Vì sao nói văn hóa Đông Nam á mang tính đa dạng trong thống nhất

Tài liệu TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐÔNG NAM Á pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.7 MB, 156 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN LỊCH SỬ






ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” CỦA
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐÔNG NAM Á


Chủ tịch Hội đồng Ban Chủ nhiệm Khoa Chủ nhiệm đề tài


Võ Văn Thắng Trần Thể Lê Thị Liên



Chủ nhiệm đề tài: Ths. LÊ THỊ LIÊN



Long Xuyên, tháng 6 năm 2010
MỤC LỤC
Trang
Mục lục


Lời cám ơn
Lời nói đầu
Phần tóm tắt
Danh sách các biểu bảng, hình ảnh minh họa
Viết tắt
MỞ ĐẦU 1
I. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu 1
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
III. Phương pháp nghiên cứu 3
IV. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
NỘI DUNG 5
Chương I
NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG”
5
I. Điều kiện tự nhiên Đông Nam Á 5
II. Dân tộc và ngôn ngữ Đông Nam Á 8
III. Nền kinh tế truyền thống Đông Nam Á 12
IV. Tiến trình lịch sử các quốc gia Đông Nam Á 14
Chương II
TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG”
VỀ VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á
21
I. Thức ăn 21
II. Trang phục 24
III. Nhà ở 28
IV. Kiến trúc và điêu khắc 31
Chương III
TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG”
VỀ VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á
40

I. Chữ viết 40
II. Tín ngưỡng bản địa - tôn giáo 42
III. Lễ hội và phong tục tập quán 51
IV. Nghệ thuật diễn xướng 63
KẾT LUẬN 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
PHỤ LỤC 74

LỜI CÁM ƠN
""

Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành gửi lời cám ơn đến:
Viện nghiên cứu Đông Nam Á
Thư viện Quốc Gia
Thư viện Quân đội
Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phòng Tư liệu - Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Ban Giám Hiệu, phòng Quản lí Khoa học và Hợp tác Quốc tế, Thư viện và Hội
đồng Khoa học Trường Đại học An Giang.
Xin chân thành gửi lời cám ơn đến quý Thầy Cô, quý đồng nghiệp trường Đại học
An Giang, đặc biệt xin chân thành cám ơn PGS.TS. Ngô Văn Doanh - Viện nghiên cứu
Đông Nam Á, đã động viên và hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài này trong thời gian vừa
qua.
Do điều kiện thời gian và trình độ còn nhiều hạn chế, cho nên, đề tài của tôi không
thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của quý
Thầy Cô và quý đồng nghiệp, để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn!
Long Xuyên, tháng 6 năm 2010
Chủ nhiệm đề tài



Lê Thị Liên
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, khi các dân tộc, các quốc gia ở Đông Nam Á đã vượt qua thời kì đối
đầu để bước vào thời đại mới, thời đại chung sống hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Khi
mà những cuộc tiếp xúc và giao lưu ngày càng diễn ra mạnh mẽ, thì mỗi chúng ta, ai
cũng dễ dàng nhận thấy trong vốn kiến thức của người Việt và các dân tộc Đông Nam Á
khác thiếu hẳn sự hiểu biết về khu vực, về những người bạn láng giềng của mình.
Trong khi đó, các quốc gia dân tộc đều sinh ra và lớn lên trong khu vực Đông
Nam Á, có chung một cội nguồn văn hóa - tộc người, có chung một tiến trình lịch sử,
ngày nay đang cùng nhau xây dựng một ASEAN hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
triển trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa. Tất cả mọi hoạt động giao lưu văn hóa
hiện nay đều nhằm mục đích tăng cường sự hiểu biết, giới thiệu về nền văn hóa của
nhau không chỉ ở khu vực mà ra cả thế giới bên ngoài, để thúc đẩy tình hữu nghị, đoàn
kết, và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình, đồng thời tiếp thu, học tập các giá trị
văn hóa của nước bạn.
Đông Nam Á xưa kia được biết đến như “là một khu vực thần bí, nơi sản xuất
hương liệu, gia vị và những sản phẩm kỳ lạ khác” (Donald G. Mc. Cloud, 1986) và cho
đến tận cuối thế kỷ XIX, Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như
một khu vực địa lý - lịch sử - văn hóa - chính trị riêng biệt. Cách nhận thức mới về tính
khu vực của Đông Nam Á thực sự xuất hiện từ chiến tranh thế giới thứ hai, khi thực dân
Anh lập ra Bộ chỉ huy quân sự Đông Nam Á, để phân biệt với Đông Á và Nam Á. Tuy
nhiên, Đông Nam Á không phải chỉ là một khu vực chính trị thuần túy mà từ xa xưa,
Đông Nam Á đã là một khu vực văn hóa thống nhất - điều này đã được nhiều học giả,
kể cả các học giả Âu, Mĩ, khẳng định. Người ta đã khẳng định được rằng trước khi tiếp
xúc với văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ, cư dân Đông Nam Á đã có một nền văn hóa bản
địa phát triển, đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước, với nền văn hóa Đông Sơn mà
biểu tượng rực rỡ nhất là chiếc trống đồng, được tìm thấy khắp ở các nước Đông Nam
Á. Như vậy, có thể nói, Đông Nam Á đã là một khu vực lịch sử - văn hóa trước khi trở
thành khu vực địa lý - chính trị.

