Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam 1911 1945

VAI TRÒ của NGUYỄN ái QUỐC TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM từ 1911 – 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 33 trang )

Chủ đề bài thuyết trình:

VAI TRÒ CỦA
NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ
1911 – 1945


2) TỪ NĂM

1) GIỚI THIỆU

1911 - 1920

VAI TRÒ

3) TỪ NĂM

4) TỪ NĂM

1921 – 1930

1931 - 1945


1) GIỚI THIỆU
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng Trù, nay
thuộc xã Kim Liên huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Nguyễn Ái Quốc sinh ra
trong một gia đình có truyền thống yêu nước, từ nhỏ Nguyễn Ái Quốc đã nuôi
chí đuổi giặc Pháp, giải phóng đồng bào.
//www.baobinhdinh.com.vn/ThiHoChiMinh/2005/3/7031/




Trong quãng thời gian từ khi sinh ra đến trước khi xuất dương, Nguyễn Ái
Quốc đã sinh sống ở nhiều nơi.

Đó là thành Huế với bao cảnh đau lòng của một dân tộc
Đó là quê hương Nghệ Tĩnh với truyền thống yêu nước và
bị làm nô lệ
đấu tranh chống Pháp kiên cường.


Nguyễn Tất Thành là người thanh niên vượt qua gian khó, đã sớm
bộc lộ mầm mống trí lớn của một con người mà sau này trở thành anh
hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Thời thanh niên,
Nguyễn Tất Thành được học chữ Hán, rồi chữ Pháp của nền giáo dục
thực dân.


Vốn là con người thông minh ham học hỏi, Nguyễn Tất Thành
đã để ý đến câu khẩu hiệu của nước Pháp: tự do – bình đẳng – bác
ái. Và người tự hỏi, đằng sau ba chữ đó là sự thật như thế nào. Và
vì sao dân tộc ta vẫn phải chịu cảnh nô lệ lầm than. Những câu hỏi
đó cộng với lòng yêu nước, ý chí vượt khó đã thôi thúc Người ra đi
tìm đường cứu nước.


2. GIAI ĐOẠN TỪ 1911 ĐẾN 1920

Mười năm ra đi tìm đường cứu nước, trở thành người chiến sĩ cộng sản Việt Nam đầu
tiên và là một trong những người sáng lập Đảng cộng sản Pháp.


-

5/6/1911 Nguyễn Tất Thành lấy tên Văn Ba làm nhân viên phụ bếp tàu buôn Amiran
Latutsơ Tơrêvin đi ra nước ngoài tìm đường cứu dân tộc

- Nguyễn Tất Thành ra đi không giống trường hợp của Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh.


Những năm tháng sống ở nước ngoài, Nguyễn Tất
Thành đã nhận thấy một điều rằng ở bất cứ nơi nào cùng
có những cảnh áp bức, bóc lột, bất công. Và Người tổng
kết, trên thế giới này chỉ có hai loại người đó là kẻ áp bức
và người bị áp bức.


- Tháng 6 năm 1919, cái tên Nguyễn Ái Quốc
lần đầu xuất hiện trên bầu trời cách mạng Việt
Nam.
- Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia tích
cực vào Ủy ban Quốc tế III của Đảng Xã hội Pháp.


Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc tác phẩm
của Lênin: sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các
vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo L’Humanité.
Tác phẩm của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con
đường giành độc lập dân tộc và tự do cho đồng bào.



- Ngày 25 tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc
tham gia Đại hội đại biểu Đảng Xã hội Pháp (Đại hội
Tour) với tư cách là đại biểu Đông Dương.

- Trong phiên học buổi chiều ngày 26 tháng 12 năm 1920, Nguyễn
Ái Quốc với tư cách là đại biểu Đông Dương đã phát biểu lên án chủ
nghĩa thực dân Pháp.


Trong khuân khổ Đại hội Tour, ngày 29 tháng 12 năm 1920,
Nguyễn Ái Quốc đã bổ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III,
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ giời phút ấy, Nguyễn Ái Quốc
trở thành người Cộng sản. Là một trong những nhà sáng lập ra
đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.


=>> Như vậy, sau gần 10 năm bôn ba nhiều nơi, Nguyễn Ái Quốc nhận ra thế giới
còn nhiều người bị áp bức bất công và chỉ có chủ nghĩa Mác – Lênin mới chỉ ra con
đường tranh đấu đi đến thắng lợi cuối cùng. Cả quá trình đó là sự chuyển biến từ chủ
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa vô sản. Từ người thanh niên yêu nước trở thành chiến sĩ
cộng sản Việt Nam đầu tiên. Mười năm đầu, chủ nghĩa cộng sản mới chỉ xuất hiện trên
một con người Việt Nam. Như đây cũng là hạt giống đỏ để nhân rộng ra những người
Việt Nam yêu nước sau này.


3. GIAI ĐOẠN
TỪ1921 ĐẾN 1930

Mười năm hoạt động sôi nổi, gian khó, dũng cảm và sáng tạo với tư cách một chiến sĩ

cộng sản Quốc tế và người sáng lập ra đảng Cộng sản Việt Nam.

-

Giữa năm 1921 Người hoạt động tích cực xúc tiến thành lập “Hội liên
hiệp thuộc địa”

-

Sáng lập tờ báo Người cùng khổ
Viết báo và tích cực hoạt động tại Pháp


-

Tháng 6 năm 1923 Người sang Liên Xô
Cuối năm 1923 Người tham dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế nông
dân, tham gia các Hội nghị khác

-

Tháng 11 năm 1924 Người đến Trung Quốc
Năm 1925 thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên.


- Tháng 1 năm 1930 Người chủ trì
hội nghị thống nhất các tổ chức cộng
sản để thành lập ra Đảng cộng sản Việt
Nam.



=>>> Như vây, trong suốt 10 năm từ 1921 đến 1930 với những hoạt
sôi nổi và hiệu quả của Nguyễn Ái Quốc đã đưa chủ nghĩa cộng sản từ
một con người phát triển lên một tổ chức. Sự ra đời của các tổ chức cộng
sản và Đảng Cộng sản Việt Nam lúc này là một sự chuẩn bị chu đáo, đầy
đủ và kĩ lưỡng từ tư tưởng đến tổ chức, từ con người đến tài liệu… và đây
cũng là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử.


4. GIAI ĐOẠN TỪ 1930 ĐẾN
1945
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh lãnh đạo Đảng chuẩn bị về mọi mặt cho Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền

Trong một khoảng thời gian dài từ 1931 đến 1938 là những năm tháng
đau thương của Nguyễn Ái Quốc. Người đã nhiều lần bị chính quyền thực dân
Hồng Kông bắt giam, sau đó là tình trạng đình chỉ hoạt động của quốc tế cộng
sản đối với Người.


Sau khi rời khỏi Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc trở về
Trung Quốc. Tại đây Người đã liên lạc với các đồng chí
của Đảng Cộng sản: Hoàng Tùng, Vũ Anh, Phùng Chí
Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…


Ngày 20/06/1940 sau khi nghe tin Pari bị phát xít Đức xâm
chiếm, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập cuộc họp và phân tích:
“Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng
Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời

cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”


-

Ngày 22/09/1940 Người đưa nhận định: “Đồng minh sẽ
thắng. Nhật Pháp ở Đông Dương chóng chày sẽ bắn nhau.
Việt Nam sẽ giành được độc lập.

-

Chiến tranh du kích do Việt Minh lãnh đạo dần dần phát
triển với những vũ khí thô sơ, gươm, giáo, mác và một số ít
khẩu súng cướp được của giặc.


-

Ngày 29 tháng 1 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc lên đường về
nước tại cột mốc số 108 trên biên giới Việt – Trung (địa phận
huyện Hà Quảng – Cao Bằng).

-

Từ ngày 10 đến 19 tháng 5 năm 1941Người chủ trì Hội nghị
lần thứ VIII của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương .


-


Từ 1942 trở đi, tình hình chiến tranh Thế giới thứ 2 đã có
những biến chuyển tích cực cho phe Đồng Minh

-

Ngày 13 tháng 8 năm 1942, với tên mới là Hồ Chí Minh,
Người đã sang Trung Quốc để liên lạc với lực lượng cách
mạng của người Việt Nam và lực lượng Đồng Minh


Cuối tháng 8 và đầu tháng 9 năm 1943 sau khi đã vượt qua
nhiều khó khăn, rắc rối do phía Quốc dân Đảng Trung Quốc
gây ra, Người đã trở về nước. Cuối tháng 9 Người đã kịp thời
chỉ thì trì hoãn cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở địa
phương của Liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng tránh những tổn thất
khi chúng ta chưa chuẩn bị đầy đủ


-

Đầu tháng 12 năm 1944 Người chỉ thị cho đồng chí Võ
Nguyên Giáp đảm nhiệm việc thành lập lực lượng vũ trang
tập trung

-

Từ ngày 6 đến 10 tháng 8 năm 1945 khi biết thời cơ khởi
nghĩa giành chính quyền đã gấn đến, Hồ Chí Minh thúc giục
triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào



HOẠT ĐỘNG và VAI TRÒ của NGUYỄN ái QUỐC hồ CHÍ MINH đối với CÁCH MẠNG VIỆT NAM từ năm 1911 đến năm 1969

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.7 KB, 20 trang )

SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT ĐỘI CẤN

CHUYÊN ĐỀ ÔN THI ĐẠI HỌC - CAO ĐẲNG
MÔN LỊCH SỬ
TÊN CHUYÊN ĐỀ

HOẠT ĐỘNG VÀ VAI TRÒ CỦA
NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH ĐỐI
VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ NĂM
1911 ĐẾN NĂM 1969
Đối tượng bồi dưỡng: Học sinh lớp 12
Số tiết : 08

Người viết: VŨ THỊ NHUNG
Chức vụ:
Giáo viên
Trường : THPT ĐỘI CẤN

Vĩnh Tường tháng 3 - 2014
1


HOẠT ĐỘNG VÀ VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ NĂM
1911 ĐẾN NĂM 1969
A. MỤC TIÊU CỦA CHUYÊN ĐỀ
1. Về kiến thức
- Bác Hồ - vị cha già của dân tộc. Cả cuộc đời 79 mùa xuân của mình, Người đã
cống hiến trọn đời cho dân tộc Việt Nam. Công lao của Người đối với dân tộc
không thể nào kể hết “Đố ai đếm đủ vì sao. Đố ai đếm được công lao Bác Hồ”.
Quá trình hoạt động và vai trò của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với cách


mạng Việt Nam là một trong những nội dung quan trọng rất hay được đề cập tới
trong các kì thi Đại học, Cao đẳng. Tuy nhiên, kiến thức cơ bản về Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh không được viết theo hệ thống mà được trình bày trong rất
nhiều bài thuộc chương trình sách giáo khoa Lịch sử 11, 12 (cơ bản và nâng cao)
nên gây khó khăn trong việc tiếp nhận, lĩnh hội kiến thức của học sinh. Chính vì
vậy, chuyên đề này giúp cho học sinh hình dung một cách sâu sắc, hệ thống toàn
diện mảng kiến thức về hoạt động và vai trò của Người đối với cách mạng Việt
Nam.
- Chuyên đề có hệ thống các dạng câu hỏi bài tập về hoạt động và vai trò của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam giúp học sinh củng
cố được kiến thức đã học, nắm được các dạng đề bài, vì vậy rất hữu ích cho học
sinh lớp 12 ôn thi Đại học, Cao đẳng.
2. Về thái độ, tư tưởng
Thông qua việc tìm hiểu về hoạt động và vai trò của Nguyến Ái Quốc - Hồ Chí
Minh, chuyên đề có tác dụng giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, tự hào dân tộc,
giáo dục lòng biết ơn và kính yêu Bác Hồ.
3. Về kĩ năng
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng đồ dùng trực quan, kĩ năng phân tích,
đánh giá, thống kê, liên hệ lịch sử…
- Rèn luyện kĩ năng tư duy, lôgíc, làm bài Lịch sử cho học sinh
B. CẤU TRÚC CỦA CHUYÊN ĐỀ
Cấu trúc chuyên đề chia làm hai phần
* Phần kiến thức:
- Thời kì 1911 - 1930
- Thời kì 1930 - 1945
- Thời kì 1945 - 1954
- Thời kì 1954 - 1969
* Phần hệ thống các dạng bài tập đặc trưng
Phạm vi kiến thức sử dụng trong chuyên đề là kiến thức trong sách giáo khoa
Lịch sử cơ bản và nâng cao lớp 11, 12, các tài liệu ôn thi Đại học, Cao đẳng, các

