Vì sao lý thường kiệt đánh tan quân tống

Hay nhất

Nói lần chống quân Tống đợt 1 là tự vệ chứ không phải xâm lược vì:

- Mục tiêu tấn công của ta chỉ là các căn cứ quân sự, kho lương thảo - là những nơi quân Tống chuẩn bị cho cuộc tiến công xâm lược nước ta. Nên cuộc tiến công của ta mặc dù sang đất Tống nhưng là chính đáng. Trên đường tiến công, quân ta treo bảng nói rõ mục đích của mình, khi thực hiện xong mục đích ta chủ động rút khỏi đất Tống.
- "Tiến công trước để tự vệ" là một chủ trương độc đáo, sáng tạo. Tiến công để tự vệ chứ không phải là xâm lược. Thắng lợi này là đòn phủ đầu, làm cho quân Tống hoang mang, bị động.

Để chiếm Đại Việt nhà Tống âm mưu sử dụng lực lượng quân sự Chiêm Thành quấy phá, làm suy yếu ta và tạo thành mũi tấn công phối hợp từ phía Nam. Đó là chiến lược hai gọng kìm cùng một lúc tấn công Đại Việt từ hai phía Bắc và Nam.

         Để thực hiện âm mưu đó, năm 1074, trong khi ở Trung Quốc, Tống Thần Tông xuống chiếu cử Lưu Di giữ chức trấn thủ Quế Châu, chuyên công việc điều động binh mã, tích trữ lương thảo, xây dựng căn cứ Ung – Khâm – Liêm, thì ở phía Nam, quân Chiêm Thành cũng liên tục cướp phá và xâm phạm lãnh thổ nước ta. Quân Chiêm Thành đã được lệnh áp sát biên giới chuẩn bị đánh Đại Việt.

         Về phía Đại Việt vào thời điểm này đang là thời kỳ cường thịnh, nền quốc phòng ngày càng vững mạnh. Vì vậy, nhân dân ta bước vào thời kỳ kháng chiến chống Tống lần thứ hai trong tư thế hoàn toàn chủ động. Bấy giờ vua Lý Nhân Tông còn nhỏ tuổi, Thái Uý Lý Thường Kiệt ở cương vị như một tể tướng đóng vai trò chủ yếu điều hành công việc triều chính. Ông cũng trực tiếp lãnh đạo cuộc chiến tranh, sự lớn mạnh về mọi mặt của đất nước cho phép Lý Thường Kiệt đối phó với âm mưu xâm lược của nhà Tống một cách cương quyết chủ động. Nhưng đối với một kẻ thù lớn hiếu chiến và thâm hiểm như quân Tống, Lý Thường Kiệt không bao giờ chủ quan, mất cảnh giác. Những năm 1074 và 1075, quân Chiêm lại liên tục quấy phá ta để chuẩn bị lực lượng tấn công với quân Tống, Lý Thường Kiệt quyết định tiến công trước, nhằm tiêu diệt và khống chế quân Chiêm Thành, ngăn chặn mối hiểm họa từ phương Nam đất nước, đồng thời, làm phá sản âm mưu lôi kéo sử dụng lực lượng quân sự Chiêm Thành làm mũi tiến công thứ hai của nhà Tống. Nhờ đó, nhà Lý có thể rảnh tay ở phía Nam để tập trung đối phó với việc uy hiếp của quân Tống ở phương Bắc.

         Trong năm 1075, nhà Tống khẩn trương điều quân bắt lính ở vùng Quảng Châu, Quảng Đông, Quảng Tây. Quân đồn trú được tăng cường. Chúng triển khai chiếm giữ những nơi quan yếu trên tuyến biên giới. Năm liên trại lớn: Hoành Sơn, Thái Bình, Long Châu, Cổ Vạn và Tư Minh được xây dựng, trở thành vị trí án ngữ xây dựng ở phía trước, bảo vệ cho Ung – Khâm – Liêm. Đến giữa năm 1075, về cơ bản nhà Tống đã hoàn thành việc động binh và triển khai lực lượng phía trước. Hơn 10 vạn quân cùng với nhiều lương thảo, phương tiện chiến tranh đã được tập trung ở các kho, trại và căn cứ Ung – Khâm – Liêm đã được xây dựng thành bàn đạp tấn công xâm lược. Chỉ chờ 6 vạn quân chủ lực, tinh nhuệ từ phía Bắc xuống là vua Tống có thể ra lệnh xuất chinh.