Ngày nay, văn hóa Đông Nam Á, vừa là sự kế thừa và phát huy vốn văn hóa bản
địa truyền thống, vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới từ bên ngoài, cả
phương Đông lẫn phương Tây. Trong kho tàng văn hóa đồ sộ Đông Nam Á có rất nhiều
yếu tố chung, làm nên cái gọi là “khung” Đông Nam Á, song, cũng có không ít những
yếu tố đặc sắc, riêng biệt độc đáo tiêu biểu cho mỗi quốc gia, dân tộc. Hay nói cách
khác, văn hóa Đông Nam Á là nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng”, theo cách nói
của người Inđônêxia. Cụm từ này bắt nguồn từ câu nói của nhà thơ Mpu Tantular ở
Inđônêxia “Bhineka Tungga Ika” (nghĩa là “thống nhất trong đa dạng”), và ngày nay,
câu nói này đã trở thành thuật ngữ phổ biến khi nói về văn hóa Đông Nam Á.
Có lẽ, trên thế giới, hiếm có khu vực nào vừa mang tính đa dạng mà cũng vừa
mang tính thống nhất như ở khu vực Đông Nam Á. Sự đa dạng và thống nhất ấy được
biểu hiện trên nhiều mặt, từ cơ sở nền tảng tạo thành cho đến đời sống sinh hoạt vật chất
lẫn tinh thần của cư dân Đông Nam Á.
Ở đây, đề tài không trình bày theo hệ thống tiến trình phát triển của lịch sử văn
hóa Đông Nam Á từ cổ chí kim, mà đề cập đến những thành tố cấu thành nên nền văn
hóa truyền thống Đông Nam Á đó. Trong đề tài này, được chia thành ba chương:
Chương I: Những yếu tố tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng”
Chương II: “Thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân
Đông Nam Á
Chương III: “Thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư
dân Đông Nam Á
Trong mỗi chương, đều có phần chú thích và hình ảnh minh hoạ cụ thể để làm rõ
nội dung đã được trình bày. Hy vọng rằng, đề tài này sẽ giúp bạn đọc có cái nhìn “tổng
thể về văn hóa Đông Nam Á”, một thực tế của nền văn hóa tương đồng và đa sắc thái,
mà chúng tôi dùng ý tưởng “thống nhất trong đa dạng” để đề cập đến. Bên cạnh đó,
chúng ta sẽ hiểu biết thêm về những người bạn láng giềng của mình, đã kết “thành hội
thành thuyền” trong quá trình phát triển, vươn lên theo xu thế khu vực và hội nhập thế
giới.
Tóm lại, văn hóa là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn, mà năng lực của người
viết lại có hạn, dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn cũng không tránh khỏi những

sai sót. Kính mong quý Thầy Cô và quý đồng nghiệp lượng thứ cho những sai sót và rất
mong đón nhận được nhiều ý kiến chỉ dẫn thêm.
PHẦN TÓM TẮT
Tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á, đề cập
đến nét chung và riêng của văn hóa Đông Nam Á, và cũng là một nét văn hóa đặc sắc,
tiêu biểu cho khu vực, đó là tương đồng và đa sắc thái, được thể hiện trên nhiều lĩnh
vực. Với vị trí địa lý thuận lợi, Đông Nam Á trở thành cửa ngõ giao lưu qua lại giữa
những nền văn minh lớn, nơi giao thương giữa các quốc gia, châu lục, là điều kiện thuận
lợi để cho các nước trong khu vực tiếp cận với thế giới bên ngoài. Bên cạnh đó, với khí
hậu nhiệt đới châu Á gió mùa, Đông Nam Á sớm có điều kiện phát triển nghề nông
trồng lúa và đã trở thành một nền kinh tế chính của khu vực. Đông Nam Á vốn có
chung cội nguồn về tộc người - từ một loại chủng Môngôlôit phương Nam (tiểu chủng
Đông Nam Á), sau quá trình tiếp cận và giao lưu đã tạo cho Đông Nam Á một khu vực
đa sắc tộc, đa ngôn ngữ. Các nhà nước, quốc gia Đông Nam Á từ khi ra đời cho đến
nay, có sự thay đổi lớn về ranh giới, địa phận ở mỗi quốc gia, tuy ở những phương diện
khác nhau nhưng tất cả các nước đều có chung hoàn cảnh lịch sử nên dễ dàng thông
cảm cho nhau trong quá trình phát triển, vươn lên và hội nhập.
Với nền tảng như thế, cho nên đã hình thành trong nếp sống của cư dân Đông
Nam Á những phương thức sinh hoạt từ thức ăn, trang phục, nhà ở đến các công trình
kiến trúc và điêu khắc đồ sộ, đều có những nét chung với nhau, dựa trên nền tảng của cơ
tầng văn hóa bản địa, của cư dân nông nghiệp lúa nước, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng
rất lớn từ nền văn hóa lớn của hai quốc gia láng giềng là Ấn Độ và Trung Hoa. Từ xa
xưa, đời sống tâm linh của cư dân Đông Nam Á, đã được quan tâm đến bằng những tín
ngưỡng bản địa đặc sắc, bên cạnh đó, với sự du nhập của các tôn giáo từ bên ngoài vào,
đã được người dân ở đây tiếp nhận và hòa trộn với nền văn hóa bản địa, đáp ứng được
nhu cầu và nguyện vọng của họ. Là cư dân nông nghiệp lúa nước, cho nên, các dân tộc
Đông Nam Á có các lễ hội và phong tục tập quán vừa mang bản sắc riêng đa sắc màu,
vừa mang dáng dấp chung của nền nông nghiệp trồng lúa nước. Các hoạt động này vừa
giúp cho cư dân thoả mãn những nhu cầu về đời sống tâm linh, vừa kèm theo các hình
thức vui chơi, giải trí, nhằm tạo một không khí đoàn kết và thân thiện lẫn nhau giữa các