đề thi Đại học, cao đẳng qua các năm do Bộ GD&ĐT tổ chức
2


C. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. Về kiến thức
1. Thời kì 1911 - 1930
1.1. Bối cảnh lịch sử Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước trong lúc thực dân Pháp đã xác lập
được ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam và tiến hành cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất. Cuộc khai thác này đã làm cho kinh tế - xã hội Việt Nam có sự
chuyển biến sâu sắc. Nhiều giai cấp, tầng lớp mới ra đời như tầng lớp tư sản dân
tộc, tầng lớp tiểu tư sản, giai cấp công nhân. Sự chuyển biến về xã hội làm cho
mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam bao gồm mâu thuẫn dân tộc (giữa toàn
thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp) và mâu thuẫn giai cấp (giữa nông dân
với địa chủ). Trong đó, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp là
mâu thuẫn cơ bản nhất. Vì vậy đấu tranh giải phóng dân tộc trở thành yêu cầu bức
thiết đối với nước ta.
Các phong trào yêu nước theo tư tưởng phong kiến (phong trào Cần Vương),
phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản (tiêu biểu là hoạt động
của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh) diễn ra nhưng đều bị thất bại vì thiếu
đường lối đúng đắn. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng về
đường lối “mò mẫm trong đêm tối dường như không có đường ra”. Yêu cầu lịch
sử đặt ra là phải tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An trong
một gia đình trí thức yêu nước. Cha Người là Nguyễn Sinh Sắc, đỗ Phó bảng. Mẹ
của Người là Hoàng Thị Loan, một phụ nữ có học, đảm đang. Bản thân là người
có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí căm thù giặc sâu sắc, Nguyễn Ái Quốc từ rất
sớm đã có “chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào”. Trước sự bế tắc của các

con đường cứu nước và yêu cầu lịch sử của cách mạng Việt Nam, Người đã quyết
tâm ra đi tìm đường cứu nước.
Năm 1906, Người theo cha vào Huế. Trong thời gian học ở trường Tiểu học
Pháp - Việt và trường Quốc học Huế, được tiếp xúc với nền văn minh Pháp,
Người muốn sang Pháp để tìm hiểu.
Sau khi tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân Thừa Thiên Huế (51908), Người bí mật lên đường vào Nam. Trên đường đi, Người đã dừng chân dạy
học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết). Đầu năm 1911, Người vào Sài Gòn tìm cơ
hội ra nước ngoài để tìm đường cứu nước
1.2. Nét độc đáo trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
Về hướng đi: Khác với những nhà yêu nước đi trước thường đi theo con đường
truyền thống phương Đông: Trung Quốc, Nhật Bản. Nguyễn Ái Quốc quyết định
sang phương Tây, cụ thể là đến Pháp, vì nước Pháp là nước giành thắng lợi trong
cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789, đây là cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất
3


ở Châu Âu; trong quá trình thống trị Việt Nam, thực dân Pháp rêu rao khẩu hiệu
“Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, Người đến Pháp để tìm hiểu sự thật của sự tự do,
bình đẳng, bác ái ấy.
Về mục đích: Người muốn tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm cách
mạng như thế nào rồi sẽ về giúp đồng bào mình.
Về cách tiếp cận chân lí cứu nước: Khác với các bậc tiền bối đi ra nước ngoài
để cầu viện, đào tạo nhân tài, tổ chức lực lượng đánh Pháp theo con đường cứu
nước đã định sẵn: dân chủ tư sản. Nguyễn Ái Quốc phải trải qua một cuộc hành
trình đi qua nhiều nước châu Á, Phi, Mĩ. Người vừa lao động để kiếm sống, vừa
học tập văn hoá, vừa hoà mình vào trong phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động các nước, mặt khác Người tiến hành nghiên cứu thực
tiễn xã hội và kinh nghiệm cách mạng các nước để tìm kiếm con đường cứu nước
cho dân tộc.
Như vậy, quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là quá trình khảo

sát, quá trình lựa chọn. Cuộc cách mạng tới nơi mà Người tìm kiếm là cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
1.3. Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và tìm ra con đường
giải phóng dân tộc đúng đắn cho cách mạng Việt Nam (1911-1920).
Ngày 5 - 6 - 1911, Nguyễn Ái Quốc rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu
nước với quyết tâm “tôi sẽ làm việc, tôi sẽ làm tất cả việc gì để sống và để đi”.
Tháng 7- 1911, Người đến cảng Mác-xây, sau đó qua nhiều nước ở châu Phi, châu
Mĩ, châu Âu, làm nhiều nghề từ rửa bát, dọn tàu, quét rác… Đặc biệt, Người đã
dừng chân khảo sát khá lâu ở ba đế quốc lớn nhất thời đó là Mĩ, Anh, Pháp. Với
những chuyến đi, khảo sát đó, lòng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc có những
chuyển biến mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình nâng lên thành sự đồng cảm
với nhân dân lao động, với các dân tộc bị áp bức.
Cũng qua đó, sự nhận biết của Người về diện mạo kẻ thù trở nên sâu sắc hơn,
không chỉ đối với thực dân Pháp, mà cả chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc nói
chung. Người rút ra một số kết luận cơ bản: ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn
bạo, độc ác; ở đâu người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và dù “màu da
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái
vô sản”.
Khoảng cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp. Tại đây người đã học tập,
rèn luyện trong cuộc đấu tranh của quần chúng lao động và giai cấp công nhân
Pháp, tham gia hoạt động trong Hội những người Việt Nam yêu nước, viết báo,
truyền đơn, tham gia đấu tranh đòi cho binh lính và thợ thuyền Việt Nam sớm
được hồi hương. Sống và làm việc trong phong trào công nhân Pháp, tiếp nhận ảnh
hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, tư tưởng của Người có sự chuyển biến
mạnh mẽ.

4



Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một Đảng tiến bộ chủ trương
chống lại các chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở các thuộc địa, là tổ
chức chính trị duy nhất ở Pháp theo đuổi khẩu hiệu: Tự do - Bình đẳng - Bác ái.
Ngày 18-6-1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn
Ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc xai Bản yêu sách của nhân dân An Nam, đòi chính
phủ Pháp và các nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình
đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Tuy không được chấp nhận nhưng
Bản yêu sách đã gây tiếng vang lớn và Người rút ra được “muốn được giải phóng,
các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người cảm thấy vô cùng phấn
khởi, tin tưởng và muốn nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi
đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta”. Sự kiện này đánh dấu Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con
đường giải phóng dân tộc đó là con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định:
“chỉ có chủ nghĩa xã hội , chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Cũng từ đây Người
hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Người nói: “Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, song học thuyết chân chính, cách mạng nhất vẫn là chủ
nghĩa Mác- Lênin”. Có thể nói nếu không có sự kiện tháng 7- 1920 này thì sẽ
không có sự kiện ngày 3-2-1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Ngày 25-12-1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua. Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng
sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước nhảy vọt trong
tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập
trường cộng sản. Người trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Như vậy, công lao lớn đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt
Nam là tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, đó là con đường Cách
mạng vô sản.
1.4. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức và trực tiếp sáng lập

Đảng Cộng sản Việt Nam (1920 - 1930)
a. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc
tích cực hoạt động và tiếp tục học tập, nghiên cứu lí luận cách mạng dân tộc ở
thuộc địa theo con đường cách mạng vô sản để truyền bá về trong nước nhằm
chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng tiên
phong ở Việt Nam. Quá trình chuẩn bị này được thông qua hoạt động của Người ở
Pháp, Liên Xô, Trung Quốc.
Ở Pháp (1920-1923):
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước Angiêri, Marốc…
lập ra Hội Liên Hiệp thuộc địa ở Pari nhằm tập hợp những người dân thuộc địa
5


sống trên đất Pháp, nghiên cứu tình hình chính trị, kinh tế của thuộc địa để soi
sáng cuộc đấu tranh vì quyền lợi nhân dân các nước thuộc địa. Người làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ, viết bài cho các báo Nhân đạo, đời sống
công nhân và đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925). Các sách
báo trên đã được bí mật chuyển về Việt Nam, giúp cho người Việt Nam hiểu rõ
được bản chất chủ nghĩa thực dân Pháp, hiểu được cách mạng tháng Mười Nga và
hướng theo chủ nghĩa Mác –Lênin.
Ở Liên Xô (1923-1924):
Tháng 6-1923, Người bí mật rời Pháp đi Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân
(10-1923) và được bầu vào Ban chấp hành Hội. Người ở lại Liên Xô, vừa nghiên
cứu, học tập, vừa viết bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô, tạp chí
Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng sản.
Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản họp lần thứ V (1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày
lập trường, quan điểm của mình về vị trí chiến lược của cách mạng các nước thuộc
địa, về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào

cách mạng ở các nước thuộc địa, về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông
dân ở các nước thuộc địa.
Như vậy, thời kì hoạt động ở Liên Xô là thời kì Người tiếp tục phát triển và
hoàn chỉnh thêm tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc thông qua nghiên cứu
thực tiễn và học tập trong sách báo Mácxit.
Có thể nói, qua hoạt động ở Pháp và Liên Xô, Người đã rút ra được những quan
điểm về chiến lược quan trọng: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa phải gắn liền với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận
của cách mạng vô sản thế giới, có quan hệ với cách mạng vô sản chính quốc.
Ở Trung Quốc (1924-1927):
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) để trực tiếp
đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận cách mạng giải
phóng dân tộc vào Việt Nam. Người đã lựa chọn một số thanh niên tích cực trong
tổ chức Tâm tâm xã để tổ chức thành nhóm Cộng sản đoàn (2-1925). Với nòng cốt
này, tháng 6-1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Người trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện đào tạo cán bộ, sáng lập báo Thanh
niên. Các bài giảng của Người được tập hợp in thành cuốn Đường Kách mệnh.
Đầu năm 1927, tác phẩm Đường Kách mệnh được xuất bản. Mục đích của tác
phẩm là nói cho đồng bào ta rõ: vì sao chúng ta muốn sống thì phải làm cách
mệnh? Vì sao cách mệnh là việc chung của cả dân chứ không phải việc của một
hai người? đem lịch sử cách mạng các nước làm gương cho chúng ta soi. Đem
phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. Ai là bạn ta? Ai là thù ta? Cách mệnh
thì phải làm như thế nào? Đường cách mệnh là văn kiện lí luận cách mạng đầu tiên
đặt cơ sở cho việc hình thành đường lối cách mạng Việt Nam sau này.
Báo Thanh niên và sách Đường Kách mệnh đã trang bị lí luận giải phóng dân
tộc cho cán bộ của Hội để tuyên truyền cho giai cấp công nhân và các tầng lớp
6



nhân dân Việt Nam. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên từ đó xây dựng nhiều tổ
chức cơ sở trong nước, phát triển nhanh các hội viên, nhất là từ khi có chủ trương
“vô sản hoá” (1928). Trên cơ sở hoạt động của tổ chức này, nhiều cán bộ cách
mạng đã được đào tạo bài bản, trang bị vững chắc về lí luận cách mạng, trình độ
giác ngộ được nâng lên. Đó là điều kiện cần thiết để một chính đảng cộng sản xuất
hiện ở Việt Nam.
b. Nguyễn Ái Quốc đấu tranh trực tiếp để dẫn tới sự ra đời của Đảng cộng sản
Việt Nam
Với những hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, năm 1929
phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân yêu nước
khác theo con đường cách mạng vô sản đã phát triển mạnh mẽ. Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên không còn đáp ứng được vai trò lãnh đạo cách mạng nên dẫn đến
sự xuất hiện của 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng
sản đảng và Đông Dương cộng sản liên đoàn. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản là
một xu thế khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Nhưng các
tổ chức đó hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của nhau, thậm chí công
kích nhau làm cho phong trào cách mạng Việt Nam có nguy cơ bị chia rẽ lớn.
Sớm nhìn ra yêu cầu của lịch sử là cần phải có một Đảng duy nhất lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc liền rời khỏi Xiêm sang Trung Quốc để
thống nhất các tổ chức cộng sản. Với cương vị là phái viên của Quốc tế cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6-1-1930 tại Cửu Long (Hương CảngTrung Quốc).
Nguyễn Ái Quốc đã phê phán những quan điểm sai lầm của mỗi tổ chức cộng
sản riêng rẽ và nêu chương trình hội nghị. Với uy tín và năng lực của Người, Hội
nghị đã thảo luận và nhất trí với ý kiến thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị cũng thông qua
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Đây là cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp. Độc lập, tự do là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
Nhân dịp Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi công nhân, nông dân,

binh lính, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức bóc lột
Như vậy từ năm 1911- 1930 Nguyễn Ái Quốc có hai công lao lớn đối với cách
mạng Việt Nam là: Tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam và sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng ra đời là một bước ngoặt
vĩ đại trong lịch sử, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã có Đảng với đường lối
đúng đắn của mình lãnh đạo. Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính
quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt về sau trong lịch sử dân tộc Việt
Nam.
2. Thời kì 1930 - 1945
7


Nội dung kiến thức sử dụng trong phần này chủ yếu là hoạt động của Người từ
năm 1941-1945 để làm rõ vai trò của Người đối với thắng lợi của cuộc cách mạng
tháng Tám năm 1945.
2.1. Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương Đảng
Sau nhiều năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái
Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Sau một thời gian chuẩn bị, Người
chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Pác Bó (Cao Bằng)
từ ngày 10-19/5/1941.
Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng
dân tộc, đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi giai cấp, nhằm đoàn kết lực lượng
toàn dân tộc vào nhiệm vụ chống đế quốc: tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác
khẩu hiệu ruộng đất, nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, tiến tới thực hiện người cày
có ruộng. Hội nghị xác định hình thái cuộc khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi
nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và kết luận: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm
vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã hoàn
chỉnh chủ trương đấu tranh được đề ra từ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939,
nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc.