         Nhờ có tin tức tình báo, với tầm nhìn chiến lược sắc sảo của mình, Lý Thường Kiệt đã phán đoán tình hình, phân tích tương quan lực lượng giữa ta và địch. Khi mọi lực lượng kháng chiến của Đại Việt đã sẵn sàng, khi mà sự chuẩn bị của nhà Tống đang ở giai đoạn cuối, Lý Thường Kiệt đã đề ra chủ trương chiến lược “ Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của chúng và ông quyết định đánh trước địch, giáng đòn phủ đầu quân Tống, triệt phá hoàn toàn căn cứ xuất phát tấn công xâm lược của giặc, buộc chúng phải chuẩn bị lại từ đầu, đẩy lùi thời gian mở cuộc tấn công xâm lược của nhà Tống”[1]. Tư duy chiến lược sáng tạo và độc đáo trong chỉ đạo chiến tranh của Lý Thường Kiệt đã san bằng căn cứ Ung – Khâm – Liêm của địch trong vòng 3 tháng. Đồng thời Lý Thường Kiệt đã chặn được mũi nhọn của giặc, đẩy địch rơi vào thế bị động ngay từ đầu, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

         Khi mục đích của cuộc tập kích đã đạt được, Lý Thường Kiệt ra lệnh rút quân về nước chuẩn bị đánh địch trên đất mình. Đây là một quyết định bất ngờ đối với quân giặc. Ý định dùng Ung Châu để giữ chân quân Đại Việt của địch không đạt được. Một lần nữa Lý Thường Kiệt đã phán đoán đúng âm mưu của địch, đã khéo léo tính toán, xử lý nhanh, chủ động rút quân về phòng thủ đất nước.

         Biết thế nào quân Tống cũng sẽ mang quân sang để trả thù và lấy lại uy thế, sau khi rút quân về nước, Lý Thường Kiệt đã chủ trương xây dựng một trận địa phòng ngự vững chắc, để chặn đứng quân xâm lược, bảo vệ an toàn cho kinh đô Thăng Long. Ý đồ chiến lược của Ông là bằng phòng ngự chiến lược, chặn đứng, phá thế tiến công của địch, giam hãm quân Tống trong tình trạng bị tiêu hao, mệt mỏi, thiếu lương thực, không viện binh, tạo thời cơ để phản công, tiến công tiêu diệt chúng. Có thể nói, đây là một điểm độc đáo về mặt chiến lược chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta; chứng tỏ tính chủ động, sáng tạo của tư tưởng quân sự Lý Thường Kiệt.

         Mặc dù bị quân đồn trú, quân địa phương và dân binh Đại Việt chặn đánh quyết liệt, nhưng trong thế tiến công mãnh liệt, 30 vạn quân Tống đã nhanh chóng chọc thủng tuyến phòng thủ vòng ngoài và tiến sâu vào lãnh thổ nước ta. Thế nhưng quân Tống không thể vượt sông được khi chỉ còn cách kinh đô Thăng Long khoảng 20Km nữa, phải chờ đợi sự hỗ trợ của đạo thủy quân do Dương Tùng Tiên chỉ huy; trong khi đó, chính đạo quân này đã bị Lý Kế Nguyên đánh tan ở sông Đông Kênh. Càng đóng lại lâu ngày, quân giặc càng sa vào thế bị động, càng bị tiêu hao, lương thiếu, binh mệt lại phải chống đỡ khắp nơi. Bởi thế, chủ tướng Quách Quỳ phải hủy bỏ kế hoạch tiến công "đánh nhanh thắng nhanh", chỉ lo phòng giữ, ra lệnh “ ai bàn đánh sẽ bị chém”. Như vậy, bằng phòng ngự chiến lược, Lý Thường Kiệt đã làm thất bại chiến lược tiến công của quân Tống buộc chúng phải chuyển sang phòng ngự bị động.

