rihanna". Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ "Rihanna Album & Song Chart History: R&B/Hip-Hop Albums" Lưu trữ 2013-01-25 tại Wayback Machine. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2010.
- ^ “RIHANNA - 2 FOR 1: MUSIC OF THE SUN + A GIRL LIKE ME (ALBUM)”. lescharts.com. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2012.
- ^ “German Charts: Rihanna” (bằng tiếng Đức). Media Control GfK International. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Chartverfolgung / Rihanna feat. Jay-Z” (bằng tiếng Đức). Media Control GfK International. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
- ^ a b c “Discography Rihanna”. irish-charts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
- ^ "Irish Charts - Singles, Albums & Compilations: Top 50 Singles" Lưu trữ 2007-02-10 tại Wayback Machine. Irish Recorded Music Association. Truy cập 19 tháng 6 năm 2010.
- ^ "TOP 40 OFFICIAL UK SINGLES ARCHIVE: 29th May 2010". The Official UK Charts Company. Truy cập 23 tháng 5 năm 2010.
- ^ Peak chart positions for US singles:
- “Rihanna > Charts & Awards > Billboard Singles”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2009.
- “Rihanna Album & Song Chart History (for Hot 100)”. Billboard.com. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2010.
- "What's My Name?": Trust, Gary (ngày 10 tháng 11 năm 2010). “Rihanna's 'What's My Name?' Rockets to No. 1 on Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2010.
- "S&M": “Hot 100: Week of ngày 4 tháng 12 năm 2010 (Biggest Jump)”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2010.
- ^ “ARIA Charts - Accreditations - 2006 Singles”. ARIA Charts. Australian Recording Industry Association. Truy cập 28 tháng 2 năm 2009.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n “Gold/Platinum Singles”. Radioscope. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2009.
- ^ a b c d “ARIA Charts - Accreditations - 2007 Singles”. ARIA Charts. Australian Recording Industry Association. Truy cập 28 tháng 2 năm 2009.
- ^ a b c “ARIA Charts - Accreditations - 2008 Singles”. ARIA Charts. Australian Recording Industry Association. Truy cập 28 tháng 2 năm 2009.
- ^ a b c d e f “ARIA Charts - Accreditations - 2010 Singles”. ARIA Charts. Australian Recording Industry Association. Truy cập 5 tháng 8 năm 2010. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “AUS2010 Singles” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
- ^ “Latest Gold / Platinum Singles - RadioScope New Zealand”. Radioscope.net.nz. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2010.
- ^ “The ARIA Report: Week Commencing ngày 7 tháng 12 năm 2009” (PDF). Aria Chart. Pandora Archive (1032). Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Chart: CLUK Update 27.11.2010 (wk46)”. zobbel.de. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2011.
- ^ a b “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2010.
- ^ a b "BBC - Radio 1 - The Official Chart with Reggie Yates - The Official UK Top 40 Singles Chart". BBC.
- ^ “Bản sao đã lưu trữ” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2010.
- ^ a b c d e f “ARIA Charts - Accreditations - 2011 Singles”. Australian Recording Industry Association. ngày 28 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2011.
- ^ “R&R Going For Adds: Urban”. Radio & Records. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2011.
- ^ “RIANZ: Chart #1796 - Monday ngày 24 tháng 10 năm 2011 / Top 40 Singles Chart (select from drop-down lists)”. Recording Industry Association of New Zealand. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2011.
- ^ a b c “Top 50 Singles Chart – 05/12/2011”. Australian Recording Industry Association. ngày 5 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2011.
- ^ “RIANZ: Chart #1795 - Monday ngày 17 tháng 10 năm 2011 / Top 40 Singles Chart (select from drop-down lists)”. Recording Industry Association of New Zealand. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2011.
- ^ //nztop40.co.nz/chart/singles?chart=1792
- ^ a b c //www.ariacharts.com.au/pages/charts_display.asp?chart=1U50
- ^ //nztop40.co.nz/chart/singles?chart=1953
- ^ “NZ Top 40 Singles Chart | The Official New Zealand Music Chart”. Nztop40.co.nz. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2012.
- ^ “ARIA Singles Chart – 14/1/2013”. Australian Recording Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2013.
- ^ “NZ Top 40 Singles Chart – ngày 26 tháng 11 năm 2012”. Recording Industry Association of New Zealand. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2012.
- ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2013 Singles”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2013.
- ^ “NZ Top 40 Singles Chart – ngày 28 tháng 1 năm 2013”. Recording Industry Association of New Zealand. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2012.
- ^ a b “Discographie Rihanna”. austriancharts.at (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2013.
- ^ Peak chart positions for featured singles in Canada:
- "If I Never See Your Face Again": “Maroon 5 Album & Song Chart History”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2010.
- "Live Your Life": “T.I. Album & Song Chart History”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2010.
- "Run This Town": “Jay-Z Album & Song Chart History”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2010.
- "Love the Way You Lie": “Eminem Album & Song Chart History”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2010.
- "Who's That Chick?": “Canadian Hot 100: Week of ngày 18 tháng 12 năm 2010 (31–40)”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2010.
- ^ "Eminem feat. Rihanna - Love the Way You Lie swisscharts.com". Swiss Singles Chart. Hung Medien.
- ^ “Maroon 5 > Charts & Awards > Billboard Singles”. Allmusic. Truy cập 14 tháng 2 năm 2009.
- ^ a b “Billboard Hot 100: Just Stand Up!: Chart Listing For The Week Of ngày 4 tháng 10 năm 2008”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập 14 tháng 2 năm 2009.[liên kết hỏng]
- ^ “T.I. > Charts & Awards > Billboard Singles”. Allmusic. Truy cập 14 tháng 2 năm 2009.
- ^ “RIAA – Gold & Platinum ("Live Your Life")”. RIAA. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2010.
- ^ "The Official Swiss Charts and Music Community". swisscharts.com. Hung Medien.