2.2. Người cùng Trung ương Đảng xây dựng, chuẩn bị lực lượng cho cách mạng
tháng Tám
Về lực lượng chính trị: Tại Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương
Đảng, Người đã sáng lập ra mặt trận Việt Minh nhằm “liên hiệp hết thảy các giới
đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt
tôn giáo, xu hướng chính trị, đặng mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”.
Về lực lượng vũ trang: Ở Cao Bằng, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Ái
Quốc, phong trào Việt Minh phát triển mạnh. Trên cơ sở đó, những đội tự vệ vũ
trang, du kích được thành lập. Năm 1941, Người quyết định thành lập đội tự vệ vũ
trang để chuẩn bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và thúc đẩy cơ
sở chính trị phát triển. Người còn tổ chức các lớp huấn luyện chính trị, quân sự,
biên soạn các tài liệu về cách đánh du kích, kinh nghiệm du kích Nga, kinh
nghiẹm du kích tàu…
Ngày 22-12-1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân được thành lập. Theo Người thì đây là “đội quân đàn anh… tuy
lúc đầu quy mô nhỏ nhưng tiền đề của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải
phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”. Tổ chức
này chính là tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Ngày 15/5/1945, Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
Về xây dựng căn cứ địa cách mạng: Năm 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ái
Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa dựa trên cơ sở lực lượng chính trị
được tổ chức và phát triển.
Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào chọn Tân Trào là trung tâm chỉ đạo
kháng chiến cả nước.
8


Ngày 4-6-1945, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, khu giải phóng chính thức được
thành lập gọi là khu giải phóng Việt Bắc, gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc

Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc các
tỉnh lân cận. Tân Trào được chọn là thủ đô khu giải phóng. Uỷ ban chỉ huy lâm
thời khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng Việt Bắc là hình ảnh thu nhỏ
của nước Việt Nam mới.
Từ năm 1942 - 1944, Người sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách
mạng của Việt Nam và lực lượng Đồng minh. Sau đó đến tháng 2-1945, Người lại
đi Côn Minh cho đến tháng 5-1945 thì về nước. Thời gian này Người đã tranh thủ
được sự ủng hộ và giúp đỡ của Đồng minh đối với cách mạng Việt Nam.
2.3. Người cùng Trung ương Đảng dự đoán chính xác thời cơ, phát động Tổng
khởi nghĩa và trực tiếp lãnh đạo nhân dân giành chính quyền.
Ngày 13-8-1945, ngay khi nhận được những thông tin về việc Nhật Bản sắp
đầu hàng Đồng minh, Người cùng Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã lập
tức thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc, ra “Quân lệnh số 1”, chính thức phát
lện Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Người khẳng định: lúc này thời cơ đã đến, dù
phải hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành
cho được độc lập.
Ngày 14-15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào đã thông qua
kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan
trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền.
Từ ngày 16-17/8/1945, Hồ Chí Minh dự đại hội Quốc dân được triệu tập tai tân
Trào. Đại hội đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10
chính sách của Việt Minh, cử ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Người
làm Chủ tịch. Thay mặt Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Người đọc lời
tuyên thệ trong buổi ra mắt quốc dân “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã
đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945, Đưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh,
nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền trong cả nước. Ngày 30-8-1945, vua
Bảo Đại thoái vị, chế độ phong kiến Việt Nam sụp đổ.
Ngày 28-8-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Uỷ ban Dân
tộc giải phóng Việt Nam từ Tân Trào về Hà Nội. Người đã cải tổ Uỷ ban Dân tộc

giải phóng Việt Nam thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Trong thời gian này Người soạn thảo Tuyên ngôn độc lập, chuẩn bị mọi công việc
để Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể
quốc dân và thế giới sự thành lập của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Bản
Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc và nêu rõ quyết
tâm bảo vệ độc lập của nhân dân ta.
Như vậy, cách mạng tháng Tám thành công là một biến cố vĩ đại trong lịch sử
dân tộc ta, mở ra kỉ nguyên mới độc lập tự do, nhân dân lao động lên làm chủ đất
9


nước, kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội. Nhân tố quyết
định thắng lợi của cuộc cách mạng này là do có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng,
đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. Thời kì 1945-1954
3.1.Từ năm 1945-1946:
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng
trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, phải đối phó với rất nhiều kẻ thù: giặc ngoại
xâm và nội phản, giặc đói, giặc đốt và khó khăn về tài chính.
Trước tình hình đó, Người đã cùng Đảng, Chính phủ đề ra những biện pháp giải
quyết khó khăn
Về xây dựng và củng cố chính quyền: Ngày 8-9-1945, Hồ Chủ tịch đứng đầu
Chính phủ lâm thời đã công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước. Ngày 2-3-1946,
tại phiên họp đầu tiên của Quốc hội, Hồ Chí Minh đã đứng ra thành lập Chính phủ
liên hiệp kháng chiến, phụ trách Uỷ ban dự thảo Hiến pháp.
Về kinh tế - tài chính: Người đứng đầu Chính phủ lâm thời kêu gọi cả nước
“nhường cơm sẻ áo”, lập “Hũ gạo cứu đói”, tổ chức “ngày đồng tâm”… Người
kêu gọi “ tăng gia sản xuất” để giải quyết nạn đói.

Người đứng đầu Chính phủ phát động phong trào “Tuần lễ vàng”, xây dựng
“quỹ độc lập”. Cuối năm 1946, Chính phủ quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam
trong cả nước
Về văn hoá- giáo dục: Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành
lập Nha bình dân học vụ- kêu gọi nhân dân cả nước tham gia phong trào xoá nạn
mù chữ
Về đấu tranh chống giặc ngoại xâm và nội phản: Khi Pháp trở lại xâm lược Nam
Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính Phủ đã huy động lực
lượng cả nước chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến. Tháng 21946, Người đã thay mặt Chính phủ tặng đồng bào miền Nam danh hiệu vẻ vang
“Thành đồng Tổ Quốc”.
Để tránh phải đối phó một lúc với nhiều kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với Pháp bản Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) để đẩy 20
vạn quân Trung Hoa Dân Quốc cùng tay sai ra khỏi nước ta, có thêm thời gian để
chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Sau Hiệp định Sơ bộ, Pháp vẫn gây xung đột vũ trang ở Nam Bộ, âm mưu tách
Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, Người đã viết thư cho đồng bào Nam Bộ, khẳng định
“Đồng bào Nam Bộ là dân Việt Nam, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân
lí đó không bao giờ thay đổi”. Ngày 14 - 9 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với
Pháp bản Tạm ước, tạo điều kiện cho ta kéo dài thời gian xây dựng, củng cố lực
lượng bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp.
Như vậy, bằng những biện pháp, chủ trương, sách lược đúng đắn, chủ tịch Hồ
Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính phủ đã chèo lái con thuyền cách mạng
Việt Nam vượt qua mọi thác gềnh, khó khăn, giữ vững được chính quyền cách
mạng non trẻ.
10


3.2. Từ năm 1946 - 1954
Do thực dân Pháp bội ước, ngày 18 - 19/12/1946, dưới sự chủ toạ của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Hội nghị bất thường mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng

cộng sản Đông Dương họp, quyết định phát động cả nước kháng chiến chống thực
dân Pháp. Tối ngày 19-12-1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đây là một bản cương
lĩnh cứu nước mang tính khái quát hoá cao, chứa đựng tư tưởng, quan điểm,
đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
giống như lời hiệu triệu, một tiếng kèn xung trận, khích lệ tinh thần chống Pháp
của nhân dân ta.
Người đã cùng Trung ương Đảng đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn: Kháng
chiến toàn dân. Toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của
quốc tế.
Thực hiện đường lối này, Người đứng đầu Đảng ta lãnh đạo nhân dân kháng
chiến chống Pháp giành được nhiều thắng lợi toàn diện:
Về chính trị: Người đứng đầu Chính phủ quyết định tổ chức bầu cử Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp. Tháng 6-1948, Người phát
động phong trào thi đua yêu nước toàn quốc, lôi cuốn mọi lực lượng tham gia thực
hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc.
Tháng 2-1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có bản báo cáo quan trọng : báo cáo chính trị, tổng kết kinh nghiệm của
Đảng qua những chặng đường lịch sử. Sau đó Người được bầu làm chủ tịch Đảng.
Tháng 3-1951: Người dự lễ thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt,
Người được bầu làm chủ tịch danh dự Mặt trận Liên Việt.
Về ngoại giao: Tháng 1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng đặt qua
hệ ngoại giao với các nước. Ngay trong tháng 1-1950, các nước Liên Xô, Trung
Quốc và sau đó là các nước trong phe xã hội chủ nghĩa lần lượt đặt qua hệ ngoại
giao với nước ta. Điều đó khẳng định uy tín của nước ta trên trường quốc tế, cũng
là điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến của ta tranh thủ được sự ủng hộ của bè
bạn quốc tế.
Về kinh tế: Người đứng đầu Chính phủ mở cuộc vận động sản xuất và thực
hành tiết kiệm (1952), lôi cuốn mọi ngành, mọi giới tham gia. đồng thời Chính
phủ cũng tiến hành phát động quần chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất

thu được nhiều kết quả
Về văn hoá - giáo dục: Người đứng đầu Chính phủ thực hiện cải cách giáo dục
theo phương châm: phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản xuất.
Thực hiện lời dạy của Người: Kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến,
các văn nghệ sĩ đã hăng hái thâm nhập mọi mặt của đời sống, chiến đấu và sản
xuất.
Về quân sự: Người đứng đầu Đảng ta đã đưa ra những chủ trương đúng đắn,
lần lượt giành các thắng lợi to lớn trên chiến trường như chiến dịch Việt Bắc, Biên
Giới, Điện Biên Phủ. đặc biệt với chiến thắng Điện Biên Phủ ta đã buộc thực dân
11


Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt
Nam.
Có thể nói cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta có ý nghĩa vô
cùng to lớn. Để làm nên thắng lợi này thì vai trò lãnh đạo của đảng, đứng đầu là
Chủ tich Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định nhất, thể hiện công lao to lớn của
Người đối với cách mạng nước ta.
4. Thời kì 1954 - 1969
Do đế quốc Mĩ và chính quyền Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ về
Việt Nam, nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã
hội khác nhau. Người đứng đầu Đảng ta đã xác định nhiệm vụ của cách mạng
nước ta: vừa phải hànn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế ở miền Bắc,
đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, vừa phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ
này được cụ thể hoá trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960).
Đây là đường lối đúng đắn kết hợp và giương cao cùng một lúc hai ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thể hiện sự sáng tạo của Đảng ta đứng đầu là chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, nhân dân hai miền Nam- Bắc đã

chiến đấ, lao động và giành được nhiều thành tựu
Ở miền Bắc: ta đã hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn
vết thương chiến tranh cải tạo qua hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế- xã hội,
thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, là cho bộ mặt miền Bắc thay đổi. Trong
Hội nghị chính trị đặc biệt, tháng 3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trong 10
năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử
dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới.”
Khi Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Để động viên tinh thần chiến
đấu của nhân dân, Người khẳng định: Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm,
20 năm hoặc lâu hơn thế nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp
có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ, không có gì quý hơn
độc lập tự do. đến ngày thắng lợi, ta sẽ xây dựng đất nước đoàng hoàng hơn, to
đẹp hơn”. Lời của Người góp phần giúp nhân dân Miền Băc thêm quyết tâm chiến
đấu đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ, buộc chúng phải tuyên bố ngừng
ném bom miền Bắc.
Trong thời gian này, Người đứng đầu Đảng ta chỉ đạo nhân dân miền Bắc thực
hiện nghĩa vụ hậu phương với miền Nam. Miền Bắc đã đưa vào chiến trường miền
Nam hàng vạn cán bộ, bộ đội, hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men…
Đây chính là tiềm lực vật chất to lớn góp phần tạo nên sức mạnh cho nhân dân
miền Nam chiến đấu đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mĩ.
Ở miền Nam: Dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhân dân miền Nam đã chiến đấu dũng cảm lần lượt đánh bại các chiến lược chiến
tranh của đế quốc Mĩ như: Chiến lược chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ,
Việt Nam hoá chiến tranh…
12


Ngày 2-9-1969, giữa lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của nhân dân ta
đang tiếp diễn thì Người qua đời để lại niềm tiếc thương cho toàn thể dân tộc ta.
Thực hiện di chúc thiêng liêng của Người, nhân dân ta đã quyết tâm chiến đấu

đánh cho Mĩ cút, đánh cho Nguỵ nhào, giải phóng hoàn toàn đất nước.
Có thể nói, Hồ chủ tịch có công lao rất lớn đối với dân tộc ta. Cả cuộc đời,
Người đã cống hiến, hi sinh cho dân tộc. Công lao, lời dạy của Người luôn in đậm
trong trái tim của mỗi con người Việt Nam. Người là tấm gương sáng về phẩm
chất, đạo đức để muôn đời thế hệ Việt Nam noi theo.