         Khi quân Tống đang ngày càng khó khăn, khốn quẫn, Lý Thường Kiệt đã chớp lấy thời cơ, chuyển sang phản công, tiến công tiêu diệt quân địch. Đây lại là một quyết định chiến lược sáng suốt và táo bạo, thể hiện tính chủ động và tài năng chỉ đạo chiến lược của ông. Với thắng lợi to lớn của đợt tiến công, quân ta đã dồn quân Tống đến chỗ bế tắc, buộc bọn tướng lĩnh chỉ huy phải lựa chọn một trong hai giải pháp: Hoặc là ngoan cố tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh để rồi không tránh khỏi sự tiêu diệt hoàn toàn, hoặc chấp nhận rút quân về nước chấm dứt chiến tranh giữ “thể diện Thiên Triều”. Đúng lúc này, Lý Thường Kiệt đã chủ động “dùng biện sĩ để bàn hoà, không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu, mà vẫn bảo tồn được tôn miếu xã tắc”. Đây là chủ trương kết hợp giữa đánh địch và thương lượng, giữa quân sự và ngoại giao, buộc vua Tống ra lệnh bãi binh và từ bỏ ý đồ xâm lược Đại Việt. Đồng thời, cũng là nghệ thuật kết thúc chiến tranh độc đáo của Lý Thường Kiệt.

[1] Bách khoa tri thức quốc phòng toàn dân - nxb ctqg, h. 2003, tr.18.

Chiến dịch đánh Tống 1075–1076 là tên gọi chiến dịch do tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt phát động nhằm tấn công quân Tống ở 3 châu dọc theo biên giới Tống - Việt năm 1075-1076.

Chiến dịch đánh Tống
1075 - 1076
Một phần của Chiến tranh Tống - Việt, 1075-1077

Vị trí Khâm Châu tại Quảng Tây.

Vị trí Ung Châu (ngày nay là Nam Ninh) tại Quảng Tây.

Đại Việt đã huy động 10 vạn quân sang đánh phá căn cứ châu Ung của Tống, bao gồm cả lực lượng chính quy của triều đình lẫn quân của các thủ lĩnh dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.

Đạo quân của triều đình ở phía Đông do đích thân Lý Thường Kiệt chỉ huy, gồm cả thủy lục quân xuất phát từ châu Vĩnh An (Móng Cái ngày nay) rồi thần tốc lên biên giới phía Đông Bắc tới châu Khâm.

Còn đạo quân của các thủ lĩnh dân tộc thiểu số ở phía Tây đặt dưới sự chỉ huy của Tôn Đản chia làm 4 mũi tiến vào đất Tống: Lưu Kỷ từ Quảng Nguyên (Cao Bằng), Hoàng Kim Mãn từ Môn Châu (Đông Khê - Cao Bằng), Thân Cảnh Phúc từ Quang Lang (Lạng Sơn) và Vi Thủ An từ Tô Mậu (Quảng Ninh) và nhắm tới châu Ung[5]. Đạo quân phía Tây sẽ "giương Tây" để đạo quân phía Đông bất ngờ "kích Đông".

Phòng ngự châu Ung gồm hai phần, tổng số có 5.000 quân.[6] Giữ biên thuỳ Đại Việt và đóng quân trong thành: 2.000 quân đóng ở thành Ung, 3.000 chia đóng ở 5 trại tiếp giáp biên giới Đại Việt: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long[6]. Khâm Châu và Liêm Châu sát biển tiếp giáp Quảng Ninh và Lạng Sơn ngày nay, đặt viên Phòng biên tuần sứ cai quản đoàn quân Đằng Hải để hợp với quân của hai viên tuần kiểm, không quá 500 người, đóng ở hai trại: Như Tích giáp biên thùy châu Vĩnh Anh và Để Trạo ở cửa sông Khâm Châu.[7]

Ngày 27 tháng 10 năm 1075, Vi Thủ An dẫn 700 quân từ Tô Mậu vào đánh Cổ Vạn, chiếm được trại Cổ Vạn. Tin tức đến tận ngày 21 tháng 12 mới tới được triều đình nhà Tống. Tiếp theo, các mũi quân phía Tây lần lượt đánh chiếm trại Vĩnh Bình, Thái Bình, các châu Tây Bình, châu Lộc, trại Hoành Sơn.[8][9]