- ^ "Eminem's 'Recovery' Is 2010's Best-Selling Album; Katy Perry's 'California Gurls' Top Digital Song".
- ^ “Irish Charts > Kanye West Discography”. irishcharts.com / Hung Medien. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Latest Gold & Platinum Singles”. Recording Industry Association of New Zealand. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2011.
- ^ “RIAA – Searchable Database: All of the Lights”. Recording Industry Association of America. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2011.
- ^ a b "Fly - Nicki Minaj". Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2011.
- ^ a b //riaa.com/goldandplatinumdata.php?content_selector=gold-platinum-searchable-database
- ^ “Canadian Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2011.
- ^ “Hot 100: Week of ngày 24 tháng 3 năm 2012”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.
- ^ “ARIA Top 50 Singles Chart”. ARIA Charts. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2012.
- ^ //musiccanada.com/GoldPlatinum.aspx
- ^ //nztop40.co.nz/chart/singles?chart=1918
- ^ “Canadian Hot 100: Just Stand Up!: Chart Listing For The Week Of ngày 1 tháng 11 năm 2008”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập 14 tháng 2 năm 2009.[liên kết hỏng]
- ^ “Canadian Hot 100: Chart Listing For The Week of 06 tháng 2 năm 2010”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2012. Truy cập 2 tháng 2 năm 2010.
- ^ Trust, Gary (28 tháng 1 năm 2010). “Chart Beat Thursday: 'Hope' Helps Haiti”. Chart Beat. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2010. Truy cập 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ Kellman, Andy. “534 > Overview”. Allmusic. Truy cập 15 tháng 2 năm 2009.
- ^ Jeffries, David. “Ghetto Story > Overview”. Allmusic. Truy cập 15 tháng 2 năm 2009.
- ^ Kellman, Andy. “From Nothin' to Somethin' > Overview”. Allmusic. Truy cập 15 tháng 2 năm 2009.
- ^ Kellman, Andy. “Love/Hate > Overview”. Allmusic. Truy cập 15 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Razah > Overview”. Allmusic. Truy cập 15 tháng 2 năm 2009.
- ^ Jeffries, David. “Let's Get Physical > Overview”. Allmusic. Truy cập 15 tháng 2 năm 2009.
- ^ Jeffries, David. “Not 4 Sale > Overview”. Allmusic. Truy cập 15 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Music Videos Directed by Little X: Yeah!, Pon de Replay, Get Busy, Trick Me, Turn Me On, Gangsta Lovin', Excuse Me Miss”. Amazon.com (CA). Amazon Inc. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2012.
- ^ Rihanna (2005). Music of the Sun. Def Jam, SRP.
- ^ Tecson, Brandee J.; Richard, Yasmine (ngày 19 tháng 8 năm 2005). “Rihanna Insists She's Got What You Need In 'Pon De Replay' Follow-Up”. MTV News. Viacom. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Rihanna – SOS”. MTV. Viacom. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2012.
- ^ a b c Rihanna (2006). A Girl like Me. Def Jam, SRP.
- ^ Moss, Corey (ngày 26 tháng 8 năm 2006). “Rihanna Shows She's 'Still A Teen' In 'We Ride' Video”. MTV News. Viacom. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2010.
- ^ Rodriguez, Jayson (ngày 5 tháng 9 năm 2007). “Rihanna's 'Umbrella' Clip was Paint By Numbers”. MTV News. Viacom. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2009.
- ^ a b c d e f g h Rihanna (2008). Good Girl Gone Bad: Reloaded. Def Jam, SRP.
- ^ “Video: Rihanna – 'Shut Up and Drive'”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2011.
- ^ “Rihanna | Hate That I Love You (Feat. Ne-Yo)”. MTV Canada. Viacom. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Don't Stop the Music – Rihanna”. MTV. Viacom. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2012.
- ^ Vena, Jocelyn (ngày 3 tháng 10 năm 2009). “Rihanna's New Album, Rated R, Drops November 23”. MTV News. Viacom. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2012.
- ^ “Maroon 5 – If I Never See Your Face Again”. MTV. Viacom. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Video: Rihanna – 'Disturbia'”. Rap-Up. Devine Lazerine. ngày 1 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2012.
- ^ “Video: Rihanna f/ Justin Timberlake – 'Rehab'”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Video: T.I. f/ Rihanna – 'Live Your Life'”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2012.
- ^ a b T.I. (2008). Paper Trail. Grand Hustle, Atlantic. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Paper Trail” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
- ^ Rodriguez, Jayson (ngày 19 tháng 8 năm 2010). “Jay-Z's 'Run This Town' Video Feels 'Rebellious,' Director Says”. MTV News. Viacom. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2011.
- ^ “Video: Rihanna – 'Wait Your Turn'”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2012.
- ^ a b c d e f Rihanna (2009). Rated R. Def Jam, SRP.
- ^ Vena, Jocelyn (ngày 13 tháng 11 năm 2009). “Rihanna Director Didn't Want 'Russian Roulette' Video To Be 'Too Obvious'”. MTV News. Viacom. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2011.
- ^ “Rihanna Changes Pace with 'Hard' Video”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2010.
- ^ “The Lonely Island – Shy Ronnie (ft. Rihanna)”. The Lonely Island. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Rihanna's 'Rude Boy' Video Director Responds to Criticism”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Sneak Peek: Rihanna – 'Rockstar 101'”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Rihanna caught in a fog filming scenes for Te Amo music video in Paris”. Metro. Associated Newspapers Ltd. ngày 30 tháng 4 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2010.
- ^ “Rihanna skips roulette for poolside fun in Las Vegas | Mail Online”. Daily Mail. Daily Mail and General Trust. ngày 22 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2010.
- ^ Eminem (2010). Recovery. Aftermath, Interscope, Shady, Web Entertainment.