13


II. Hệ thống các dạng bài tập
1.Dạng câu hỏi trắc nghiệm
Đối với dạng đề này đòi hỏi học sinh phải có kiến thức chắc, chính xác, khả
năng nhận biết và tư duy nhanh. Để làm tốt phần bài tập này học sinh phải đọc
nhanh câu hỏi, trả lời ngắn gọn nhất nội dung kiến thức cơ bản, tránh diễn đạt dài
dòng, không cần phân tích.
VD1. Khoanh tròn một chữ cái in hoa ở câu trả lời đúng
- Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc có hoạt động quan trọng
A. Gửi tới Hội nghị Vécxai bản yêu sách 8 điểm
B. Xác định con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam
C. Xuất bản tờ báo Người cùng khổ
D. Tham gia Đảng Xã hội Pháp
-> Đáp án B
- Cuốn sách gồm tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn
luyện chính trị ở Quảng Châu mang tên:
A. Con rồng tre
B. Đường Kách mệnh
C. Bản án chế độ thực dân Pháp
D. Người cùng khổ
-> Đáp án B
VD2. Điền những nội dung còn thiếu theo mẫu về quá trình hoạt động của Nguyễn

Ái Quốc (1911-1945)
Thời gian
Nội dung sự kiện
5-6-1911
1920
1921
6-1923
11-11-1924
6-1925
1927
6-1-1930
28-1-1941
19-5-1941
22-12-1944
2-9-1945
Gợi ý trả lời
Thời gian
Nội dung
5-6-1911
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước
1920
Nguyễn Ái Quốc đọc Bản sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về
những vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê nin
Người bỏ phiếu tán thành ra nhập Quốc tế Cộng sản và thành
14


1921
6-1923
11-11-1924

6-1925
1927
6-1-1930
28-1-1941
19-5-1941
22-12-1944
2-9-1945

lập Đảng Cộng sản Pháp
Người sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari
Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô
Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc)
Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Tác phẩm Đường Kách mệnh được xuất bản
Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị thành lập Đảng họp tại
Hương Cảng (Trung Quốc)
Nguyễn Ái Quốc về nước
Người sáng lập Mặt trận Việt Minh
Thành lập đội VNTTGPQ
Người đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà

2. Dạng câu hỏi sự kiện theo hướng bổ dọc vấn đề
Dạng đề này học sinh phải có kiến thức hệ thống toàn diện về một vấn đề. Hoạt
động của Nguyễn Ái Quốc được viết theo trình tự thời gian nên học sinh làm bài
phải biết phân loại sự kiện phù hợp với yêu cầu của đề bài.
VD: Vì sao khi ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, Nguyễn Ái Quốc chọn nước
Pháp là nước đầu tiên để Người đặt chân đến? Những nét chính về quá trình hoạt
động của Người ở đất nước này?
Gợi ý trả lời:

- Nguyên nhân:
Pháp là nơi có nền KHKT tiên tiến, là nơi giành thắng lợi trong cuộc cách mạng
tư sản Pháp năm 1789, đây là cuộc CMTS triệt để nhất ở Châu Âu.
Pháp là nơi nổi tiếng với khẩu hiệu tự do- bình đẳng- bác ái. Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc muốn đến tìm hiểu xem nước Pháp làm thế nào rồi sẽ giúp đồng bào mình
- Quá trình hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp:
+ Ngày 5-6-1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Đầu tiên Người đến
Pháp, hoạt động trong phong trào công nhân Pháp
+ Khoảng cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp. Tại đây người đã nghiên
cứu, học tập Cách mạng tháng Mười Nga, tư tưởng của Người có sự chuyển biến
mạnh mẽ.
+ Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp là tổ chức chính trị duy nhất ở
Pháp theo đuổi khẩu hiệu: Tự do - Bình đẳng - Bác ái.
+ Ngày 18-6-1919, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc xai Bản yêu sách của
nhân dân An Nam đòi các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự
quyết của dân tộc Việt Nam.
+ Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin.
15


+ Ngày 25-12-1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua. Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng
sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
+ Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước Angiêri, Marốc…
lập ra Hội Liên Hiệp thuộc địa ở Pari. Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo
Người cùng khổ, viết bài cho các báo Nhân đạo, đời sống công nhân và đặc biệt là
tác phẩm bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
Lưu ý: Học sinh có thể làm tương tự đối với những câu hỏi như: Nêu hoạt động
của Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc từ năm 1919 đến năm 1930.

3. Dạng câu hỏi phân tích một sự kiện, một vấn đề
Đây là dạng câu hỏi phân tích cụ thể một sự kiện, vấn đề. Khi làm bài học sinh
trước hết phải nêu được nội dung sự kiện, vấn đề đó, sau đó phân tích làm nổi bật
ý nghĩa của sự kiện, vấn đề
VD1. Tại sao nói năm 1920 là một mốc quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc?
Gợi ý trả lời
- Nêu hoạt động trong năm 1920 của Nguyễn Ái Quốc:
+ Đọc bản sơ thảo Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin
+ Tham gia Đại hội của Đảng xã hội Pháp và sáng lập đảng Cộng sản Pháp
- Ý nghĩa:
+ Tìm ra con đường GPDT đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là con đường cách
mạng vô sản
+ Người chuyển từ lập trường yêu nước sang lập trường cộng sản, là người cộng
sản đầu tiên của Việt Nam.
VD2: Nêu hoàn cảnh ra đời, nội dung, ý nghĩa của Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời
- Hoàn cảnh ra đời: Hành động bội ước của Pháp… Ban Thường vụ Trung ương
Đảng quyết định phát động cả nước kháng chiến. Tối ngày 19-12-1946, Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch ra đời
- Nội dung:
+ Nêu nguyên nhân chúng ta phải kháng chiến…Chúng ta muốn hoà bình, chúng
ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn
tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
+ Khẳng định quyết tâm kháng chiến của nhân dân ta: thà hi sinh tất cả chứ không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ
+ Phát động nhân dân đấu tranh: Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người
trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp…

- Ý nghĩa: Đây là một bản cương lĩnh cứu nước mang tính khái quát hoá cao, chứa
đựng tư tưởng, quan điểm, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Lời kêu
16


gọi toàn quốc kháng chiến giống như lời hiệu triệu, một tiếng kèn xung trận, khích
lệ tinh thần chống Pháp của nhân dân ta.
* Lưu ý: Học sinh có thể áp dụng làm tương tự với câu hỏi về bản Tuyên ngôn độc
lập…
4. Dạng câu hỏi liệt kê sự kiện, vấn đề rồi đánh giá ý nghĩa của tất cả các sự kiện
nói chung hoặc phân tích ý nghĩa của một sự kiện, vấn đề nói riêng
Khi làm dạng đề này học sinh trước hết phải liệt kê sự kiện theo yêu cầu của câu
hỏi, sau đó dùng kiến thức tổng hợp, dẫn chứng cụ thể của sự kiện, vấn đề đó để
phân tích
VD1: Trình bày những hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian
từ 1920 đến năm 1930. Đánh giá sự đóng góp của những hoạt động đó đối với
phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
Gợi ý trả lời
- Trình bày những hoạt động chính của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1920 - 1930
- Đóng góp của những hoạt động đó:
+ Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
+ Tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ
chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản ở Việt Nam.
+ Xây đắp mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế
giới
+ Sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và vạch ra những vấn đề cốt lõi trong đường
lối cứu nước
VD2: Nêu những cống hiến to lớn của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình hoạt động
cứu nước, cứu dân từ năm 1911-1930. Phân tích một cống hiến to lớn nhất
Gợi ý trả lời

- Kể các cống hiến của Nguyễn Ái Quốc thời gian này
+ Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
+ Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng CSVN
+ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập Đảng CSVN
- Phân tích cống hiến to lớn nhất:
+ Cống hiến to lớn nhất trong quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc thời gian
này là tìm ra con đường cứu nước đúng đắn - con đường cách mạng vô sản
+ Nêu sự kiện năm 1920
+ Từ việc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp tục hoạt
động truyền bá con đường cách mạng vô sản vào Việt Nam, trên cơ sở chuẩn bị về
tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới
thành lập Đảng - nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
5. Dạng câu hỏi tổng hợp
Vì đây là dạng câu hỏi tổng hợp vấn đề nên khi làm bài học sinh cần nêu rõ các
luận điểm rôi dẫn chứng sự kiện phù hợp với các luận điểm đó, học sinh nên viết ở
mức độ khái quát cao, tránh quá dài dòng.
17


VD1: Phân tích công lao của Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Gợi ý trả lời
Cần làm sáng tỏ các công lao
- Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
- Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng CSVN
- Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập Đảng CSVN
VD2: Bằng những sự kiện lịch sử có chọn lọc từ năm 1941 đến năm 1945, hãy
làm sáng tỏ vai trò của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của Cách

mạng tháng Tám năm 1945?
Gợi ý trả lời:
- Xác định đường lối và phương pháp đấu tranh cách mạng: Nguyễn Ái Quốc chủ
trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương đảng giương cao hơn nữa ngọn
cờ giải phóng dân tộc, đồng thời đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang.
- Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị lực lượng chính trị: sáng lập ra Mặt trận Việt Minh
với các hội “cứu quốc”, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp và rèn luyện
lực lượng chính trị quần chúng.
- Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng: Chỉ thị thành lập Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân, chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa, chỉ thị
thành lập Khu giải phóng Việt Bắc.
- Người cùng Trung ương Đảng đánh giá chính xác thời cơ, chớp đúng thời cơ,
kiên quyết phát động và lãnh đạo toàn dân nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi, lập nên nước Việt Nam DCCH (2-9-1945).
* Lưu ý: Học sinh có thể làm tương tự đối với các câu hỏi về vai trò của Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam từ năm 1945-1954, 19541969 ….
6. Một số bài tập tự giải
Câu 1. Tại sao nói Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và
tổ chức để tiến tới sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam? Những quan điểm về
chiến lược giải phóng dân tộc được Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị trong những năm
1920-1924 là gì?
Câu 2. Hãy làm rõ công lao vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1945. Theo anh (chị) công lao nào
lớn nhất? Vì sao?
Câu 3. Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết mối quan hệ Việt - Pháp bằng
con đường hoà bình từ ngày 6- 3 - 1946 đến trước ngày 19 - 12 - 1946?
Câu 4. Bằng những kiện lịch sử hãy làm sáng tỏ công lao của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp (1946 - 1954)

18



D. KẾT LUẬN
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng việc giảng dạy theo chuyên đề cho học
sinh lớp 12 là một trong những phương pháp giảng dạy phục vụ cho việc học tập
của học sinh trong ôn thi đại học – Cao đẳng. Vì vậy tôi mạnh dạn viết chuyên đề
này và qua kiểm nghiệm đã thu được kết quả: học sinh hiểu bài nhanh hơn, nhận
biết được các dạng đề và giải các đề thi, kết quả thi đại học của các em đạt điểm
trung bình cao
Đối với chuyên đề: Hoạt động và vai trò của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
đối với cách mạng Việt Nam từ năm 1911-1969 tôi rất mong được sự đóng góp ý
kiến của các thầy, cô, bạn bè đồng nghiệp để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Tôi
xin chân thành cảm ơn!