Quân Tống bị thu hút vào phía Tây, nên lơ là phía Đông. Đã có người Khâm châu phát hiện và báo cho tướng giữ thành là Trần Vĩnh Thái nhưng Thái không tin. Khi có tin đạo quân phía Đông của Đại Việt đến tập kích, Thái vẫn thản nhiên bày tiệc uống rượu. Quân Tống đã không chống đỡ nổi. Ngày 30 tháng 12 năm 1075, châu Khâm bị chiếm, Trần Vĩnh Thái và các thủ hạ Văn Lương, Ngô Phúc, Tưởng Cẩn, Tống Đạo đều bị bắt và bị giết. Quân Lý không phải giao phong một trận nào, lấy hết của cải mang đi[8]. Người dân địa phương của Bắc Tống dù sau này thương Thái bị giết mà lập đền thờ nhưng vẫn chê cười Thái là người ngu muội; hễ thấy ai không thông tuệ thì gọi là Trần Thừa Chỉ (Thừa chỉ là hàm chức của Vĩnh Thái)[10].

Nghe tin Khâm châu thất thủ, quân Tống ở Liêm châu cố phòng bị nhưng không chống nổi. Ngày 2 tháng 1 năm 1076, châu Liêm thất thủ.[8][9] Chúa các trại Như Tích và Để Trạo đều tử trận. Phía Tống bị bắt tới 8.000 tù binh dùng để đưa đồ vật cướp được xuống thuyền sau cũng bị đem giết hết. Quan trấn thủ châu Khâm là Lỗ Khánh Tôn và các thủ hạ Lương Sở, Chu Tông Thích, Ngô Tông Lập đều bị giết.

Sau đó, Lý Thường Kiệt dẫn quân đến châu Ung cùng đạo quân phía Tây quyết tâm hạ thành châu Ung.

Phát "Phạt Tống lộ bố văn"Sửa đổi

Bài chi tiết: Phạt Tống lộ bố văn

Lý Thường Kiệt kéo quân tiến sâu vào nội địa. Phía Tống không còn quân cản đường quân Lý kéo đến thành Ung châu[11]. Nhưng Lý Thường Kiệt vẫn lo ngại dân Tống sẽ cản đường về của quân Lý, do đó nhằm phô trương danh nghĩa cuộc bắc phạt, Lý Thường Kiệt viết Phạt Tống lộ bố văn và sai yết ở dọc đường để kể tội nhà Tống.

Theo sách sử của Đại Việt thì dân Tống thấy lời tuyên cáo đều vui mừng đồng tình, mang rượu thịt ra khao quân Lý. Từ đó mỗi khi dân Tống thấy cờ hiệu Lý Thường Kiệt từ xa đều nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam và cùng nhau bày án bái phục trên đường. Do đó uy danh quân Lý lan rất xa[11].

Trận Ung ChâuSửa đổi

Quân Lý vây thànhSửa đổi

Ngày 10 tháng 12, Tông Đản kéo đến Ung Châu. Cánh quân chiếm được Khâm Châu tiến lên Ung Châu. Cánh chiếm được Liêm Châu tiến sang miền Đông Bắc chiếm châu Bạch[12].

Nửa tháng sau Ty Kinh lược Quảng Tây mới hay tin về cuộc tấn công này để thông báo về triều. Vua tôi nhà Tống hết sức bối rối. Rồi nhiều nơi khác bị mất lại được cáo cấp về, nhà Tống càng hoang mang, sau đó có lệnh của Tống Thần Tông cho Quảng Châu, Quảng Tây phải cố thủ ở các nơi hiểm yếu nhất, vận chuyển tiền, vải, lương thực để khỏi lọt vào tay quân Lý, cách chức Lưu Di, cử Thạch Giám thay coi Quế Châu và đưa viện binh tới các thị trấn đang bị uy hiếp.

Ngày 18 tháng 1 năm 1076, đạo quân của Lý Thường Kiệt cũng tới thành Ung châu. Mấy vạn quân của Lý Thường Kiệt, Lưu Kỷ và các tù trưởng khác vây thành Ung châu vài vòng kín như bưng. Tướng giữ thành là Tô Giám thấy thế quân Đại Việt mạnh nên đã áp dụng triệt để chính sách cố thủ để chờ viện quân, tính chỉ hai tuần lễ có thể đến nơi. Tô Giám ban đầu tin rằng Ung Châu cách Quế Châu chỉ có 14 ngày đường, nên viện binh thế nào cũng sẽ đến kịp cho nên đóng cửa thành cố thủ. Kiểm điểm binh lương, trong thành Ung lúc ấy chỉ có 2.800 quân. Dân thành Ung tất cả được gần 6 vạn người bấy giờ sợ hãi đạp nhau mà chạy. Ông đem hết công nhu (tiền công) phát hết cho dân khích lệ mọi người vững lòng, kiên trí. Kẻ nào bỏ trốn phải tội theo quân lệnh (Địch Tích là một bộ hạ dưới trướng của Tô Giám bị chém trong trường hợp này). Ông còn phao tin viện binh không còn xa thành là bao nhiêu.