con người trong một cộng đồng chung, làng xóm nói riêng, cả khu vực nói chung. Một
hình thức giải trí khác cũng không kém phần hấp dẫn đối với cư dân Đông Nam Á, đó
là nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống, và do các nước có sự tiếp cận, giao lưu
và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cho nên nền nghệ thuật truyền thống của mỗi nước
vừa có nét tương đồng về nội dung lẫn phương pháp vừa có sự đa dạng về hình thức
biểu diễn.
Nhìn chung, văn hóa truyền thống Đông Nam Á, dựa trên nền tảng của nên nông
nghiệp lúa nước, đã tạo ra cho cư dân ở đây một đời sống sinh hoạt cả vật chất lẫn tinh
thần đều vô cùng độc đáo, vừa mang tính thống nhất vừa mang tính đa dạng, một sắc
thái rất riêng Đông Nam Á.
DANH SÁCH CÁC BIỂU BẢNG, HÌNH ẢNH MINH HỌA

Danh sách biểu bảng:
Biểu bảng 1: Tộc người chủ thể và tỷ lệ đạt được so với tổng dân số trong nước
ở các nước Đông Nam Á
Biểu bảng 2: Tình hình tôn giáo ở các nước trong khu vực Đông Nam Á
Danh sách hình ảnh minh họa:
Hình 1: Bản đồ các quốc gia Đông Nam Á
Hình 2: Bản đồ vương quốc Hồi giáo Brunây
Hình 3: Bản đồ vương quốc Cămpuchia
Hình 4: Bản đồ Cộng hòa Dân chủ Đông Timo
Hình 5: Bản đồ Cộng hòa Inđônêxia
Hình 6: Bản đồ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Hình 7: Bản đồ Liên bang Malaixia
Hình 8: Bản đồ Liên bang Mianma
Hình 9: Bản đồ Cộng hòa Philippin
Hình 10: Bản đồ Cộng hòa Xingapo
Hình 11: Bản đồ vương quốc Thái Lan
Hình 12: Bản đồ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Hình 13: Núi lửa ở Philippin

Hình 14: Ruộng bậc thang ở Sapa - Việt Nam
Hình 15: Đoạn sông Mê Kông từ Cămpuchia chảy về Việt Nam
Hình 16: Cánh đồng lúa chín ở Việt Nam
Hình 17: Bờ biển của đất nước Đông Timo
Hình 18: Bữa cơm truyền thống của gia đình người Việt (cơm - rau - cá)
Hình 19: Cơm lam của người Lào và một số dân tộc ở Việt Nam
Hình 20: Nasi goreng (cơm rang) của tộc người Melayu
Hình 21: Nasi ulam (cơm rau sống) của tộc người Melayu
Hình 22: Mắm bò hóc của người Campuchia
Hình 23: Solok Cili (ớt xanh nhồi cá băm nhuyễn hấp) của người Mã Lai
Hình 24: Bánh Ketupat trong lễ hội - lễ tết của người Mã Lai
Hình 25: Bánh chưng, bánh tét trong ngày Tết của dân tộc Việt và một số dân
tộc Đông Nam Á khác
Hình 26: Nam cởi trần đóng khố
Hình 27: Trang phục ngày Tết của phụ nữ H’mông
Hình 28: Chiếc áo yếm của nhiều dân tộc Đông Nam Á
Hình 29: Trang phục truyền thống của người Mianma
Hình 30: Trang phục truyền thống của người Việt Nam
Hình 31: Nhà sàn người Thái
Hình 32: Nhà dài của người Ê Đê
Hình 33: Nhà hình thuyền
Hình 34: Nhà đất
Hình 35: Nhà hiện đại
Hình 36: Thánh địa Mỹ Sơn ở Việt Nam
Hình 37: Ngôi đền Bôrôbuđua ở Inđônêxia
Hình 38: Đền Ăngco Vát ở Cămpuchia
Hình 39: Đền Bayon của Angkor Thom ở Cămpuchia
Hình 40: Chùa tháp ở Pagan - Mianma
Hình 41: Cung điện Hoàng gia ở Băng Cốc - Thái Lan
Hình 42: Thạt Luổng ở Viên Chăn - Lào

Hình 43: Pho tượng Phật bằng đồng ở Đồng Dương (Quảng Nam - Việt Nam)
Hình 44: Bức phù điêu về Đức Phật của ngôi đền Bôrôbuđua ở Inđônêxia
Hình 45: Nụ cười đền Bayon ở Ăngco Thom - Cămpuchia
Hình 46: Vũ nữ Apsara ở đền Ăngco Vát
Hình 47: Bức phù điêu ở đền Sukhôthay - cố đô Thái
Hình 48: Những chạm khắc hình lá bao quanh Thạt Luổng ở Lào
Hình 49: Tượng phật bằng vàng tại chùa Mahamuni
Hình 50: Một trong 18 vị La Hán chùa Tây Phương - Hà Nội
Hình 51: Bia Võ Cạnh (Khánh Hòa) xác định chữ Sanskrit và Pali vào Chăm Pa
sớm nhất
Hình 52: Chữ Khơ Me (Sanskrit) được ghi ở đền Ăngco Vát của Cămpuchia
Hình 53: Bộ sách chữ Thái cổ
Hình 54: Di sản chữ Nôm (tiếp thu từ chữ Hán) của người Việt
Hình 55: Tục thờ sinh thực khí “nõ - nường” ở Phú Thọ - Việt Nam
Hình 56: Tín ngưỡng phồn thực được thể hiện trên những bức tượng điêu khắc
Hình 57: Tín ngưỡng phồn thực thể hiện ở Nhà mồ Tây Nguyên
Hình 58: Tượng thờ Linga và Yoni ở Mỹ Sơn - Việt Nam
Hình 59: Bàn thờ tổ tiên trong gia đình người Việt
Hình 60: Ấn Độ giáo thời ba vị thần Brama, Visnu và Siva
Hình 61: Tượng của Đức Phật được rắn thần Naga bảo vệ
Hình 62: Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Trần Chiến Thắng cũng
tham gia những đường cày đầu tiên trong Lễ hội xuống đồng ở Lào Cai -
Việt Nam
Hình 63: Lễ hội Té nước ở Thái Lan, Cămpuchia
Hình 64: Lễ hội Loi Krathồng (thả đèn trong một cái chén lá) ở Thái Lan
Hình 65: Hội đền Hai bà Trưng
Hình 66: Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của người Khơ Me
Hình 67: Tết cổ truyền người Lào
Hình 68: Hát quan họ trên thuyền quanh giếng Ngọc - Cổ Loa
Hình 69: Chơi đu - trò chơi dân gian không thể thiếu được trong ngày hội