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 2 - NXB Giáo dục
2. Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 3 - NXB Giáo dục
3. Bộ đề thi Lịch sử- NXB ĐHSP
4. Sách giáo khoa Lịch sử 11 - NXB Giáo dục
5. Sách giáo khoa Lịch sử 12 - NXB Giáo dục
6. Hướng dẫn giải các dạng bài tập từ các đề thi quốc gia - NXB ĐHQG Hà Nội
7. Đề kiểm tra theo chuẩn kiến thức, kĩ năng Lịch sử 12 - NXB Giáo dục
8. Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta - NXB Lao động
9. Tuyển tập 36 bộ đề thi lịch sử - NXB ĐHSP
10. Kiến thức cơ bản môn Lịch sử - NXB ĐHSP
Vĩnh tường, ngày 7 - 3 - 2014
Người viết


Vũ Thị Nhung

20



VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ 1911 – 1954

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

Chuyên đề
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH TRONG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ 1911 – 1954

Người thực hiện: Lê Thị Cúc
Tổ trưởng: Tổ : Sử - Sinh – TD – CN
Trường THPT Đồng Đậu – Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Thời lượng : 8 tiết
Đối tượng : Học sinh lớp 12 ôn thi ĐH - CĐ

A.Mục tiêu của chuyên đề.
1. Kiến thức
- Trên cơ sở kiến thức học sinh đã học trong chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp
11, 12 (được biên soạn qua nhiều thời kỳ, nhiều chương, nhiều bài, học sinh khó
theo dõi. Nay hệ thống toàn bộ những chương trình đó thành một chuyên đề),
chuyên đề nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức, nắm vững kiến thức một cách cơ
bản, sâu sắc, hệ thống, toàn diện về công lao Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đối với
cách mạng Việt Nam từ 1911-1954
- Đáp ứng tốt yêu cầu của học sinh lớp 12 dự các kỳ thi tuyển sinh vào các trường
ĐH- CĐ.
2. Kỹ năng
- Học sinh được rèn luyện kỹ năng bộ môn, sử dụng bản đồ, lược đồ, tranh ảnh lịch
sử, kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá sự kiện lịch sử.
- Kỹ năng trả lời câu hỏi, phân tích đề, làm bài thi trắc nghiệm và tự luận.
3. Tư tưởng
Giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, tự hào dân tộc, biết ơn và kính yêu lãnh tụ
chủ tịch Hồ Chí Minh.

B. Cấu trúc chuyên đề

Lê Thị Cúc

1

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

* Để làm rõ quá trình hoạt động và công lao Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối
với cách mạng Việt Nam, chuyên đề cấu trúc và chia làm 3 thời kỳ.
- Thời kỳ 1911 đến 1930: NAQ ra đi tìm đường cứu nước và đến với chủ nghĩa Lênin và là quá trình chuẩn bị về chính trị tư tưởng tổ chức, tiến tới thành lập Đảng
CSVN.
- Thời kỳ 1941 đến 1945: NAQ về nước lãnh đạo cách mạng, giành chính quyền
cách mạng vào tháng Tám 1945.
- Thời kỳ 1945 đến 1954: Người lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thù trong giặc
ngoài những năm đầu sau cách mạng thành công và lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống Pháp, giành thắng lợi vào 1954.
* Mỗi thời kỳ biên soạn làm hai mục:
- Mục 1: Là nội dung kiến thức của chuyên đề.
- Mục 2: Câu hỏi và bài tập, nhằm củng cố kiến thức của mỗi thời kỳ vừa học
Trên cơ sở kiến thức của mỗi thời kỳ học sinh sẽ nắm được kiến thức tổng hợp của
cả chuyên đề.
* Kiến thức sử dụng
- Là kiến thức cơ bản và nâng cao của sách giáo khoa lịch sử lớp 11 và 12, các tài
liệu ôn thi tuyển sinh vào ĐH – CĐ của Bộ giáo dục đào tạo và một số tài liệu lịch
sử có liên quan đến nội dung của chuyên đề
* Hệ thống phương pháp
Là phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá sự kiện, kết hợp trình bày
miệng với sử dụng đồ dùng trực quan, thiết bị dạy học

C. Nội dung chuyên đề.
( chuyên đề được cấu trúc và trình bày qua 3 thời kỳ sau)
I.Thời kỳ 1911 – 1930.
NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1- Quá trình đi tìm đường cứu nước( Hoàn cảnh lịch sử)
2- Quá trình chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
3- Sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam
A. Nội dung
1. Hoàn cảnh lịch sử.( 1911 – 1920)
Đầu thế kỷ XX, Pháp lập nền thống trị, tăng cường áp bức bóc lột nhân dân,
đời sống nhân dân cực khổ. Nhiều phong trào đấu tranh nổ ra nhưng lần lượt thất
bại, như phong trào Cần Vương, phong trào Đông du, phong trào Duy Tân, vì thiếu
Lê Thị Cúc

2

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

đường lối đúng đắn.Giai cấp vô sản mới hình thành chưa đảm nhận sứ mệnh lịch sử
của mình trong công cuộc giải phóng dân tộc. Tình hình phong trào cứu nước chống
Pháp của nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ trong tình trạng “ dường như trong đêm tối
không có đường ra”. Vì vậy yêu cầu khách quan của xã hội Việt nam lúc này là tìm
ra con đường cứu nước mới giải phóng dân tộc.
Trên thế giới lúc này chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc, sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc ngày càng gia tăng thì tình cảnh nhân dân thế
giới càng thêm khốn khổ. Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản ở các nước tư
bản , đế quốc, phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân thuộc địa và phụ thuộc
không ngừng nổ ra. Tuy nhiên chưa có sự liện kết đấu tranh trong phong trào giải
phóng dân tộc thế giới , mối quan hệ giữa phong trào cách mạng ở chính quốc và
thuộc địa chưa thường xuyên và chặt chẽ. Trong điều kiện lịch sử dân tộc và thế
giới ấy và trong cả quá trình lịch sử lâu dài của nhân dân Việt Nam, nguyễn Ái
Quốc đã xuất hiện trở thành con đẻ của dân tộc của thời đại.
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890, quê xã Kim Liên, huyện Nam Đàn,
Tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình trí thức yêu nước, lớn lên ở một miền quê
giàu truyền thống đấu tranh quật khởi. Từ rất sớm Nguyễn Ái Quốc đã có chí đánh
đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Người quyết tâm ra đi tìm con đường cứu
nước mới giải phóng dân tộc.
+ Ra đi tìm đường cứu nước.
Ngày 5/6/1911, với tên gọi mới là Văn Ba, người xin làm phụ bếp cho một tàu
buôn Pháp là tàu Đô đốc LATUSƠ TƠ RÊ VIN, rời bến cảng nhà Rồng ra đi tìm đường
cứu nước. Khác với các thế hệ cha anh hướng về Trung Quốc và Nhật bản, Người
chọn con đường cứu nước sang phương Tây. Vì theo Người sang phương Tây để tìm
hiểu xem các nước đó làm như thế nào trở nên độc lập hùng cường, rồi trở về cùng
đồng bào đánh đuổi Đế quốc Pháp, giải phóng dân tộc.
Ngày 6/ 7/ 1911, Người cập cảng MácXây Pháp. Năm 1912, Người tiếp tục
làm thuê cho một tàu buôn khác, để đi Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Tuy ni di, An giê
ri. Cuối năm 1912, Người đi Mĩ, cuối năm 1913, từ Mĩ trở về Anh, năm 1917,
Người từ Anh trở lại Pháp.
Đây là quá trình Người khảo sát cách mạng và rút ra kết luận quan trọng: Ở đâu bọn
Đế quốc, Thực dân cũng tàn ác, ở đâu người lao động cũng bị áp bức dã man.

Lê Thị Cúc

3

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

Năm 1917, khi Người từ Anh trở lại Pháp, giữa lúc đó Cách mạng Tháng
Mười Nga thành công, phấn khởi, tin tưởng Người quyết tâm đi theo con đường
Cách mạng tháng Mười.
Năm 1919, Người ra nhập Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, Người gửi bản
yêu sách 8 điểm tới hội nghị Véc xai đòi quyền tự do bình đẳng và quyền tự quyết
cho dân tộc Việt Nam. Tuy không được chấp nhận, song bản yêu sách đã gây được
tiếng vang lớn đối với trong và ngoài nước.
+ Đến với chủ nghĩa Mác- Lê-nin
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản sơ thảo Luận cương của Lê -nin về
các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Luận cương giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định con
đường giành độc lập tự do cho nhân dân Việt Nam.
Tháng 12/1920, tại Đại hội XIII của Đảng xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán
thành ra nhập Quốc tế Cộng sản và thành lập Đảng cộng sản Pháp. Trở thành người
Cộng sản Việt nam đầu tiên, đồng thời trở thành một chiến sĩ Cộng sản quốc tế xuất
sắc.
Như vậy sau quá trình tìm đường cứu nước, từ 1911- 1920, Nguyễn Ái Quốc
có công lao to lớn thứ nhất là tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc đúng
đắn cho Cách mạng Việt Nam. Đó là con đường cách mạng vô sản.
Sự kiện này đã mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân
tộc ở Việt nam đầu thế kỷ XX.
2. Câu hỏi, bài tập.
Trắc nghiệm:
Câu 1. Bằng hiểu biết về những hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc từ 1911- 1920, hãy điền tên sự kiện, tương ứng với mốc thời gian ở bảng sau:
STT

Thời gian

1.
5/6/1
911
2.

NAQ ra đi tìm
đường cứu nước.
6/7/1911

Người cập cảng Mác Xây Pháp.

3.

18/6/1919

Người giử bản yêu sách tới hội nghị Véc xai .

4.

7/1920

Người tiếp xúc bản Luận cương của Lê-nin.

Lê Thị Cúc

Tên sự kiện

4

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

5.

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

12/1920
Người gia nhập
Quốc tế Cộng sản
và thành lập Đảng
Cộng sản Pháp.

Câu 2: Hãy cho biết mốc thời gian nào trong hoạt động tìm đường cứu nước của
Nguyễn Ái Quốc dưới đây đã mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối
giải phóng dân tộc ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
a. 5/6/1911
b. Năm 1917
c. 7/1920
d. 12/1920
Câu 3: Hãy khoanh tròn vào câu trả lời đúng về công lao lớn nhất của Nguyễn Ái
Quốc từ 1911- 1920.
a. Sang phương Tây tìm con dường cứu nước mới.
b. Gửi bản yêu sách đòi quyền tự do bình đẳng, quyền tự quyết cho DTVN.
c. Tiếp xúc bản Luận cương của Lê-nin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
d. Gia nhập Quốc tế Cộng sản, thành lập Đảng Cộng Sản Pháp.
Tự luận:
Câu 1: Trình bày những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1911 – 1920, và cho
biết công lao lớn nhất của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này là gì?
Gợi ý trả lời câu hỏi :
- Nêu hoàn cảnh lịch sử, hành trình tìm đường cứu nước.
- Những hoạt động ở nước ngoài, nêu các sự kiện năm 1917, 1919, 1920.
- Công lao lớn nhất là: tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc, con đường
cách mạng vô sản.
Câu 2. Quá trình tìm đường cứu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc diễn ra như thế nào?
Hướng dẫn trả lời
1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử
- .......
- Vît lªn h¹n chÕ cña nh÷ng sü phu yªu níc ®¬ng thêi nh: Phan Bội Châu - Phan
Châu Trinh - ngêi thanh niªn yªu níc NguyÔn TÊt Thµnh sím nhËn thøc "muèn ®¸nh
Lê Thị Cúc

5

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

®uæi kÎ thï ph¶i hiÓu râ kÎ thï ®ã". Tõ nhËn thøc ®ã ngêi ®· chän con ®êng sang ph¬ng T©y.
2. Quá trình đi tìm đường cứu nước đến với chủ nghĩa Mác Lênin
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Văn Ba đã rời cảng Nhà
Rồng trên con tàu vận tải La-tus-trê-vin để sang các nước phương Tây tìm con
đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc
- Sau một thời gian làm việc và tìm hiểu thực tế ở nhiều nước châu Á, Âu, Phi,
Mĩ, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra được những nhận thức bước đầu quan trọng về bạn,
về thù: nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù.. .
- Từ 1911 đến 1917, Người đến nhiều nước ở Châu Phi, Châu Mĩ và đến cuối
năm 1917 cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người trở về Pháp để tìm hiểu
cách mạng tháng Mười Nga và gia nhập Đảng xã hội Pháp.
- Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc cùng với các chí sĩ cách mạng Việt Nam
tại Pháp đã gửi tới Hội nghị Vec-xai “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đòi
Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc
Việt Nam. Nhưng bản yêu sách đã không được chấp nhận.
- Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa” của Lênin, từ đó Người tin theo Lênin và đứng về phía Quốc tế
cộng sản.
- Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ
phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế III, và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp,
Người trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên.
- Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin một con đường mới cho
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đó là Con đường cách mạng
vô sản.
Tóm lại với việc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến
con đường cứu nước giải phóng dân tộc – con đường cách mạng vô sản. Người
khẳng đinh:”Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài
con đường cách mạng vô sản”. Sự kiện này mở đường cho việc giải quyết cuộc
khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt nam trong suốt những năm cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Đây là công lao to lớn đầu tiên của Người đối với lịch sử dân
tộc.
Câu 3
Vượt qua tầm nhìn hạn chế của những người đương thời lãnh tụ NAQ là ngưới
Việt Nam yêu nước đầu tiên tìm thấy con đườngcứu nước đúng đắn cho dân tộc .
Hãy chứng minh ý kiến trên.
1. Tình hình VN cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
- 1858 Thực Dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhà Nguyễn đầu hàng, nước ta trở
thành thuộc địa của Thực Dân Pháp
Lê Thị Cúc