- ^ “Rihanna Offers Day And Night Versions Of 'Who's That Chick?' Video”. MTV News. Viacom. ngày 19 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2012.
- ^ David Guetta (2010). One More Love. Virgin, EMI France.
- ^ “Rihanna's 'Only Girl (In The World)' Video Premieres”. MTV News. Viacom. ngày 13 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2010.
- ^ a b c d e f Rihanna (2010). Loud. Def Jam, SRP.
- ^ “The Lonely Island – Shy Ronnie 2: Ronnie and Clyde”. The Lonely Island. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2012.
- ^ Montgomery, James (ngày 27 tháng 9 năm 2010). “Rihanna Shoots Video For Loud Track 'What's My Name?'”. MTV News. Viacom. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2010.
- ^ “New Music: Rihanna f/ J. Cole – 'S&M (Remix)'”. Rap-Up. Devine Lazerine. ngày 17 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2012.
- ^ “Video: On Set of Kanye West's 'All of the Lights'”. Rap-Up. Devine Lazerine. ngày 31 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2011.
- ^ Kanye West (2010). My Beautiful Dark Twisted Fantasy. Roc-A-Fella, Def Jam.
- ^ “Rihanna Gets in the Sheets for 'California King Bed' Video”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2012.
- ^ “Rihanna Director Talks Upcoming 'Man Down' Video”. MTV News. Viacom. ngày 16 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2011.
- ^ “Quick Clip: Rihanna "Cheers" (Evan Rogers/Ciara Pardo, dir.)”. Video Static. ngày 1 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2011.
- ^ “Nicki Minaj and Rihanna to Shoot 'Fly' Video”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2011.
- ^ Nicki Minaj (2010). Pink Friday (album). Young Money, Cash Money, Universal Motown.
- ^ “Rihanna Shoots We Found Love Video in Ireland”. Rap-Up. Devine Lazerine. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2012.
- ^ a b c Rihanna (2011). Talk That Talk. Def Jam, SRP.
- ^ Vena, Jocelyn (ngày 27 tháng 12 năm 2011). “Rihanna Goes It Alone In 'You Da One' Video”. MTV News. Viacom. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2012.
- ^ “Drake, Rihanna Film 'Take Care' Video, Fans React”. MTV. Viacom. ngày 10 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2012.
- ^ Drake (2011). Take Care (album). Young Money, Cash Money, Universal Motown.
- ^ “BTS Where Have You Been Part 3: On the Set”. Rihanna. YouTube. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Coldplay - Princess Of China ft. Rihanna”. Vevo. YouTube. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2012.
- ^ Coldplay (2011). Mylo Xyloto. EMI Records.
- ^ Vena, Jocelyn (ngày 22 tháng 10 năm 2012). “Rihanna Sets The World On Fire In 'Diamonds' Video Tease”. MTV News. Viacom. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2012.
- ^ a b c Rihanna (2012). Unapologetic. Def Jam, SRP.
- ^ “Rihanna tantalizes in sultry bathtub video for new single 'Stay'”. Daily News. Mortimer Zuckerman. ngày 11 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Photos: Iggy Azalea on the set of Rihanna "Pour It Up" video”. ATL Night Spots. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2013.
- ^ “The ARIA Report” (PDF). Australian Recording Industry Association. 13 tháng 10 năm 2008. tr. 25. Truy cập 26 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Rihanna Good Girl Gone Bad Live DVD” (bằng tiếng Flemish). Ultratop. Truy cập 26 tháng 2 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ “Rihanna Good Girl Gone Bad Live DVD” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập 26 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Archivo, DVD Musicali, Classifica settimanale dal 20-06-2008 al 26-06-2008” (bằng tiếng Ý). Federation of the Italian Music Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2016. Truy cập 26 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Top Music Videos: Good Girl Gone Bad”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2009. Truy cập 26 tháng 2 năm 2009.
- ^ “ARIA Charts - Accreditations - 2010 DVDs”. Australian Recording Industry Association. 2010. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2010.
Liên kết[sửa | sửa mã nguồn]
- Rihanna[liên kết hỏng] Official website
- Rihanna music videography tại MTV.com
- Rihanna tại Allmusic
- Rihanna tại Discogs
- Rihanna trên MusicBrainz
Mỗi sản phẩm biên tập được lựa chọn độc lập, mặc dù chúng tôi có thể được bồi thường hoặc nhận hoa hồng liên kết nếu bạn mua một cái gì đó thông qua các liên kết của chúng tôi. Xếp hạng và giá cả là chính xác và các mặt hàng có trong thời gian xuất bản.Đã đến lúc ăn mừng Hoa Kỳ của A. với những bài hát yêu nước của Groovin từ các nghệ sĩ nhạc pop, rock, hip-hop và nhạc đồng quê được yêu thích nhất của quốc gia.
Những bài hát yêu nước kỷ niệm Hoa Kỳ.
Âm nhạc thiết lập giai điệu cho rất nhiều những gì chúng tôi làm. Cho dù đó là một giai điệu nhạc cụ chơi nhẹ nhàng trong nền trong khi bạn mua sắm, hoặc một bản ballad yêu quý trên radio khiến bạn muốn lăn xuống cửa sổ và hát trên đỉnh phổi của bạn, âm nhạc khiến chúng tôi cảm thấy mọi thứ. Đương nhiên, một số bài hát cho vay vào ngày lễ và lễ kỷ niệm tốt hơn những bài hát khác. Vào thời điểm Giáng sinh, chúng tôi có những bài hát Giáng sinh như Hồi Santa Claus đang đến thị trấn, và vào Halloween, chúng tôi có bộ phim kinh dị. Ngày 4 tháng 7 không có một bài hát yêu nước như Chúa God Bless The U.S.A. Chơi tại một bữa tiệc nướng?