Hình 70: Cô gái duyên dáng trong thi thổi cơm
Hình 71: Tục cướp dâu của dân tộc H’mông ở Việt Nam
Hình 72: Đêm chợ tình ở Sa Pa - Lào Cai (Việt Nam)
Hình 73: Lễ cưới truyền thống ở Việt Nam
Hình 74: Trầu để nhai
Hình 75: Trầu cau trong ngày cưới
Hình 76: Đua thuyền rồng tại Băng Cốc - Thái Lan
Hình 77: Chọi gà ở một làng quê Việt Nam
Hình 78: Thi thả diều quốc tế ở Việt Nam
Hình 79: Bịt mắt bắt dê
Hình 80: Kéo co
Hình 81: Ô lò cò
Hình 82: Rối bóng ở Malaixia - Xingapo
Hình 83: Rối nước
Hình 84: Wayang Topeng (múa mặt nạ) ở Giava - Inđônêxia
Hình 85: Wayang Wong (múa mặt nạ) ở Bali - Inđônêxia
Hình 86: Múa Lakhon của người Thái
Hình 87: Sân khấu Mayong ở Malaixia
Hình 88: Lakhon Basac của người Cămpuchia
Hình 89: Hát Dù kê của người Khơ Me Nam Bộ Việt Nam
Hình 90: Cờ ASEAN
Hình 91: Ban lãnh đạo các nước ASEAN
Hình 92: Cờ biểu trưng ASEAN 2010
Hình 93: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắt tay thân mật với Quốc vương Brunây
Haji Hassanal Bolkiah
Hình 94: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Cămpuchia Hun Sen
duyệt đội danh dự Quân đội Nhân dân Việt Nam
Hình 95: Tổng thống Inđônêxia Susilo Bambang Yudhoyono tiếp Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng
Hình 96: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Tổng bí thư, Chủ tịch nước Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào Chummaly Sayason
Hình 97: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Malaixia Abdul Razak
Hình 98: Chủ tịch hội đồng quốc gia Mianma Than Shwe tiếp Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng
Hình 99: Tổng thống Philippines Gloria Arroyo tiếp Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng
Hình 100: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Thái Lan Abhisit
Vejjajiva
Hình 101: Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đón Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết
Hình 102: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đón tiếp Bộ trưởng Công thương và Du
lịch Đông Ti-mo Gil da Costa AN. Alves
Hình 103: Đông Nam Á không còn là một vùng bị chia rẽ mà sẽ gắn kết trong tổ
chức ASEAN hội nhập vào quốc tế
Hình 104: Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC 2006
Hình 105: Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy nâng cốc chúc mừng vị thế thành
viên thứ 150 của Việt Nam
VIẾT TẮT
Viết tắt theo tiếng Anh:
APEC: Asia Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN: Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM: The Asia Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
SEAMEO: Southeast Asian Ministers of Education Organization
Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á
WTO: World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới
Viết tắt theo tiếng Việt:

CN: Công Nguyên
CNXHKH: Chủ nghĩa Xã hội Khoa học
KHXH Khoa học Xã hội
KHXH & NVQG: Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia
NXB: Nhà xuất bản
TC: Tạp chí
T.CN: Trước Công Nguyên
Sđd: Sách đã dẫn
MỞ ĐẦU
I. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
1. Mục tiêu
Đề tài tập trung khai thác những yếu tố tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng”
của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Trong đó, đề tài sẽ làm rõ những yếu tố như
điều kiện tự nhiên; dân tộc và ngôn ngữ; nền kinh tế truyền thống và tiến trình phát triển
lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á. Từ đó, đi đến khẳng định, đây là cơ sở tạo nên
tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á.
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa
dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á qua các mặt: thức ăn, trang
phục, nhà ở, kiến trúc và điêu khắc. Qua đó, đề tài đi đến khẳng định: đời sống văn hóa
vật chất của cư dân Đông Nam Á rất đa dạng, tuy nhiên trong nền văn hóa đó đều thể
hiện những nét tương đồng, thống nhất trong chiều sâu cuộc sống của họ.
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa
dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Đông Nam Á qua các mặt: chữ viết, tín
ngưỡng - tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán và nghệ thuật biểu diễn sân khấu. Từ
đó, đề tài sẽ rút ra những điểm tương đồng và khác biệt về đời sống văn hóa tinh thần -
nét đặc trưng nổi bật trong đời sống văn hóa truyền thống ở các quốc gia Đông Nam Á.
2. Nội dung nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu gồm ba phần:
Phần 1: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu khai thác những khía cạnh để tạo nên tính
“thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á.