6

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

- Dưới ách thống trị của Thực Dân Pháp các phong trào đấu tranh của nhân
dân ta không ngừng phát triển ( Phong trào Cần Vương...)nổ ra mạnh mẽ từ 18851896 do các văn thân sĩ phu lãnh đạo cuối cùng thất bại
- Chính sách khai thác thuộc ssịa của Thực Dân Pháp làm cho xã hội Việt
Nam cuối thế kỉ XIX- XX có sự biến đổi, xuất hiện các tầng lớp và giai cấp mới.
- Khuynh hướng dân chủ tư sản ở phương tây và Trung quốc ảnh hưởng tới
giới sĩ phu yêu nước Việt Nam hình thành xu hướng cách mạng và cải lương ( Phan
Bội Châu, Phan chu Trinh) phong trào yêu nước của Tư sản và Tiểu tư sản bị thất
bại
- Do thiếu đường lối ( khủng hoảng về dường lối lãnh đạo), yêu cầu của lịch
sử là
+ Giải quyết 2 mâu thuẫn: * Dân tộc ( dân tộc Việt Nam với Đế quốc Pháp )
* Giai cấp ( Nông dân với địa chủ phong kiến)
+ Thực hiện 2 nhiệm vụ của cách mạng là: * Đánh đổ Đế quốc
* Lật đổ phong kiến
Các phong trào đấu tranh nổ ra đều thất bại là do không nhìn thấy hai vấn đề
trên
- Nguyễn Ái Quốc là người đấu tiên nhìn thấy hạn chế của phong trào yêu
nước Việt Nam thời kì đó. Vì vậy Người quyết tâm ra đi tìm đương cứu nước.
2. Là người tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc đúng đắn nhất
- Giới thiệu qua tiểu sử
- 1911 đi tìm đường cứu nước.............................Từ đó rút ra tư tưởng quan
trọng “ Nhân dân ở đâu cũng là bạn, Đế quốc ở đâu cũng là thù
- 1919.......
- 1920 đọc luận cương của Lênin, tán thành quốc tế III, sáng lập ĐCS Pháp “
Muốn giải phóng dân tộc chỉ có con đường bằng cách mạng vô sản””
Câu 3: Tại sao nói : Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong những năm
1911-1918 là cơ sở quan trọng để người sác lập con đường cứu nước đúng đắn
cho dân tộc Việt Nam
- Hoàn cảnh
- 5-6-1911
- 1911-1917; Bôn ba nhiều nước
- Năm 1917 trở lại Pháp …………sống và làm việc trong phong trào công nhân
Pháp, tiếp nhận ảnh hưởng cánh mạng tháng Mười Nga tư tưởng của người có
những chuyển biến mạnh mẽ

Lê Thị Cúc

7

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

Vậy: những hoạt động yêu nước của Nguyễn Ái Quốc từ 1911-1918 tuy mới chỉ
bước đầu nhưng là cơ sở quan trọng để người xác định con đường cứu nước đúng
đắn cho dân tộc.
Câu 4: So sánh con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với các bậc tiền bối
từ đó rút ra điểm mới trong con đường cứu nước của Người
- Con đường cứu nước của Phan Bội Châu
- Con đường cứu nước của Phan Châu Trinh
- Nguyễn Ái Quốc…
- Mới: Hướng đi sang các nước phương Tây , cùng sống và làm việc với giai cấp
cùng khổ thế giới để tìm ra con đường cách mạng đúng đắn để cứu nước và cứu dân.
Học hỏi rút kinh nghiệm từ phong trào cách mạng thế giới nhất là cách mạng tháng
Mười Nga 1917 . Xác định một dân tộc muốn giải phóng dân tộc phải dựa vào sức
mình là chính.
2.Thời kỳ 1920- 1930.
1,Về kiến thức:
Từ 1920 – 1930, là thời kỳ Người hoạt động tại Pháp, Liên xô, Trung quốc, chuẩn
bị những điều kiện để tiến tới thành lập chính Đảng vô sản ở Việt Nam.
Hoạt động ở Pháp ( từ 1921 – giữa 1923)
Năm 1921, Người sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari. Ra báo người cùng
khổ (Le Paria), Người còn viết bài cho báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, viết cuốn
Bản án chế độ thực dân Pháp. Mặc dù bị nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn
chặn, cấm đoán, song các sách báo nói trên vẫn được bí mật truyền về Việt Nam.
Làm cho nhân dân ta hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa Đế quốc nói chung và đế quốc
Pháp nói riêng, hiểu cách mạng tháng Mười Nga và hướng về chủ nghĩa Mác – Lênin.
Hoạt động ở Liên Xô ( giữa 1923 – cuối 1924)
Tháng 6/1923, người sang Liên Xô dự hội nghị Quốc tế Nông dân, được bầu
vào ban chấp hành và làm việc trong Quốc tế Cộng sản. Người viết bài cho báo Sự
thật, Tạp chí thư tín quốc tế. Người đọc bản tham luận quan trọng tại đại hội V của
Quốc tế Cộng sản (1924), trình bày lập trường quan điểm của mình về vị trí chiến
lược của cách mạng ở các nước thuộc địa.
Trong thời gian hoạt động ở Liên Xô, người có dịp khảo sát kinh nghiệm xây dựng
Đảng kiểu mới công cuộc xây dựng nhà nước Xô viết, và khẳng định dứt khoát niềm
tin vào con đường mình đã lựa chọn.
Lê Thị Cúc

8

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

Hoạt động ở Trung Quốc (cuối 1924 đến 1927)
Ngày 11/11/1924, người từ Liên Xô về Quảng Châu Trung Quốc, tháng
6/1925 người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Xuất bản báo thanh
niên làm cơ quan ngôn luận của hội. Người mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cách
mạng, các học viên dự lớp được nghe những bài giảng của Người qua tác phẩm
Đường Cách Mệnh (xuất bản năm 1927). Tác phẩm Đường Cách Mệnh là kim chỉ
nam cho các nhà cách mạng Việt nam lúc bấy giờ. Sau khóa đào tạo các học viên về
nước tích cực truyền bá lý luận cách mạng giải phóng dân tộc đến giai cấp công
nhân và các tầng lớp nhân dân Việt Nam.
2.Câu hỏi, bài tập.
Trắc nghiệm:
Câu 1: Bằng hiểu biết về những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1920 đến 1930,
Hãy điền tên sự kiện tương ứng với mốc thời gian ở bảng sau:
STT Thời gian
Tên sự kiện
1

Năm 1921

Người sáng lập hội liên hiệp thuộc địa ở Pari

2

6/1923

Người sang Liên Xô dự hội nghị Quốc tế

3

Năm 1924

4

11/11/1924

5

6/1925

Người đọc bản tham luận quan trọng tại đại hội V của
Quốc tế Cộng sản
Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu, Trung
Quốc
Người sáng lập hội Việt Nam cách mạng Thanh niên

6

Cuối 1929

Ba tổ chức Cộng sản ở Việt Nam ra đời

7

6/1/1930

Họp hội nghị thành lập Đảng CSVN

Câu 2. Hãy khoanh tròn vào câu trả lời đúng. Công lao lớn nhất của Nguyễn Ái
Quốc từ 1920-1930 là:
a. Sáng lập hội liên hiệp thuộc địa ở Pari
b. Đọc bản tham luận tại Đại hội V của Quốc tế Cộng sản
c. Thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên
d. Sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam
Tự luận:

Lê Thị Cúc

9

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

Câu 1 : Quá trình chuyển biến của Nguyễn Ái Quốc từ một chiến sĩ yêu nước
trở thành một chiến sĩ cộng sản diễn ra như thế nào ?
- Từ một chiến sĩ yêu nước :
+ Tiểu sử...
+ 1917
+ 1919
+ Vậy : từ 1911-1919 là chiến sĩ yêu nước
- Chiến sĩ cộng sản :
+ T 7- 1920
+ T12 – 1920
+ 1921-1923
+ + 1923-1924
+ 1924-1925
Như vậy từ khi NAQ tìm ra con đường cứu nước đúng đẵn đến chỗ hướng dẫn nhân
dân ta thực hiện con đường cách mạng VS theo quan điểm của chủ nghĩa Maclee
nin, đó chính là thời kì NAQ trở thành chiến sĩ cộng sản.
Câu 2 :Bằng những sự kiệ lịch sử có chọn lọc, hãy làm rõ vai trò của NAQ
trong quá trình vận động thành lập Đảng ( Chuẩn bị về tư tưởng , chính trị và tổ
chức cho việc thành lập Đảng)
1. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị
- T7 – 1920 đọc luận cương của Lê nin
- T12 –1920 gia nhập quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp
- 1921 sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, truyền bá chủ nghĩa mác
lênin, viết báo người cùng khổ, Bản án chế độ thực dân
- T6- 1923 ở Liên Xô dự hội nghị quốc tế nông dân
2. Chuẩn bị về tổ chức
- Thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên
- Xuất bản báo thanh niên và cuốn Đường cách mệnh
- Triệu tập hội nghị thành lập Đảng...
3. Sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam
1. Kiến thức
Từ 1928 – 1930 là quá trình đấu tranh hợp nhất ba tổ chức cộng sản.
Nhờ hoạt động tích cực của các Hội viên thanh niên qua phong trào “Vô sản
hóa”, trong năm 1929 phong trào công nhân và phong trào yêu nước trong nước
theo đường lối vô sản lên cao. Ba tổ chức cộng sản ở Việt nam đã lần lượt ra đời
Lê Thị Cúc

10

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

vào cuối năm 1929. Bên cạnh mặt tích cực, ba tổ chức cộng sản còn có những hạn
chế là hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, gây không tốt đến phong
trào.
Đáp ứng yêu cầu lãnh đạo tập trung thống nhất, theo yêu cầu của các tổ chức
cộng sản trong nước, được sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, mùa thu năm 1929,
Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm sang Cửu Long Hương Cảng (Trung Quốc ), triệu tập hội
nghị họp từ ngày 6-1-1930 đến ngày 8-2-1930, hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hội nghị thông qua chính cương sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt và lời kêu
gọi của Nguyễn Ái Quốc nhân ngày thành lập Đảng. Chính cương sách lược vắn tắt
là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng
Việt Nam, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước
phát triển nhảy vọt mới trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt nam.
Như vậy: bằng nỗ lực phi thường và hoạt động xuất sắc của mình, từ 1920 đến
1930 Ngưyễn Ái Quốc đã có công lao vô cùng to lớn đối với cách mạng Việt Nam
là: Sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam, soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng ta. Đó là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng
đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Độc lập tự do là cốt lõi của cương lĩnh này.
2. Bài tập
Câu 1. Trình bày quá trình vận động chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam của Nguyễn Ái Quốc vào đầu năm 1930.
Gợi ý trả lời câu hỏi: Trình bày qua 2 giai đoạn
* Từ 1920 – 1927: NAQ hoạt động ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc là quá trình chuẩn
bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
- 1920- 1921
- T6- 1923
- 11-11-1924
- T6-1925
* Từ 1928- 1930: Là quá trình đấu tranh để hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
Đảng Cộng sản Việt Nam.
- 3 tổ chức Cộng sản xuất hiện
-Hợp nhất các tổ chức cộng sản
Lê Thị Cúc