Để tạo danh sách phát nhạc cuối cùng của tháng 7, bắt đầu với một số bài hát yêu nước đã thử và đúng, sau đó là Pepper trong các bài hát bày tỏ lòng tôn kính đối với một số tiểu bang tạo nên đất nước chúng ta. Theo dõi những người yêu thích mùa hè và bạn có cho mình một loạt các bài hát ngày 4 tháng 7 tạo nên nhạc nền hoàn hảo khi chơi các trò chơi ngày 4 tháng 7, đi du lịch cho một nơi nghỉ ngơi vào ngày 4 tháng 7 hoặc bất kỳ lễ kỷ niệm yêu nước nào khác. Sau khi bạn đã phát trực tuyến những bài hát này, hãy tiếp tục lễ kỷ niệm bằng cách xem những bộ phim ngày 4 tháng 7 này.
"Sinh ra ở Mĩ." bởi Bruce Springsteen
Bruce Springsteen, năm 1984, âm thanh giống như một bài hát siêu yêu nước với đoạn điệp khúc lớn trong đó ông chủ thực tế hét lên hát tiêu đề bài hát. Nhưng trong thực tế, ca khúc có một ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Springsteen đã viết bài hát về một bác sĩ thú y chiến tranh Việt Nam trở về nhà để tìm cuộc sống không giống như cách anh ta rời bỏ nó. Trong một cuộc phỏng vấn với NPR, nhạc sĩ đã giải thích quyết định hát phần đó một cách lớn tiếng và tự hào, bất chấp sự tuyệt vọng trong phần còn lại của lời bài hát. Niềm tự hào là trong điệp khúc, ông nói. Trong các bài hát của tôi, phần tâm linh, phần hy vọng, nằm trong các điệp khúc. The Blues và thực tế hàng ngày của bạn là trong các chi tiết của những câu thơ. Don Tiết quên đánh dấu những câu trích dẫn yêu nước này tôn vinh nước Mỹ.
Nghe nè
"Sinh ra ở Mĩ." bởi Bruce Springsteen
Bruce Springsteen, năm 1984, âm thanh giống như một bài hát siêu yêu nước với đoạn điệp khúc lớn trong đó ông chủ thực tế hét lên hát tiêu đề bài hát. Nhưng trong thực tế, ca khúc có một ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Springsteen đã viết bài hát về một bác sĩ thú y chiến tranh Việt Nam trở về nhà để tìm cuộc sống không giống như cách anh ta rời bỏ nó. Trong một cuộc phỏng vấn với NPR, nhạc sĩ đã giải thích quyết định hát phần đó một cách lớn tiếng và tự hào, bất chấp sự tuyệt vọng trong phần còn lại của lời bài hát. Niềm tự hào là trong điệp khúc, ông nói. Trong các bài hát của tôi, phần tâm linh, phần hy vọng, nằm trong các điệp khúc. The Blues và thực tế hàng ngày của bạn là trong các chi tiết của những câu thơ. Don Tiết quên đánh dấu những câu trích dẫn yêu nước này tôn vinh nước Mỹ.
Nghe nè
"Sinh ra ở Mĩ." bởi Bruce Springsteen
Bruce Springsteen, năm 1984, âm thanh giống như một bài hát siêu yêu nước với đoạn điệp khúc lớn trong đó ông chủ thực tế hét lên hát tiêu đề bài hát. Nhưng trong thực tế, ca khúc có một ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Springsteen đã viết bài hát về một bác sĩ thú y chiến tranh Việt Nam trở về nhà để tìm cuộc sống không giống như cách anh ta rời bỏ nó. Trong một cuộc phỏng vấn với NPR, nhạc sĩ đã giải thích quyết định hát phần đó một cách lớn tiếng và tự hào, bất chấp sự tuyệt vọng trong phần còn lại của lời bài hát. Niềm tự hào là trong điệp khúc, ông nói. Trong các bài hát của tôi, phần tâm linh, phần hy vọng, nằm trong các điệp khúc. The Blues và thực tế hàng ngày của bạn là trong các chi tiết của những câu thơ. Don Tiết quên đánh dấu những câu trích dẫn yêu nước này tôn vinh nước Mỹ.
Nghe nè
"Sinh ra ở Mĩ." bởi Bruce Springsteen
Bruce Springsteen, năm 1984, âm thanh giống như một bài hát siêu yêu nước với đoạn điệp khúc lớn trong đó ông chủ thực tế hét lên hát tiêu đề bài hát. Nhưng trong thực tế, ca khúc có một ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Springsteen đã viết bài hát về một bác sĩ thú y chiến tranh Việt Nam trở về nhà để tìm cuộc sống không giống như cách anh ta rời bỏ nó. Trong một cuộc phỏng vấn với NPR, nhạc sĩ đã giải thích quyết định hát phần đó một cách lớn tiếng và tự hào, bất chấp sự tuyệt vọng trong phần còn lại của lời bài hát. Niềm tự hào là trong điệp khúc, ông nói. Trong các bài hát của tôi, phần tâm linh, phần hy vọng, nằm trong các điệp khúc. The Blues và thực tế hàng ngày của bạn là trong các chi tiết của những câu thơ. Don Tiết quên đánh dấu những câu trích dẫn yêu nước này tôn vinh nước Mỹ.
Nghe nè
"Sinh ra ở Mĩ." bởi Bruce Springsteen
Bruce Springsteen, năm 1984, âm thanh giống như một bài hát siêu yêu nước với đoạn điệp khúc lớn trong đó ông chủ thực tế hét lên hát tiêu đề bài hát. Nhưng trong thực tế, ca khúc có một ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Springsteen đã viết bài hát về một bác sĩ thú y chiến tranh Việt Nam trở về nhà để tìm cuộc sống không giống như cách anh ta rời bỏ nó. Trong một cuộc phỏng vấn với NPR, nhạc sĩ đã giải thích quyết định hát phần đó một cách lớn tiếng và tự hào, bất chấp sự tuyệt vọng trong phần còn lại của lời bài hát. Niềm tự hào là trong điệp khúc, ông nói. Trong các bài hát của tôi, phần tâm linh, phần hy vọng, nằm trong các điệp khúc. The Blues và thực tế hàng ngày của bạn là trong các chi tiết của những câu thơ. Don Tiết quên đánh dấu những câu trích dẫn yêu nước này tôn vinh nước Mỹ.