Trước đó con Tô Giám là Tử Nguyên làm quan ở Quế Châu đem gia đình đến thăm cha, lúc sắp trở về thì thành Ung bị vây, Tô Giám lại bắt Tử Nguyên để vợ con ở lại chỉ được về Quế Châu một mình, vì sợ nếu để người nhà đi đông thì nhân dân cũng bỏ trốn hết.

Viện binh Quý ChâuSửa đổi

Lúc này Lưu Di giữ Quý Châu nghe tin thành Ung bị nguy liền phái Trương Thủ Tiết đem quân đi cứu. Thủ Tiết nghe tin quân Lý đông và mạnh, không dám tiến thẳng đến Ung châu, đi vòng theo đường Quý Châu tới Tân Châu rồi hạ trại ở Khang Hòa nghe ngóng.

Ung Châu bị vây gấp quá, Tô Giám cho người mang lạp thư - thư viết vào giấy rồi bọc trong nến - mà ngậm vào miệng phá vòng vây ra báo cho Tống Cầu ở Quý Châu. Tống Cầu giục Trương Thủ Tiết đi gấp. Tiết bất đắc dĩ kéo quân đi, đến núi Hỏa Giáp[13] rồi ra giữ ải Côn Lôn giữa châu Tân và châu Ung, cách Ung 40km.

Lý Thường Kiệt biết tin viện binh Tống đến, bèn cho quân đón đánh. Ngày 4 tháng Giêng âm lịch, tức ngày 11 tháng 2 năm 1076, quân Lý kéo thẳng đến ải Côn Lôn, quân Tống hốt hoảng bỏ chạy. Trương Thủ Tiết, Nguyên Dụ, Trương Biện, Hứa Dự, Vương Trấn là các chỉ huy của lực lượng viện binh nhà Tống đều bị giết tại trận. Nhiều quân sĩ Tống đầu hàng quân Lý[10].

Quân Lý hạ thànhSửa đổi

Thành Ung Châu vững chắc, chính Vương An Thạch tin rằng quân Lý sẽ không phá nổi.

Để công phá Ung Châu, mấy vạn quân Lý bắc thang mây để leo thành. Quân Tống dùng đuốc mà đốt nên không thể bắc gần được. Lý Thường Kiệt lại dùng tên độc mà bắn, người ngựa trên thành chết nằm gối lên nhau. Quân Tống dùng thần tý (một loại nỏ) ra bắn. Thành cao và chắc, quân Lý đánh phá hơn 40 ngày không hạ được. Có tù binh bên Tống hiến kế với Lý Thường Kiệt dùng phép thổ công, tức là trèo qua bao đất vào thành. Quân Đại Việt liền lấy túi cho đất vào, cứ thế đắp vào chân thành. Khi các bao đất cao lên, quân Lý theo đó mà leo lên mặt thành. Lý Thường Kiệt theo đó mà tiến đánh.

Ngày 1 tháng 3 năm 1076, sau 42 ngày kiên cường kháng cự[14], thành Ung thất thủ. Tô Giám cố gắng đốc thúc tàn quân chiến đấu đến phút cuối cùng. Khi đã kiệt sức ông cho 36 thân nhân tự sát rồi tự thiêu mà chết. Không tìm thấy Tô Giám, quân Đại Việt giết hết dân trong thành, tổng cộng hơn 50.000 người[14]. Theo Tống sử, cứ 100 thây chất làm một đống, cả thảy 580 đống.

Trận này quân Lý bị thiệt hại 10.000 quân, cùng một số voi chiến[15].

Đại Việt rút quân về nướcSửa đổi

Lấy xong Ung Châu, Lý Thường Kiệt kéo quân lên phía bắc, tỏ ý muốn đánh tiếp Tân châu. Tướng giữ Tân châu nhà Tống là Cổ Cấn Lặc nghe tin, sợ hãi bỏ thành chạy.