11

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

Câu 2.
Nh÷ng ho¹t ®éng cña cña Nguyễn Ái Quốc tõ 1919-1930 ®· cã nhiÒu cèng hiÕn
lín ®èi víi c¸ch m¹ng VN. Trong ®ã næi bËt lªn 4 cèng hiÕn lín :
- Tõ chñ nghÜa yªu níc ch©n chÝnh Ngêi quyÕt t©m ra ®i t×m ®êng cøu níc.
Sau nhiÒu n¨m b«n ba, ho¹t ®äng NAQ ®· t×m ®Õn chñ nghÜa M.Lª Nin vµ t×m ra con
®êng cøu níc ®óng ®¾n cho DT, con ®êng gi¶i phãng theo häc thuyÕt M.Lª Nin, ®ã
lµ ®éc lËp DT víi CNXH, gi¶i phãng DT ®ång thêi víi gi¶i phãng giai cÊp .
- Lµ ngêi ®Çu tiªn vµ cã c«ng lín nhÊt truyÒn b¸ chñ nghÜa M. Lª Nin vÒ VN
vµ c¸c níc thuéc ®Þa kh¸c. Cã t¸c dông soi s¸ng con ®êng c¸ch m¹ng v« s¶n, thøc
tØnh gi¸c ngé quÇn chóng bÞ ¸p bøc ®øng lªn ®Êu tranh, bªn c¹nh ®ã cßn cã t/d chuÈn
bÞ cho viÖc thµnh lËp §CS .
- Lµ ngêi trùc tiÕp chuÈn bÞ vÒ t tëng chÝnh trÞ vµ tæ chøc cho sù thµnh lËp mét
®¶ngc¸ch m¹ng cña giai cÊp v« s¶n ë VN vµo ®Çu 1930 .
- Ngêi cßn so¹n th¶o cho §¶ng mét ®êng lèi s¸ch lîc c¸ch m¹ng ®óng ®¾n,
s¸ng t¹o. §ã lµ chÝnh c¬ng, s¸ch lîc v¾n t¾t, c¸c v¨n kiÖn nµy ®· trë thµnh c¬ng lÜnh
chÝnh trÞ ®Çu tiªn cña §¶ng. Sù ra ®êi cña §¶ng vµ ®êng lèi c¸ch m¹ng cña §¶ng
®Çu 1930 ®· gãp phÇn quyÕt ®Þnh gi¶i quyÕt t×nh tr¹ng khñng ho¶ng l·nh ®¹o c¸ch
m¹ng ë níc ta.
II.Thời kỳ 1941-1945.
NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
1)Kiến thức
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/1/1941 Nguyễn Ái Quốc về
nước trực tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng chuẩn bị lực lượng, để tiến tới giành
chính quyền trong cách mạng tháng Tám.
- Người chủ trì hội nghị TW8
Ngày 10 dến 19/5/1941 Người triệu tập và chủ trì họp hội nghị Trung Ương 8.
Hội nghị đề ra nhiều nội dung quan trọng, đã hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược được đề ra tại hội nghị Trung ương tháng 11/1939.
- Người sáng lập mặt trận Việt Minh
Ngày 19/5/1941, người đã sáng lập ra mặt trận Việt Minh, với các đoàn thể
quần chúng là “ hội cứu quốc “ nhằm: “ liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu
nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt xu hướng chính
trị, tôn giáo, Đảng phái, đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng dân tộc và sinh tồn.”
- Thành lập đội VNTT giải phóng quân.
Ngày 22/12/1944, theo chỉ thị của Người đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân thành lập. Đây là lực lượng vũ trang đàn anh của Cách mạng. Trong
ngày thành lập người dự đoán: “ Hiện đội số lượng còn ít, trang bị vũ khí còn thô
sơ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Đội quân này sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc và
làm rạng danh cho dân tộc Việt Nam.”
- Xây dựng căn cứ địa cách mạng
Lê Thị Cúc

12

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

Tháng 6/1945 khu giải phóng Việt Bắc rộng lớn được thành lập do Người
đứng đầu, đã thi hành 10 chính sách tiến bộ của Việt Minh. Đây là căn cứ địa cách
mạng lớn nhất của cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
- Người liên hệ với đồng minh
Năm 1942 và 1944, Người hai lần sang Trung Quốc để liên hệ với đồng minh
và đã nhận được sự giúp đỡ của đồng minh về vũ khí và về huấn luyện quân sự cho
lực lượng vũ trang của ta.
- Người là linh hồn của cuộc tổng khởi nghĩa.
Ngay từ ngày 13/8/1945, khi được tin Nhật sắp đầu hàng đồng minh, Người
cùng Trung ương Đảng và tổng bộ Việt Minh thành lập ủy ban khởi nghĩa toàn quốc.
Ủy ban khởi nghĩa ban bố “ Quân lệnh số 1”, chính thức phát động Tổng khởi nghĩa
trong cả nước.
Từ ngày 14 đến 15/8/1945, Người chủ trì hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở
Tân Trào ( Tuyên Quang) thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa và
quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành
được chính quyền.
Tiếp đó ngày 16-17/8/1945 Người chủ trì Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào.
Đại hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách
lớn của Việt Minh, cử ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm
chủ tịch. Thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng, Người ra lời hiệu triệu kêu gọi đồng
bào cả nước nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền cho kịp thời cơ. Người
khẳng định: “ Đây là thời cơ ngàn năm có một cho Dân tộc ta vùng dậy, dù có phải
thiêu cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho kỳ được Độc lập cho đất nước.”
- Người soạn thảo bản tuyên ngôn Độc lập.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, thay mặt chính phủ lâm
thời, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá, chẳng
những khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mà còn mở ra kỷ nguyên mới,
kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Cách mạng tháng Tám thành công là bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta,
cách mạng thắng lợi là do nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan. Trong đó
nguyên nhân quyết định nhất là do có sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Hồ Chí
Minh. Có thể nói Hồ Chí Minh là kiến trúc sư thiên tài, kiến tạo nên thắng lợi của
cách mạng tháng Tám năm 1945.
Lê Thị Cúc

13

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

2.Bài tập.
Câu 1. Hãy điền tên sự kiện tương ứng với mốc thời gian ở bảng sau để thấy rõ
công lao Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam từ 1941 đến 1945.
STT Thời gian

Tên sự kiện

1

Từ 10-19/5/1941

Người chủ trì họp hội nghị TW8.

2

19/5/1941

Người sáng lập mặt trận Việt Minh.

3

22/12/1944

4

13/8/1945

Thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân
Phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước.

5

14-15/8/1945

6

16-17/8/1945

7

2/9/1945

Chủ trì hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào
- TQ
Chủ trì quốc dân Đại hội họp ở Tân Trào – TQ.
Người đọc bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành
lập nước VNDCCH.

Câu 2. Hãy khoanh tròn vào câu trả lời đúng. Công lao lớn nhất của Hồ Chí Minh từ
1941 – 1945 là:
a. Chủ trì hội nghị TW8 tháng 5/1941.
b. Thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
c. Lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám.
d. Đọc bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nước VNDCCH.
Câu3: Hãy nối mốc thời gian phù hợp với tên sự kiện về hoạt động của Nguyễn Ái
Quốc từ 1930- 1945
1. 28/1/1945
a. Người thành lập mặt trận Việt Minh.
2. 10/5/1945
b. Người chủ trì hội nghị toàn quốc của Đảng
3. 19/5/1945
c. Người chủ trì quốc dân Đại hội Tân Trào.
4. 22/12/1944
d. Người về nước lãnh đạo cách mạng.
5. 14,15/8/1945
e. Thành lập Đội Việt Nam TTGPQ.
6. 17,18/8/1945
f. Người chủ trì hội nghị TW8.

Lê Thị Cúc

14

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

Câu 4. Phân tích và chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời, sáng tạo của
ĐCS Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh trong cách mạng tháng Tám
* Sự lãnh đạo đúng đắn:
Hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược tại hội nghị TW8 ( 5/1941 ), xây
dựng phát triển lực lượng cách mạng toàn diện.
* Lãnh đạo kịp thời của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh được quyết định
trong việc chớp thời cơ :
- Ngày 9-8-45 hòng quân Liên Xô tiêu diệt đội quân quan đông của Nhật ở Đông
Bắc Trung Quốc. 14-8-45 Nhật đầu hàng đồng minh không điều kiện
- Quân Nhật ở quan đông rệu rã chính phủ Trần trọng kim và bọn tay sai hoang
mang, điều kiện khách quan có lợi cho tổng khởi nghĩa đã đến.
Ngay từ ngày 13-8-45 khi nhận được thông tin về Nhậtsắp đầu hàng, TƯ Đảng và
tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, 23 h cùng ngày
UBKN toàn quốc ban bố Quân lệnh số 1 chính thức phát lệnh tổng khởi nghĩa
trong cả nước
- Từ 14 đến 15-8-45 hội nghị Toàn Quốc của Đảng họp ở Tân Trào Tuyên Quang
quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong toàn quốc giành chính quyền trước
khi quân đồng minh vào Đông Dương, quyết định những vấn đề quan trọng về
chính sách đối nội và đối ngoại sau khi giành được chính quyền
- Từ ngày 16 đến 17-8-45 ĐH Quốc Dân được triệu tập ở Tân Trào. ĐH tán thành
chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử
ra ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch,
ĐH quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm quốc kì bài tiến quân ca làm
quốc ca.
*Lãnh đạo sáng tạo của Đảng trong việc phát động lệnh tổng khởi nghĩa
tháng Tám.
- ( Diễn biến tổng khởi nghĩa tháng Tám)
III. Thời kỳ 1945-1954.
HỒ CHÍ MINH TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
1.Kiến thức.
Từ sau ngày 2/9/1945 đến trước tháng 12/1946, nước Việt nam dân chủ cộng
hòa non trẻ vừa mới ra đời đứng trước muôn vàn thử thách khó khăn, cùng một lúc
đối phó với nhiều kẻ thù là: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm và nội phản.
Trong bối cảnh đó, Người cùng TW Đảng và chính phủ đã đề ra nhiều chủ
trương biện pháp đúng đắn để giải quyết những khó khăn, đưa cách mạng thoát khỏi
“ thế hiểm nghèo, ngàn cân treo sợi tóc”, giữ vững chính quyền cách mạng vừa mới
giành được .
Lê Thị Cúc

15

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

- Từ 12/1946 đến 1954.
Do phía Pháp bội ước quyết dùng vũ lực để cướp nước ta một lần nữa, thay
mặt TW Đảng và chính phủ ngày 19/12/1946 Hồ chủ tịch đã ra lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến. Người cùng TW Đảng đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, đó là
kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ
của quốc tế, dẫn dắt toàn thể dân tộc ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp,
giành thắng lợi to lớn trên các mặt trận. Đặc biệt là mặt trận quân sự, đã giành thắng
lợi trong cuộc quyết chiến chiến lược với Pháp ở Điện Biên Phủ. Buộc Pháp phải ký
hiệp định Giơ ne vơ tháng 7/1954, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
nam.
Chiến thắng Điện Biên phủ là chiến thắng lớn nhất của quân dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Pháp, Chiến thắng Điện Biên Phủ có tầm quốc tế và thời đại sâu
sắc, là chiến thắng lẫy lừng năm châu, chấn động địa cầu, làm rung chuyển hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa Đế quốc. Điện Biên Phủ - Việt Nam – Hồ Chí Minh đã trở
thành biểu tượng và là niềm tự hào của các dân tộc thuộc địa trên thế giới trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập tự do.
2. Bài tập.
Câu 1. Hãy điền tên sự kiện tương ứng và mốc thời gian ở bảng sau, để thấy rõ
những công lao của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1945 - 1954.
STT Thời gian

Tên sự kiện

1

2/3/1946

2

6/3/1946

Thành lập chính phủ liên hiệp kháng chiến do Người đứng
đầu.
Hồ chủ tịch ký với Pháp hiệp định sơ bộ.

3

19/12/1946

Hồ chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

4

2/1951

Người chủ trì họp Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng.

5

12/1953

Người cùng Bộ chính trị thông qua kế hoạch tác chiến,
quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.