Trước tiên, đề tài sẽ đi vào xem xét về điều kiện tự nhiên, như các mặt: vị trí địa
lý, địa hình, khí hậu và động, thực vật ở Đông Nam Á. Bên cạnh đó, yếu tố dân tộc và
ngôn ngữ cũng là những điều kiện cần thiết tạo nên tính đặc trưng của nền văn hóa này.
Xuất phát từ một nguồn nhân chủng Môngôlôit phương Nam, qua quá trình giao lưu và
lan tỏa, đã hình thành nên những tộc người khác nhau ở Đông Nam Á. Đồng thời, có
chung một nguồn gốc ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử, dần dần cũng hình thành nên
những ngữ hệ khác nhau trong khu vực. Nền kinh tế truyền thống cũng là yếu tố cực kỳ
quan trọng tạo nên đặc trưng văn hóa khu vực, đặc biệt là nghề nông trồng lúa. Sau
cùng, sự tương đồng trong tiến trình lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á cũng là một
trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên tính tương đồng trong văn hóa truyền
thống Đông Nam Á.
Phần 2: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất
trong đa dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á: thức ăn, trang
phục, nhà ở, kiến trúc và điêu khắc.
Trong bữa ăn truyền thống của cư dân Đông Nam Á chủ yếu là ăn cơm, rau, cá
hay thịt. Từ gạo, cư dân Đông Nam Á đã chế biến ra nhiều loại thức ăn khác hay các
loại bánh để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày và lễ hội. Còn về trang phục
truyền thống của cư dân Đông Nam Á là nam đóng khố, nữ mặc váy, cởi trần, dần về
sau y phục có sự thay đổi cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng: yếm, áo chui,
quần, váy… Tùy mỗi quốc gia, dân tộc mà trang phục truyền thống của họ hoặc thêm
vào hay bớt đi, tạo nên bức tranh muôn màu trong trang phục cư dân Đông Nam Á. Về
nhà ở, kiểu nhà sàn là kiểu nhà truyền thống, đồng thời, nhà hình thuyền, nhà đất, nhà
1
Phần 3: đề tài tập trung khai thác những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa
dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Đông Nam Á: chữ viết, tín ngưỡng - tôn
giáo, lễ hội và phong tục tập quán, nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống.
Về chữ viết Đông Nam Á chịu ảnh hưởng sâu sắc của chữ Ấn Độ (chữ Sanskrit
và Pali), Trung Quốc (chữ Hán), dần dần họ tạo ra nhiều kiểu chữ viết riêng cho dân tộc
mình, và chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, các loại chữ Latinh đã ra đời ở các
quốc gia Đông Nam Á. Về hệ thống tín ngưỡng, xuất phát từ một nền nông nghiệp lúa

nước, cư dân các nước Đông Nam Á có những tín ngưỡng tương tự nhau: sùng bái tự
nhiên, phồn thực, thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh đó, các tôn giáo từ bên ngoài: Phật giáo,
Hồi giáo, Thiên Chúa giáo được truyền bá vào Đông Nam Á, và được cư dân Đông
Nam Á tiếp nhận và biến tấu cho phù hợp với tín ngưỡng bản địa. Với các lễ hội: nông
nghiệp, tôn giáo, lễ Tết là những lễ hội truyền thống gắn liền với nền nông nghiệp lúa
nước của các quốc gia Đông Nam Á. Còn về phong tục tập quán: cưới xin, tang ma,
nhai trầu, hay các trò chơi dân gian: thả diều, bơi thuyền, chọi gà… cũng được cư dân
Đông Nam Á bảo lưu và phát huy các giá trị vốn có của nó. Loại hình nghệ thuật sân
khấu truyền thống: rối bóng, rối nước, kịch múa, kịch hát… cũng được giữ gìn và bảo
tồn nét văn hóa đặc sắc của cư dân vùng Đông Nam Á.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng
Đề tài nghiên cứu tính “thống nhất trong đa dạng” về các mặt trong đời sống vật
chất như ăn, mặc, ở, kiến trúc và điêu khắc, đồng thời về các mặt trong đời sống tinh
thần như chữ viết, tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội - phong tục tập quán, nghệ thuật sân
khấu biểu diễn của các quốc gia Đông Nam Á. Bên cạnh đó, đề tài còn nghiên cứu các
tiền đề quan trọng tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của nền văn hóa truyền thống
Đông Nam Á: điều kiện tự nhiên, dân tộc và ngôn ngữ, nền kinh tế truyền thống và tiến
trình phát triển lịch sử của mỗi nước trong khu vực.
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về nền văn hóa truyền thống ở các quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á, biểu hiện trên lĩnh vực văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần: từ
ăn, mặc, ở, kiến trúc và điêu khắc đến chữ viết, tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội và phong
tục tập quán, nghệ thuật diễn xướng từ khi có mặt ở các quốc gia Đông Nam Á cổ đại và
còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên, đề tài không tập trung nghiên cứu sự phát
triển của các mặt trong đời sống văn hóa vật chất lẫn tinh thần theo tiến trình phát triển
của lịch sử, mà ở đây, khái quát những đặc điểm nổi bật của các thành tố cấu thành nên
nền văn hóa đó và rút ra những điểm tương đồng lẫn khác biệt để giải quyết vấn đề đã
đặt ra trong đề tài. Đề tài tập trung nghiên cứu các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á
(Cămpuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, Mianma, Malaixia, Inđônêxia, Philippin,