Nghe nè
"ĐÁ. Ở Hoa Kỳ, bởi John Mellencamp
Quay trở lại những năm 1980 với John Mellencamp, thực sự là Rockin, trong đó R.O.C.K. Ở Hoa Kỳ, từ album của anh ấy, Scarecrow, cũng có những bản hit như là thị trấn nhỏ và đêm Lonely Ol. Do một phần của sự giáo dục của anh ấy ở Seymour, Indiana, Mellencamp, âm nhạc thực sự xuất hiện trên Middle America và những người hâm mộ âm nhạc đã ăn nó. Đó là một bản nhạc vui nhộn, lạc quan về mọi người từ khắp nơi (cho dù từ các thành phố lớn hay trung tâm) đến với nhau để gây nhiễu, tạo ra âm nhạc và khá đơn giản, tận hưởng cuộc sống ở Hoa Kỳ. Trong ngoặc đơn sau danh hiệu, Mellencamp cũng gọi nó là một tiếng chào đến 60. Chơi nó trong khi thưởng thức một món khai vị ngày 4 tháng 7.
Nghe nè
"ĐÁ. Ở Hoa Kỳ, bởi John Mellencamp
Quay trở lại những năm 1980 với John Mellencamp, thực sự là Rockin, trong đó R.O.C.K. Ở Hoa Kỳ, từ album của anh ấy, Scarecrow, cũng có những bản hit như là thị trấn nhỏ và đêm Lonely Ol. Do một phần của sự giáo dục của anh ấy ở Seymour, Indiana, Mellencamp, âm nhạc thực sự xuất hiện trên Middle America và những người hâm mộ âm nhạc đã ăn nó. Đó là một bản nhạc vui nhộn, lạc quan về mọi người từ khắp nơi (cho dù từ các thành phố lớn hay trung tâm) đến với nhau để gây nhiễu, tạo ra âm nhạc và khá đơn giản, tận hưởng cuộc sống ở Hoa Kỳ. Trong ngoặc đơn sau danh hiệu, Mellencamp cũng gọi nó là một tiếng chào đến 60. Chơi nó trong khi thưởng thức một món khai vị ngày 4 tháng 7.
Nghe nè
"ĐÁ. Ở Hoa Kỳ, bởi John Mellencamp
Quay trở lại những năm 1980 với John Mellencamp, thực sự là Rockin, trong đó R.O.C.K. Ở Hoa Kỳ, từ album của anh ấy, Scarecrow, cũng có những bản hit như là thị trấn nhỏ và đêm Lonely Ol. Do một phần của sự giáo dục của anh ấy ở Seymour, Indiana, Mellencamp, âm nhạc thực sự xuất hiện trên Middle America và những người hâm mộ âm nhạc đã ăn nó. Đó là một bản nhạc vui nhộn, lạc quan về mọi người từ khắp nơi (cho dù từ các thành phố lớn hay trung tâm) đến với nhau để gây nhiễu, tạo ra âm nhạc và khá đơn giản, tận hưởng cuộc sống ở Hoa Kỳ. Trong ngoặc đơn sau danh hiệu, Mellencamp cũng gọi nó là một tiếng chào đến 60. Chơi nó trong khi thưởng thức một món khai vị ngày 4 tháng 7.
Nghe nè
"ĐÁ. Ở Hoa Kỳ, bởi John Mellencamp
Quay trở lại những năm 1980 với John Mellencamp, thực sự là Rockin, trong đó R.O.C.K. Ở Hoa Kỳ, từ album của anh ấy, Scarecrow, cũng có những bản hit như là thị trấn nhỏ và đêm Lonely Ol. Do một phần của sự giáo dục của anh ấy ở Seymour, Indiana, Mellencamp, âm nhạc thực sự xuất hiện trên Middle America và những người hâm mộ âm nhạc đã ăn nó. Đó là một bản nhạc vui nhộn, lạc quan về mọi người từ khắp nơi (cho dù từ các thành phố lớn hay trung tâm) đến với nhau để gây nhiễu, tạo ra âm nhạc và khá đơn giản, tận hưởng cuộc sống ở Hoa Kỳ. Trong ngoặc đơn sau danh hiệu, Mellencamp cũng gọi nó là một tiếng chào đến 60. Chơi nó trong khi thưởng thức một món khai vị ngày 4 tháng 7.
Nghe nè
"ĐÁ. Ở Hoa Kỳ, bởi John Mellencamp
Quay trở lại những năm 1980 với John Mellencamp, thực sự là Rockin, trong đó R.O.C.K. Ở Hoa Kỳ, từ album của anh ấy, Scarecrow, cũng có những bản hit như là thị trấn nhỏ và đêm Lonely Ol. Do một phần của sự giáo dục của anh ấy ở Seymour, Indiana, Mellencamp, âm nhạc thực sự xuất hiện trên Middle America và những người hâm mộ âm nhạc đã ăn nó. Đó là một bản nhạc vui nhộn, lạc quan về mọi người từ khắp nơi (cho dù từ các thành phố lớn hay trung tâm) đến với nhau để gây nhiễu, tạo ra âm nhạc và khá đơn giản, tận hưởng cuộc sống ở Hoa Kỳ. Trong ngoặc đơn sau danh hiệu, Mellencamp cũng gọi nó là một tiếng chào đến 60. Chơi nó trong khi thưởng thức một món khai vị ngày 4 tháng 7.