Câu 2. Hãy khoanh tròn vào câu trả lời dúng. Công lao của Hồ Chí Minh từ 1946
đến 1954 là:
a. Lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài.
b. Cùng TW Đảng đề ra đường lối kháng chiến chống Pháp.
Lê Thị Cúc

16

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

c. Lãnh đạo toàn dân tiến hành “kháng chiến, kiến quốc”, giành thắng lợi vào
1954.
d. Cả 3 phương án trên.
Câu 3. Hãy điền tên sự kiện tương ứng với mốc thời gian từ 1920 đến 1954 vào
bảng sau, để thấy rõ những công lao của Người đối với cách mạng Việt Nam .
STT Thời gian

Tên sự kiện

1

7/1920

2

6/1/1930

Người tiếp xúc bản luận cương của Lê nin tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn
Người chủ trì hội nghị thành lập Đảng

3

10/5/1941

Người chủ trì hộ nghị TW8

4

19/5/1941

Người thành lập mặt trận Việt Minh

5

13/8/1945

Phát lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc

6

2/9/1945

Người đọc bản tuyên ngôn độc lập

7

11/2/1951

Người chủ trì họp Đại hội II của Đảng

8

12/1953

Người cùng Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch
Điện Biên Phủ

Câu 4
Vì sao ngày 19/12/1946 Hồ chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, nội
dung và ý nghĩa lời kêu gọi.
Gợi ý trả lời câu hỏi
* Vì sao
- Sau Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946, Pháp vẫn chuẩn bị xâm
lược nước ta một lần nữa.
+ Ở Bắc bộ: hạ tuần tháng 11-1946 quân Pháp khiêu khích tiến công ta ở Hải
Phòng, Lạng sơn.
+ Ở Hà Nội, Pháp bắn súng,ném lựu đạn ở nhiều nơi, đốt nhà Thông tin ở
phố Tràng Tiền, chiếm đóng cơ quan Bộ tài chính, tàn sát đẫm máu ở phố Hàng
Bún, phố Yên Ninh…một số nơi.
- Ngày 18 và 19/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi ta giải tán lực lượng tự vệ
chiến đấu, để Pháp giữ gìn trật tự ở Hà Nội, nếu không được chấp nhận, chậm nhất
sáng 20/12/1946, Pháp sẽ chuyển sang hành động.

Lê Thị Cúc

17

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

* Nội dung:
+ Nêu nguyên nhân chúng ta phải kháng chiến…Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta
phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì
chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
+ Khẳng định quyết tâm kháng chiến của ta: “ Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”
+ Nêu lên chính sách kháng chiến là kháng chiến toàn dân: “bất kỳ đàn ông, đàn
bà…hễ ai là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.”
+ Đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí có trong tay: “ Ai có súng dùng súng. Ai có
gươm dùng gươm…”
* Ý nghĩa:
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là tiếng gọi của non sông, đất nước, là mệnh
lệnh tiến công của cách mạng, soi đường chỉ lối cho mọi người Việt Nam đứng lên
đánh thực dân cứu nước.
Câu 5. Hãy kể tên những công lao to lớn nhất của Hồ Chí Minh với cách mạng Việt
Nam từ 1920 đến 1954.
Gợi ý trả lời câu hỏi
- Tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc đúng đắn.
- Sáng lập Đảng Cộng sản Việt nam.
- Lãnh đạo giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám.
- Đọc tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nướcVNDCCH.
- Đề ra đường lối và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp giành thắng lợi vào
năm 1954.

D. Tác dụng của chuyên đề.
Hiện nay hầu hết những giáo viên THPT đang giảng dạy cho đối tượng học
sinh lớp 12 ôn thi vào các trường ĐH- CĐ đều sử dụng phương pháp giảng dạy theo
chuyên đề lịch sử, vì nó tỏ ra rất hiệu quả, nó cung cấp cho học sinh những kiến thức
sâu, hệ thống toàn diện những kỹ năng cần thiết, đáp ứng được yêu cầu của các đề
thi tuyển sinh vào các trường ĐH – CĐ.
Đối với chuyên đề này: Công lao Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đối với
cách mạng Việt Nam từ 1911 đến 1954, là một chuyên đề quan trọng trong chương
trình lịch sử lớp 12 mà thi tuyển sinh vào các trường ĐH – CĐ thường ra. Tôi biên

Lê Thị Cúc

18

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

soạn và đưa chuyên đề này vào giảng dạy trong một thời gian không dài, ở trường
THPT Đồng Đậu.
Từ năm 2009 đến nay, nhờ sử dụng các chuyên đề trong giảng dạy cho đối
tượng học sinh lớp 12, tôi đã đạt được thành tích đáng kển.(có học sinh giỏi cấp
tỉnh, rất nhiều học sinh đã trúng tuyển vào các trường ĐH – CĐ.)
Tuy nhiên kinh nghiệm còn ít, rất mong được các bạn đọc tham khảo và góp ý
để chuyên đề này được áp dụng ngày một hiệu quả hơn.
______________________________________

E. Tài liệu tham khảo
1. Phương pháp dạy học môn Lịch sử - GS- tiến sĩ Phan Ngọc Liên. NXBGD- Năm
1999.
2. Lịch sử lớp 11- NXBGD- Năm 2010.
3. Lịch sử Lớp 12- NXBGD- Năm 2010.
4. Tuyển chọn những bài ôn luyện thi vào ĐH- CĐ. NXBGD
5. Ôn tập Lịch sử - GS- tiến sĩ Phan Ngọc Liên – ĐHSPI- 1998.
6. Ôn tập Lịch sử theo chủ đề - NXBĐHQG- Năm 2004.

7. Tuyển tập đề thi Ôlinpic 2010
8. Một số chuyên đề về Lịch sử Việt Nam – NXB Chính tri quốc gia 1997
F. Mục lục.
A. Mục tiêu của chuyên đề.
B. Cấu trúc chuyên đề.
C. Nội dung chuyên đề ( 3 thời kỳ )
1. Thời kỳ từ 1911- 1930: Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước và đến với CN
Mác- Lê và quá trình vận động, tiến tới thành lập Đảng.
2. Thời kỳ từ 1941- 1945: Người về nước, lãnh đạo cách mạng, giành chính quyền
trong cách mạng tháng Tám.
3. Thời kỳ từ 1945- 1954: Người lãnh đạo đấu tranh chống thù trong giặc ngoài và
kháng chiến chống Pháp 1945- 1954.
D. Tác dụng chuyên đề.

Lê Thị Cúc

19

Trường THPT Đồng Đậu

Chuyên đề ôn thi ĐH-CĐ

Lê Thị Cúc

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911 – 1954)

20

Trường THPT Đồng Đậu

Tải về bản full

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng

Cập nhật: Thứ ba , 02/02/2021 21:26

Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên gieo hạt giống Mác – Lênin trên đất nước Việt Nam, làm cho cách mạng Việt Nam nở hoa kết quả. Người đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và dày công đào tạo cho Đảng ta một đội ngũ cán bộ ưu tú, chăm lo xây dựng Đảng ta thành một khối đoàn kết, thống nhất, vững mạnh.

Bến cảng Nhà rồng - nơi Bác Hồ rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Ảnh tư liệu

Từ khi còn ít tuổi, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã đau xót trước cảnh đồng bào sống dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân và phong kiến. Trước hoàn cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than, đói rét, với khát vọng giải phóng dân tộc, ngày 05/6/1911, Người đã rời Bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn – Gia Định sang phương Tây để học tập kinh nghiệm cách mạng để “về giúp đồng bào”.

Nguyễn Ái Quốc ở Pháp năm 1920
Suốt nhiều năm bôn ba, Người đã đặt chân đến nhiều nước, tiếp xúc với nhiều lớp người, thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Hướng đi của Người trước hết là sang Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc địa của đế quốc, thực dân. Cuộc tìm kiếm lịch sử và cuộc hành trình ra thế giới đã mở rộng nhận thức của Người về vấn đề dân tộc và con người. Người đã thấy không chỉ dân tộc mình mất tự do mà nhiều dân tộc khác cũng “cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của của chế độ thực dân”(1) và không chỉ đồng bào mình bị đối xử như nô lệ mà nhân dân lao động các nước khác không kể chủng tộc, màu da hay quốc tịch cũng “đều là nạn nhân của một kẻ sát nhân: chủ nghĩa tư bản đế quốc”(2), Người nhận xét: “Vậy là dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột, mà cũng chỉ có mỗi một tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản”(3). Có thể nói, nhận thức đó đã bổ sung thêm tiêu chuẩn cho Người trong sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, con đường đó phải giải quyết vấn đề dân tộc và con người không chỉ cho dân tộc và con người Việt Nam mà cho tất cả các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động bóc lột trên toàn thế giới.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công năm 1917.

Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, đây là sự kiện rung chuyển thế giới, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử loại người. Cuộc cách mạng này đưa học thuyết của C.Mác từ sách vở trở thành hiện thực đầu tiên, đưa cách mạng thế giới bước sang thời đại mới, thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội. Cùng thời điểm đó, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị. Với hành trang chủ nghĩa yêu nước – nhân văn truyền thống và với những nhận thức mới về dân tộc và con người, đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6/1919, các nước thắng trận họp Hội nghị hòa bình ở Vécxây (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây bản yêu sách của những người An Nam, bản yêu sách gồm 8 điểm, đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam, đây là lần đầu tiên những quyền lợi cơ bản, chính đáng, thiết thực của nhân dân Việt Nam được nêu ra trong diễn đàn quốc tế. Tuy nhiên, bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ ““chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn”. Từ thực tiễn đó, Người càng khẳng định ý tưởng phải giải quyết vấn đề dân tộc và con người theo một học thuyết khoa học – cách mạng khác học thuyết tư sản và bằng một con đường cách mạng triệt để. Trong quá trình hoạt động, tư tưởng và lý luận của Người đã hướng đến sự thành công củaCách mạng Tháng Mười Nga và Chủ nghĩa Mác Lênin.

Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp được tổ chức ở
thành phố Tua(nước Pháp), tháng 12/1920.

Tháng 7/1920, tại thủ đô Pa-ri nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã được đọc bản “Sơ thảo luần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanite (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17/7/1920, Người đã đọc đi đọc lại nhiều lần và qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của thực dân sau gần mười năm tìm kiếm. Để nói lên niềm vui và hạnh phúc của Bác khi bắt gặp Luận cương của Lênin, trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” nhà thơ Chế Lan Viên đã viết “…Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc: Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”. Bằng trí tuệ thiên tài và quá trình hoạt động cách mạng của Người, vượt qua sự hạn chế trong chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin và đi vào con đường cách mạng vô sản. Người xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12/1920), tại Đại hội, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập). Đây là sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Từ một người yêu nước chân chính, Người đã trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, những năm hoạt động trong phong trào cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập kinh nghiệm của Đảng Cộng sản, kinh nghiệm của Liên Xô - quê hương Cách mạng tháng Mười, Người đã tích lũy được những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, và hình thành dần dần đường lối cứu nước. Người đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Công lao vĩ đại đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin”. Được chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, Nguyễn Ái Quốc “vụt lớn lên, ngang tầm sứ mệnh của con người làm ra lịch sử”(4).
Nguyễn Ái Quốc và Báo Le Paria (Người cùng khổ).
Trong những năm hoạt động ở nước ngoài, tâm hồn và nghị lực của Nguyễn Ái Quốc luôn hướng về Tổ quốc Việt Nam, luôn ở bên cạnh đồng bào. Tên đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tờ báo “Người cùng khổ” và cuốn sách “Bản án chế độ thực dân Pháp” nhắc lại thời kỳ hoạt động cách mạng rất có ý nghĩa của Người. Người tranh thủ mọi cơ hội và vận dụng mọi khả năng, mọi hình thức để dìu dắt phong trào cách mạng trong nước, để động viên và cổ vũ các tầng lớp nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và thanh niên, đứng lên đấu tranh; mặt khác Người tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị các tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời chính đảng tiên phong ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin đến với nhân dân Việt Nam như đến với “người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”, chủ nghĩa Mác - Lênin lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi vào con đường cách mạng vô sản và làm dấy lên khắp trong nước một làn sóng dân tộc và dân chủ mạnh mẽ, trong đó giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng mang tính thời đại của Nguyễn Ái Quốc, với phong trào đấu tranh quyết liệt của giai cấp công nhân liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân, cùng với phong trào yêu nước của một dân tộc đang sục sôi cách mạng đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ký họa Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 2-1930.
(Nguồn ảnh: baoapbac.vn)

Mùa Xuân năm 1930, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, ngày 03/02/1930 Người đã chủ trì Hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Đông dương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Người trực tiếp soạn thảo như: Chánh cương vắn tắt; Sách lược vắn tắt; Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đây là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể của nước ta, trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta. Đó là “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đường lối ấy gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế chân chính, gắn cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng vô sản. Đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước của Việt Nam đã được Người vạch ra, sự đúng đắn ngay từ đầu của Nguyễn Ái Quốc đã được quá trình cách mạng khảo nghiệm và khẳng định. Từ đó, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mở ra thời đại mới, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử của dân tộc Việt Nam./.
CN. Văn Thị Như Quỳnh
Trường Chính trị Hoàng Đình Giong tỉnh Cao Bằng

(1), (2) Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.191.200.
(3) Hồ Chí Minh Sách đã dẫn, t.1.tr.266, 191, 416.
(4) Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990, tr.14.

Tags:

Video liên quan

Chủ đề