Xingapo, Brunây, Đông Timo). Tuy nhiên, ở các quốc gia Đông Nam Á này, có những
quốc gia mới giành tự chủ sau này như Xingapo, Brunây, hay Đông Timo mới tách khỏi
Inđônêxia (năm 2002). Do vậy, văn hóa của các nước này thường được nhắc đến và hòa
chung vào văn hóa tộc người Mã Lai hay văn hóa Inđônêxia, cho nên, khi tiếp xúc với
đề tài, thường thấy vắng bóng các quốc gia trên là lẽ tất nhiên.
2
III. Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào phương pháp luận sử học theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và
phương pháp lôgíc.
Trên cơ sở tìm hiểu thực tế các mô hình về văn hóa Đông Nam Á như ở Viện
bảo tàng Dân tộc học, cùng với việc tiếp cận và theo dõi những thông tin, tư liệu trên
internet, truyền hình…
Sử dụng những phương pháp chuyên ngành Lịch sử: thu thập, xử lí tư liệu, tổng
hợp, thống kê, chọn lọc, phân tích, so sánh, đối chiếu… để làm thỏa đáng vấn đề đã đặt
ra trong đề tài.
IV. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tình hình nghiên cứu trong nước
Trong nhiều năm trở lại đây, văn hóa Đông Nam Á đã được nhiều học giả quan
tâm nghiên cứu, tuy nhiên đến nay, vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên
cứu về tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Hiện
nay, vấn đề về tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á
được một số tác giả đề cập trên một số công trình cụ thể:
Tác giả Phan Hữu Dật (chủ biên) với quyển “Văn hóa lễ hội của các dân tộc
Đông Nam Á”, năm 1992, với phần đầu của tác phẩm có đề cập đến, Đông Nam Á:
thống nhất trong đa dạng, sau đó, giới thiệu chi tiết những lễ hội truyền thống của các
quốc gia: Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Mianma, Malaixia, Xingapo, Philippin,
Inđônêxia.
Quyển “Phong tục các dân tộc Đông Nam Á” do Ngô Văn Doanh và Vũ Quang
Thiện (chủ biên), năm 1997, giới thiệu các phong tục như ăn, ở, mặc, hôn nhân, tín

ngưỡng ở một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Bài viết “Những suy nghĩ về tính thống nhất của văn hóa Đông Nam Á” của
Phan Ngọc trong quyển “Việt Nam - Đông Nam Á: Quan hệ Lịch sử và văn hóa”, của
Viện Đông Nam Á, năm 1998, tác giả có đề cập một cách khái quát về tính thống nhất
của một số thành tố văn hóa của cư dân Đông Nam Á.
Quyển “Văn hóa Đông Nam Á” của Mai Ngọc Chừ, năm 1999, đã trình bày một
cách hệ thống một số thành tố của văn hóa Đông Nam Á như: ăn uống, các trò giải trí,
nghệ thuật tạo hình, hơn nữa, tác phẩm còn đề cập đến các giai đoạn phát triển và những
thành tựu lớn của văn hóa truyền thống Đông Nam Á.
Quyển: “Nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á” của Nguyễn Phan Thọ, năm
1999, đây là một tài liệu chuyên khảo về nghệ thuật truyền thống của các nước trong
khu vực Đông Nam Á. Trong quyển sách này, tác giả trình bày đến quá trình hình thành
và phát triển của các loại hình nghệ thuật truyền thống cũng như những nền tảng tạo nên
sự đồng nhất trong đa dạng của nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á.
Quyển “Những tương đồng giữa các lễ hội cổ truyền Đông Nam Á” của Trần
Bình Minh, năm 2000, đã đề cập đến những lễ hội lớn trong khu vực Đông Nam Á.
Trong quyển sách này, tác giả đã tập trung so sánh những nét tương đồng trong lễ hội cổ
truyền của người Việt ở đồng bằng và trung du Bắc bộ (Việt Nam) với một số quốc gia
trong khu vực.
3
Hai tác giả Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương, với quyển “Văn hóa
Đông Nam Á”, năm 2001, khái quát về tình hình nghiên cứu Đông Nam Á, nền văn hóa
bản địa của cư dân nông nghiệp; sự hình thành các nền văn hóa quốc gia dân tộc trong
quá trình tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc và văn hóa phương Tây; cùng với
văn hóa Đông Nam Á trong thời kỳ lịch sử hiện đại.
Bài viết “Văn hóa truyền thống Đông Nam Á” trong quyển “Lịch sử văn hóa thế
giới cổ trung đại” do Lương Ninh chủ biên, năm 2003, bài viết khái quát lịch sử cổ -
trung đại Đông Nam Á, đồng thời, nêu lên một số đặc điểm về văn hóa Đông Nam Á
như tôn giáo, lễ hội, chữ viết, văn học, kiến trúc và điêu khắc.
Quyển “Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam bộ và Đông Nam Á” của tác