Nghe nè
"ĐÁ. Ở Hoa Kỳ, bởi John Mellencamp
Quay trở lại những năm 1980 với John Mellencamp, thực sự là Rockin, trong đó R.O.C.K. Ở Hoa Kỳ, từ album của anh ấy, Scarecrow, cũng có những bản hit như là thị trấn nhỏ và đêm Lonely Ol. Do một phần của sự giáo dục của anh ấy ở Seymour, Indiana, Mellencamp, âm nhạc thực sự xuất hiện trên Middle America và những người hâm mộ âm nhạc đã ăn nó. Đó là một bản nhạc vui nhộn, lạc quan về mọi người từ khắp nơi (cho dù từ các thành phố lớn hay trung tâm) đến với nhau để gây nhiễu, tạo ra âm nhạc và khá đơn giản, tận hưởng cuộc sống ở Hoa Kỳ. Trong ngoặc đơn sau danh hiệu, Mellencamp cũng gọi nó là một tiếng chào đến 60. Chơi nó trong khi thưởng thức một món khai vị ngày 4 tháng 7.
Nghe nè
"ĐÁ. Ở Hoa Kỳ, bởi John Mellencamp
Quay trở lại những năm 1980 với John Mellencamp, thực sự là Rockin, trong đó R.O.C.K. Ở Hoa Kỳ, từ album của anh ấy, Scarecrow, cũng có những bản hit như là thị trấn nhỏ và đêm Lonely Ol. Do một phần của sự giáo dục của anh ấy ở Seymour, Indiana, Mellencamp, âm nhạc thực sự xuất hiện trên Middle America và những người hâm mộ âm nhạc đã ăn nó. Đó là một bản nhạc vui nhộn, lạc quan về mọi người từ khắp nơi (cho dù từ các thành phố lớn hay trung tâm) đến với nhau để gây nhiễu, tạo ra âm nhạc và khá đơn giản, tận hưởng cuộc sống ở Hoa Kỳ. Trong ngoặc đơn sau danh hiệu, Mellencamp cũng gọi nó là một tiếng chào đến 60. Chơi nó trong khi thưởng thức một món khai vị ngày 4 tháng 7.
Nghe nè
“Trẻ em ở Mỹ” của Kim Wilde
Nó có một bài hát đã đưa ngôi sao nhạc pop của thập niên 80 Kim Wilde lên bản đồ âm nhạc, nhưng mặc dù hát về những đứa trẻ ở Mỹ, nhưng Wild Wilde thực sự đến từ Anh, cũng như một nhạc sĩ đã viết giai điệu. Tuy nhiên, đó là tất cả về cách thế hệ tiếp theo đang chuẩn bị tiếp quản, và điều đó cảm thấy khá đáng thương với chúng tôi. Ca khúc đã xuất hiện trên album đầu tay có tựa đề Wilde, năm 1981 và tìm thấy thành công tức thì. Nó sẽ tìm thấy sự quan tâm mới khi Trẻ em ở Mỹ ở Mỹ xuất hiện trên nhạc nền cho Cluless vào năm 1995, một bộ phim đã nhận được những đánh giá hay nhất khi được phát hành, nhưng hiện được coi là một tác phẩm kinh điển của thập niên 90. Bạn đã giành được sự hối hận khi thêm vào những đứa trẻ của bạn vào danh sách các bài hát ngày 4 tháng 7 của bạn.
Nghe nè
“Trẻ em ở Mỹ” của Kim Wilde
Nó có một bài hát đã đưa ngôi sao nhạc pop của thập niên 80 Kim Wilde lên bản đồ âm nhạc, nhưng mặc dù hát về những đứa trẻ ở Mỹ, nhưng Wild Wilde thực sự đến từ Anh, cũng như một nhạc sĩ đã viết giai điệu. Tuy nhiên, đó là tất cả về cách thế hệ tiếp theo đang chuẩn bị tiếp quản, và điều đó cảm thấy khá đáng thương với chúng tôi. Ca khúc đã xuất hiện trên album đầu tay có tựa đề Wilde, năm 1981 và tìm thấy thành công tức thì. Nó sẽ tìm thấy sự quan tâm mới khi Trẻ em ở Mỹ ở Mỹ xuất hiện trên nhạc nền cho Cluless vào năm 1995, một bộ phim đã nhận được những đánh giá hay nhất khi được phát hành, nhưng hiện được coi là một tác phẩm kinh điển của thập niên 90. Bạn đã giành được sự hối hận khi thêm vào những đứa trẻ của bạn vào danh sách các bài hát ngày 4 tháng 7 của bạn.
Nghe nè
“Trẻ em ở Mỹ” của Kim Wilde
Nó có một bài hát đã đưa ngôi sao nhạc pop của thập niên 80 Kim Wilde lên bản đồ âm nhạc, nhưng mặc dù hát về những đứa trẻ ở Mỹ, nhưng Wild Wilde thực sự đến từ Anh, cũng như một nhạc sĩ đã viết giai điệu. Tuy nhiên, đó là tất cả về cách thế hệ tiếp theo đang chuẩn bị tiếp quản, và điều đó cảm thấy khá đáng thương với chúng tôi. Ca khúc đã xuất hiện trên album đầu tay có tựa đề Wilde, năm 1981 và tìm thấy thành công tức thì. Nó sẽ tìm thấy sự quan tâm mới khi Trẻ em ở Mỹ ở Mỹ xuất hiện trên nhạc nền cho Cluless vào năm 1995, một bộ phim đã nhận được những đánh giá hay nhất khi được phát hành, nhưng hiện được coi là một tác phẩm kinh điển của thập niên 90. Bạn đã giành được sự hối hận khi thêm vào những đứa trẻ của bạn vào danh sách các bài hát ngày 4 tháng 7 của bạn.