Lý Thường Kiệt ra lệnh tiêu hủy thành lũy, phá kho tàng dự trữ trong vùng Tả Giang và lấy đá lấp sông chặn đường cứu viện của quân Tống[16].

Liệu chừng đại quân Tống từ phương Bắc sắp kéo xuống, nếu tiến gấp có thể qua vùng khê động đánh vào châu Quảng Nguyên của Đại Việt, mà quân Lý công phá thành Ung Châu hơn 1 tháng đã mệt mỏi, Lý Thường Kiệt quyết định thu quân trở về Đại Việt để lo bố phòng, chuẩn bị phòng tuyến chặn địch.

Tháng 3 năm 1076, quân Lý rút khỏi Ung Châu.

Kết quả và ý nghĩaSửa đổi

Nhà Tống chủ trương tập trung căn cứ hậu cần tại các cứ điểm phía nam để chuẩn bị đánh Đại Việt. Nhà Lý đánh phá các châu Liêm, Khâm và Ung, đốt hết các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Thiên Long, Cổ Vạn đã đạt được mục tiêu ra quân chặn thế mạnh của Tống.

Sau thất bại này, cả Tống Thần Tông và Vương An Thạch đều quy lỗi cho các tướng dưới quyền. Thẩm Khởi và Lưu Di bị truy xét tội trạng. Vương An Thạch viết trong Tư kỷ:

Vua sai Khởi kinh chế kín việc Giao Chỉ, các đại thần không hay. Phàm Khởi tâu xin gì, vua cũng nghe.

Nhưng Tống Thần Tông từ chối việc từng sai Thẩm Khởi chuẩn bị đánh Đại Việt, tự tay viết chiếu nói:

Trước Thẩm Khởi ở Quảng Tây nói dối là nhận được mật chỉ của triều đình bảo soạn đánh Giao Chỉ.[17]

Cả Tống Thần Tông và Vương An Thạch đều hối tiếc vì không đánh Đại Việt sớm, ngay khi Lý Nhân Tông mới lên ngôi. Sau khi Ung Châu thất thủ, phía nhà Tống thừa nhận không còn cơ hội "đánh úp Giao Chỉ" nhưng vẫn chuẩn bị kế hoạch phục thù.

Nhà nghiên cứu Hoàng Xuân Hãn cho rằng:

Tống tiếc rẻ không đánh Đại Việt trước, nhưng không biết rằng sở dĩ Tống bị đánh trước vì dự định đánh Đại Việt. Trong cuộc chiến này, phía Đại Việt nhờ có Lý Thường Kiệt chủ động đi bước trước nên đã giành thắng lợi hoàn toàn và tránh khỏi được thất bại về sau (trong toàn cuộc chiến với Tống)[18].

Xem thêmSửa đổi

  • Nhà Lý
  • Lý Thường Kiệt
  • Lý Nhân Tông
  • Nùng Tông Đản
  • Phạt Tống lộ bố văn
  • Chiến tranh Tống - Việt, 1075-1077
  • Nam Quốc Sơn Hà

Tham khảoSửa đổi

  • Đại Việt sử lược
  • Đại Việt sử ký toàn thư
  • Hoàng Xuân Hãn (1996), Lý Thường Kiệt, lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nhà Xuất bản Hà Nội.
  • Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư - bản điện tử.
  • Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2003), Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 3, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia.
  • Tống Sử.
  • Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược - bản điện tử.

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn thư, tr. 146.
  2. ^ Hoàn Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 165.
  3. ^ a b Phạm Hồng Sơn, Viện Quân sự cấp cao, Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam, 1990, tr. 10.
  4. ^ Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2003), sách đã dẫn, tr. 238.
  5. ^ Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, sách đã dẫn, tr. 241.
  6. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên VLSQS237
  7. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Hà Hữu Nga
  8. ^ a b c Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 172.
  9. ^ a b Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, sách đã dẫn, tr. 242.
  10. ^ a b Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 173.
  11. ^ a b Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 174.
  12. ^ Việt Sử Toàn thư, tr. 148.
  13. ^ Có sách nói là núi Đại Giáp.
  14. ^ a b Đại Việt sử lược - Quyển II.
  15. ^ Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 183.
  16. ^ Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, sách đã dẫn, tr. 245.
  17. ^ Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 189.
  18. ^ Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr. 192.

Video liên quan

Chủ đề