giả Ngô Văn Lệ, năm 2003, trong tác phẩm giới thiệu sơ nét về tính “thống nhất trong
đa dạng” của Đông Nam Á nhìn từ khía cạnh trang phục, tổ chức gia đình, công xã.
Quyển “Văn hóa Đông Nam Á” của Nguyễn Tấn Đắc, năm 2003, giới thiệu về
khu vực văn hóa Đông Nam Á, các nhóm chủng tộc và ngôn ngữ, tiếp đến là những nền
tảng cơ bản của văn hóa khu vực là nông nghiệp và thương nghiệp. Ngoài ra, tác giả còn
đề cập đến văn hóa hiện nay ở một số nước thông qua hệ ý thức và bảng giá trị của các
nước Đông Nam Á, cuối cùng, tác giả tổng hợp Đông Nam Á và văn hóa Đông Nam Á,
quá trình nhận thức khu vực Đông Nam Á.
Đề tài cấp Bộ: “Cộng đồng Melayu một số vấn đề văn hóa” do Mai Ngọc Chừ
chủ nhiệm, năm 2004, giới thiệu về văn hóa phục vụ đời sống như ăn, ở, mặc; tôn giáo -
tín ngưỡng; một số phong tục tập quán và ngôn ngữ; nghệ thuật của cộng đồng Melayu.
Đinh Trung Kiên với quyển “Tìm hiểu nền văn minh Đông Nam Á”, năm 2007,
tác giả giới thiệu về sự ra đời, phát triển và những thành tựu rực rỡ của nền văn minh
Đông Nam Á, tiêu biểu là tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội, phong tục tập quán, kiến trúc, hội
họa, điêu khắc.
Quyển “Tri thức Đông Nam Á” của hai tác giả Lương Ninh và Vũ Dương Ninh
(chủ biên), năm 2008, giới thiệu về Đông Nam Á đại cương: địa lý, lịch sử, văn hóa và
các nước Đông Nam Á cụ thể, trong đó quyển sách cung cấp cho người đọc những kiến
thức cơ bản về các quốc gia Đông Nam Á từ cổ đại cho đến đương đại.
Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Unity in Diversity Regional Identity Building in Southeast Asia (Thống nhất
trong đa dạng: xây dựng bản sắc khu vực Đông Nam Á) do Kristina Jonsson là một viên
nghiên cứu của Trung tâm Đông và Đông Nam châu Á học, năm 2008, tại Đại học
Lund, Thụy Điển. Nội dung của bài viết là vấn đề khu vực và xây dựng bản sắc văn hóa
Đông Nam Á, khu vực Đông Nam Á trong sự thống nhất.
Diversity and Unity in Southeast Asia (Sự đa dạng và thống nhất ở Đông Nam
Á), do Jan o. M. Broekp, Đại học California, Berkeley. Nội dung chứng minh được thời
kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Đông Nam châu Á vào nửa đầu của năm 1940. Vào đầu
thập kỷ này, vùng đất giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Úc, với ngoại lệ của nhà nước Thái
Lan đệm, đều dưới sự kiểm soát trực tiếp của các nước phương Tây.

Qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trên cho thấy, chưa có công trình
nào nghiên cứu đi vào một cách có hệ thống về tính “thống nhất trong đa dạng” của văn
hóa truyền thống Đông Nam Á. Dựa trên thành quả nghiên cứu của người đi trước, tác
giả sẽ hệ thống một cách khái quát về các thành tố cấu thành nên nền văn hóa trên.
4
NỘI DUNG
Chương I
NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG”
I. Điều kiện tự nhiên Đông Nam Á
Con người sinh ra và lớn lên trong tự nhiên, được tự nhiên nuôi dưỡng cho nên
con người luôn luôn gắn bó với tự nhiên. Chính vì thế, “mối quan hệ giữa con người và
tự nhiên cũng là một mặt cơ bản của đời sống văn hóa” (Trần Quốc Vượng, 1997: 17).
Có thể nói, theo cách nói của Mai Ngọc Chừ: “điều kiện tự nhiên, môi trường tự nhiên
của một khu vực chắc chắn có một ảnh hưởng nhất định đến đời sống văn hóa của con
người trong khu vực đó” (Mai Ngọc Chừ, 1999: 15). Chính vì vậy, trước khi đi vào các
mặt của đời sống văn hóa, chúng ta lại bắt đầu từ điều kiện tự nhiên của khu vực.
1. Vị trí địa lý
Trên bản đồ thế giới, Đông Nam Á nằm trong một phạm vi khá rộng phía đông
nam lục địa Á - Âu.
Xét về mặt địa lý tự nhiên, diện tích Đông Nam Á khoảng 4,5 triệu km
2
, trải ra
trên một không gian khá rộng (bao gồm cả biển và đất liền), nằm trong cùng một phạm
vi khoảng từ 92
0
đến 140
0
kinh Đông, và khoảng từ 28
0
vĩ Bắc chạy qua xích đạo đến

15
0
vĩ Nam, như một “ngã tư đường” của các châu lục lớn. Khu vực này gồm hai bộ
phận: bán đảo Trung - Ấn và quần đảo Mã Lai, là một quần thể gồm: các đảo, bán đảo,
quần đảo và các vịnh trong vùng biển xen kẻ với nhau rất phức tạp chạy dài suốt từ Thái
Bình Dương đến Ấn Độ Dương, với sự phân tán của những quần đảo uốn cong có số
lượng đảo nhiều và lớn nhất thế giới (chủ yếu ở hai quốc gia Inđônêxia, Philippin).
Chính vì thế, đã tạo cho Đông Nam Á có một vị trí chiến lược quan trọng, vừa nằm giữa
và gần hai quốc gia rộng lớn, với hai nền văn minh lâu đời, rực rỡ vào bậc nhất châu Á
và thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ, vừa gần với cường quốc kinh tế Nhật Bản, nằm
trên tuyến đường biển quốc tế quan trọng, giữa châu Úc với các quốc gia nằm ở phía
bắc là Hàn Quốc, Triều Tiên, Trung Quốc, Butan, Bănglađét, Nêpan.
Về mặt địa lý hành chính hiện đại, Đông Nam Á bao gồm 11 quốc gia: các quốc
gia nằm ở hải đảo gồm Inđônêxia, Xingapo, Philippin, Brunây, Đông Timo; các quốc
gia nằm ở lục địa gồm Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Mianma; và quốc gia
Malaixia là vừa hải đảo vừa lục địa.
Với vị trí đó, Đông Nam Á sớm trở thành khu vực có ý nghĩa và tầm quan trọng
lớn trên nhiều bình diện, đồng thời là điều kiện thuận lợi để các nước trong khu vực tiếp
cận, trao đổi với các nền văn hóa bên ngoài từ Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập đến châu Âu,
để sáng tạo cho mình một nền văn hóa rộng lớn, đặc sắc và thấm đậm tinh thần khu vực.
2. Địa hình
Đông Nam Á là khu vực có địa hình phong phú, với núi rừng, đồng bằng và biển
cả, được nối với nhau bằng hệ thống sông ngòi chằng chịt đầy nước, cho nên văn hóa
Đông Nam Á là một chỉnh thể thống nhất của ba yếu tố: văn hóa núi, văn hóa đồng bằng
và văn hóa biển. Ở mỗi yếu tố văn hóa tự mang trong mình những đặc trưng riêng của
chủ nhân nó. Những yếu tố: núi, biển và đồng bằng được tạo nên và chi phối chặt chẽ
bởi những đặc điểm địa hình vô cùng độc đáo nơi đây, bởi, Đông Nam Á hải đảo hay
lục địa đều có sự đan xen mang tính hệ thống giữa đồi núi, đồng bằng và sông biển, mà
5
Ở khu vực thuộc bán đảo Trung - Ấn, có các cao nguyên rộng lớn, từ cao