Nghe nè
“Trẻ em ở Mỹ” của Kim Wilde
Nó có một bài hát đã đưa ngôi sao nhạc pop của thập niên 80 Kim Wilde lên bản đồ âm nhạc, nhưng mặc dù hát về những đứa trẻ ở Mỹ, nhưng Wild Wilde thực sự đến từ Anh, cũng như một nhạc sĩ đã viết giai điệu. Tuy nhiên, đó là tất cả về cách thế hệ tiếp theo đang chuẩn bị tiếp quản, và điều đó cảm thấy khá đáng thương với chúng tôi. Ca khúc đã xuất hiện trên album đầu tay có tựa đề Wilde, năm 1981 và tìm thấy thành công tức thì. Nó sẽ tìm thấy sự quan tâm mới khi Trẻ em ở Mỹ ở Mỹ xuất hiện trên nhạc nền cho Cluless vào năm 1995, một bộ phim đã nhận được những đánh giá hay nhất khi được phát hành, nhưng hiện được coi là một tác phẩm kinh điển của thập niên 90. Bạn đã giành được sự hối hận khi thêm vào những đứa trẻ của bạn vào danh sách các bài hát ngày 4 tháng 7 của bạn.
Nghe nè
“Trẻ em ở Mỹ” của Kim Wilde
Nó có một bài hát đã đưa ngôi sao nhạc pop của thập niên 80 Kim Wilde lên bản đồ âm nhạc, nhưng mặc dù hát về những đứa trẻ ở Mỹ, nhưng Wild Wilde thực sự đến từ Anh, cũng như một nhạc sĩ đã viết giai điệu. Tuy nhiên, đó là tất cả về cách thế hệ tiếp theo đang chuẩn bị tiếp quản, và điều đó cảm thấy khá đáng thương với chúng tôi. Ca khúc đã xuất hiện trên album đầu tay có tựa đề Wilde, năm 1981 và tìm thấy thành công tức thì. Nó sẽ tìm thấy sự quan tâm mới khi Trẻ em ở Mỹ ở Mỹ xuất hiện trên nhạc nền cho Cluless vào năm 1995, một bộ phim đã nhận được những đánh giá hay nhất khi được phát hành, nhưng hiện được coi là một tác phẩm kinh điển của thập niên 90. Bạn đã giành được sự hối hận khi thêm vào những đứa trẻ của bạn vào danh sách các bài hát ngày 4 tháng 7 của bạn.
Nghe nè
“Trẻ em ở Mỹ” của Kim Wilde
Nó có một bài hát đã đưa ngôi sao nhạc pop của thập niên 80 Kim Wilde lên bản đồ âm nhạc, nhưng mặc dù hát về những đứa trẻ ở Mỹ, nhưng Wild Wilde thực sự đến từ Anh, cũng như một nhạc sĩ đã viết giai điệu. Tuy nhiên, đó là tất cả về cách thế hệ tiếp theo đang chuẩn bị tiếp quản, và điều đó cảm thấy khá đáng thương với chúng tôi. Ca khúc đã xuất hiện trên album đầu tay có tựa đề Wilde, năm 1981 và tìm thấy thành công tức thì. Nó sẽ tìm thấy sự quan tâm mới khi Trẻ em ở Mỹ ở Mỹ xuất hiện trên nhạc nền cho Cluless vào năm 1995, một bộ phim đã nhận được những đánh giá hay nhất khi được phát hành, nhưng hiện được coi là một tác phẩm kinh điển của thập niên 90. Bạn đã giành được sự hối hận khi thêm vào những đứa trẻ của bạn vào danh sách các bài hát ngày 4 tháng 7 của bạn.
Nghe nè
“Trẻ em ở Mỹ” của Kim Wilde
Nó có một bài hát đã đưa ngôi sao nhạc pop của thập niên 80 Kim Wilde lên bản đồ âm nhạc, nhưng mặc dù hát về những đứa trẻ ở Mỹ, nhưng Wild Wilde thực sự đến từ Anh, cũng như một nhạc sĩ đã viết giai điệu. Tuy nhiên, đó là tất cả về cách thế hệ tiếp theo đang chuẩn bị tiếp quản, và điều đó cảm thấy khá đáng thương với chúng tôi. Ca khúc đã xuất hiện trên album đầu tay có tựa đề Wilde, năm 1981 và tìm thấy thành công tức thì. Nó sẽ tìm thấy sự quan tâm mới khi Trẻ em ở Mỹ ở Mỹ xuất hiện trên nhạc nền cho Cluless vào năm 1995, một bộ phim đã nhận được những đánh giá hay nhất khi được phát hành, nhưng hiện được coi là một tác phẩm kinh điển của thập niên 90. Bạn đã giành được sự hối hận khi thêm vào những đứa trẻ của bạn vào danh sách các bài hát ngày 4 tháng 7 của bạn.
Nghe nè
Nội địa "của Kenny Rogers
Cho dù bạn có phải là một người hâm mộ âm nhạc đồng quê hay không, Kenny Rogers đã chạm đến rất nhiều cuộc sống như một biểu tượng văn hóa nhạc pop trong suốt thập niên 80 và thật lòng mà nói, cho đến cuối đời. Bài hát của anh ấy là Homeland Homeland đã được phát hành vào năm 2001 từ album của anh ấy ở đó bạn lại. Ca khúc đi sâu vào trung tâm của nước Mỹ, nơi Rogers cảm thấy rất được chào đón trong nhiều thập kỷ, và thực sự ca ngợi vẻ đẹp và bản chất của đất nước. Lời bài hát thậm chí có thể mang lại một giọt nước mắt yêu nước cho bạn: Bạn có thể giữ mưa, mang theo gió / đánh chúng tôi xuống, chúng tôi sẽ đứng dậy / chúng tôi đã đào sâu, làm cho chúng tôi đứng / đây là quê hương của chúng tôi. ” Bạn muốn cảm thấy yêu nước hơn nữa? Cuộn qua những hình ảnh cờ Mỹ vĩ đại này.
Nghe nè
Nội địa "của Kenny Rogers
Cho dù bạn có phải là một người hâm mộ âm nhạc đồng quê hay không, Kenny Rogers đã chạm đến rất nhiều cuộc sống như một biểu tượng văn hóa nhạc pop trong suốt thập niên 80 và thật lòng mà nói, cho đến cuối đời. Bài hát của anh ấy là Homeland Homeland đã được phát hành vào năm 2001 từ album của anh ấy ở đó bạn lại. Ca khúc đi sâu vào trung tâm của nước Mỹ, nơi Rogers cảm thấy rất được chào đón trong nhiều thập kỷ, và thực sự ca ngợi vẻ đẹp và bản chất của đất nước. Lời bài hát thậm chí có thể mang lại một giọt nước mắt yêu nước cho bạn: Bạn có thể giữ mưa, mang theo gió / đánh chúng tôi xuống, chúng tôi sẽ đứng dậy / chúng tôi đã đào sâu, làm cho chúng tôi đứng / đây là quê hương của chúng tôi. ” Bạn muốn cảm thấy yêu nước hơn nữa? Cuộn qua những hình ảnh cờ Mỹ vĩ đại này.
Nghe nè
Nội địa "của Kenny Rogers
Cho dù bạn có phải là một người hâm mộ âm nhạc đồng quê hay không, Kenny Rogers đã chạm đến rất nhiều cuộc sống như một biểu tượng văn hóa nhạc pop trong suốt thập niên 80 và thật lòng mà nói, cho đến cuối đời. Bài hát của anh ấy là Homeland Homeland đã được phát hành vào năm 2001 từ album của anh ấy ở đó bạn lại. Ca khúc đi sâu vào trung tâm của nước Mỹ, nơi Rogers cảm thấy rất được chào đón trong nhiều thập kỷ, và thực sự ca ngợi vẻ đẹp và bản chất của đất nước. Lời bài hát thậm chí có thể mang lại một giọt nước mắt yêu nước cho bạn: Bạn có thể giữ mưa, mang theo gió / đánh chúng tôi xuống, chúng tôi sẽ đứng dậy / chúng tôi đã đào sâu, làm cho chúng tôi đứng / đây là quê hương của chúng tôi. ” Bạn muốn cảm thấy yêu nước hơn nữa? Cuộn qua những hình ảnh cờ Mỹ vĩ đại này.
Nghe nè
Nội địa "của Kenny Rogers
Cho dù bạn có phải là một người hâm mộ âm nhạc đồng quê hay không, Kenny Rogers đã chạm đến rất nhiều cuộc sống như một biểu tượng văn hóa nhạc pop trong suốt thập niên 80 và thật lòng mà nói, cho đến cuối đời. Bài hát của anh ấy là Homeland Homeland đã được phát hành vào năm 2001 từ album của anh ấy ở đó bạn lại. Ca khúc đi sâu vào trung tâm của nước Mỹ, nơi Rogers cảm thấy rất được chào đón trong nhiều thập kỷ, và thực sự ca ngợi vẻ đẹp và bản chất của đất nước. Lời bài hát thậm chí có thể mang lại một giọt nước mắt yêu nước cho bạn: Bạn có thể giữ mưa, mang theo gió / đánh chúng tôi xuống, chúng tôi sẽ đứng dậy / chúng tôi đã đào sâu, làm cho chúng tôi đứng / đây là quê hương của chúng tôi. ” Bạn muốn cảm thấy yêu nước hơn nữa? Cuộn qua những hình ảnh cờ Mỹ vĩ đại này.
Nghe nè
Nội địa "của Kenny Rogers
Cho dù bạn có phải là một người hâm mộ âm nhạc đồng quê hay không, Kenny Rogers đã chạm đến rất nhiều cuộc sống như một biểu tượng văn hóa nhạc pop trong suốt thập niên 80 và thật lòng mà nói, cho đến cuối đời. Bài hát của anh ấy là Homeland Homeland đã được phát hành vào năm 2001 từ album của anh ấy ở đó bạn lại. Ca khúc đi sâu vào trung tâm của nước Mỹ, nơi Rogers cảm thấy rất được chào đón trong nhiều thập kỷ, và thực sự ca ngợi vẻ đẹp và bản chất của đất nước. Lời bài hát thậm chí có thể mang lại một giọt nước mắt yêu nước cho bạn: Bạn có thể giữ mưa, mang theo gió / đánh chúng tôi xuống, chúng tôi sẽ đứng dậy / chúng tôi đã đào sâu, làm cho chúng tôi đứng / đây là quê hương của chúng tôi. ” Bạn muốn cảm thấy yêu nước hơn nữa? Cuộn qua những hình ảnh cờ Mỹ vĩ đại này.
Nghe nè
Nội địa "của Kenny Rogers
Cho dù bạn có phải là một người hâm mộ âm nhạc đồng quê hay không, Kenny Rogers đã chạm đến rất nhiều cuộc sống như một biểu tượng văn hóa nhạc pop trong suốt thập niên 80 và thật lòng mà nói, cho đến cuối đời. Bài hát của anh ấy là Homeland Homeland đã được phát hành vào năm 2001 từ album của anh ấy ở đó bạn lại. Ca khúc đi sâu vào trung tâm của nước Mỹ, nơi Rogers cảm thấy rất được chào đón trong nhiều thập kỷ, và thực sự ca ngợi vẻ đẹp và bản chất của đất nước. Lời bài hát thậm chí có thể mang lại một giọt nước mắt yêu nước cho bạn: Bạn có thể giữ mưa, mang theo gió / đánh chúng tôi xuống, chúng tôi sẽ đứng dậy / chúng tôi đã đào sâu, làm cho chúng tôi đứng / đây là quê hương của chúng tôi. ” Bạn muốn cảm thấy yêu nước hơn nữa? Cuộn qua những hình ảnh cờ Mỹ vĩ đại này.
Nghe nè
“Sống ở Mỹ” của James Brown