nguyên Shan (Mianma), Khorat (Thái Lan), Bôlôven, Khăm Muộn (Lào) đến Tây
Nguyên (Việt Nam), rồi vươn ra biển làm cho các dòng sông lớn cũng bắt nguồn từ các
núi rừng rộng lớn. Với hệ thống sông ngòi dày đặc, cũng bắt nguồn từ bán đảo Trung -
Ấn: sông Mê Kông dài 4.500km (đoạn chảy vào khu vực Đông Nam Á dài 2.600km),
sông Xaluen dài 3.200km, Iraoađi dài 2.150km, sông Mê Nam dài 1.200km, sông Hồng
dài 1.126km. Còn ngược lại, các con sông trên quần đảo Mã Lai như ở Inđônêxia,
Philippin, thậm chí cả Malaixia đều ngắn và dốc, có giá trị khai thác thủy điện cao.
Sông ngòi ở Đông Nam Á không chỉ có giá trị về mặt giao thông mà chủ yếu là tạo nên
các vùng châu thổ màu mỡ phù sa. Thông thường, tương ứng với các con sông lớn là
các vùng châu thổ rộng lớn, như vùng Hạ Mianma; châu thổ Mê Nam (Thái Lan); châu
thổ Mê Kông (Cămpuchia, Việt Nam…); châu thổ sông Hồng (Việt Nam). Từ bán đảo
Đông Dương qua Thái Lan đến Mianma, cảnh quan tự nhiên của vùng là những châu
thổ xen kẽ với đồi núi, rừng rậm kéo dài từ phía bắc xuống phía nam ra biển, núi rừng
và bình nguyên ở Đông Nam Á bao phủ các đảo, quần đảo ở phía đông, đông nam với
trữ lượng lớn về tài nguyên.
Sang quần đảo Mã Lai, các quốc gia Inđônêxia và Philippin có các dãy núi uốn
nếp xen các núi lửa với cao nguyên núi lửa, còn các đồng bằng thường phân bố dọc theo
các miền duyên hải hoặc trong các thung lũng giữa núi. Đồng bằng ở hải đảo thường
nhỏ hẹp hơn so với khu vực lục địa, tuy nhiên, so với khu vực Đông Nam Á lục địa, địa
hình đồi núi ở các nước hải đảo lại có phần quy mô hơn, trong đó địa hình núi lửa trở
thành một yếu tố nổi bật trong cảnh quang thiên nhiên của khu vực này. Hầu hết các
đỉnh núi cao nhất ở Inđônêxia và Philippin đều là những núi lửa đang hoạt động hoặc đã
tắt, như núi Kerinsi ở Xumatơra, Semera ở Giava, Rantemario ở Xulavêxi, Anpô trên
đảo Minđanao (Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). Đông Nam Á là khu vực có
nhiều quần đảo vào bậc nhất thế giới, tập trung chủ yếu ở hai quốc gia: Inđônêxia
(17.508 hòn đảo) và Philippin (7.107 hòn đảo). Biển và vịnh ở Đông Nam Á kéo dài từ
vùng biển Đông, bán đảo Đông Dương hướng ra Thái Bình Dương đến vịnh Inđônêxia
của Ấn Độ Dương. Đảo và quần đảo với những vịnh lớn, nhỏ, cùng với những eo biển
nổi tiếng lâu đời đã tạo nên bức tranh thiên nhiên đa sắc và hùng vĩ của Đông Nam Á.
Đó chính là những nét chung, thống nhất về mặt địa hình các quốc gia Đông

Nam Á. Bên cạnh những nét chung đó, ở mỗi quốc gia lại chứa đựng những nét riêng,
khác biệt tạo nên cảnh sắc đa dạng, muôn màu muôn vẻ trong toàn khu vực.
3. Khí hậu
Đông Nam Á có vị trí địa lý khá quan trọng ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, nơi có đường xích đạo chạy qua, cho nên cùng chịu ảnh hưởng chủ yếu của khí
hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết đặc trưng của khu vực châu Á.
Đặc điểm chung của vùng này là tính chất bán đảo và điều kiện hoàn lưu gió
mùa, tạo cho Đông Nam Á, một khu vực “châu Á gió mùa” bởi đặc trưng nổi bật của
khí hậu nóng và ẩm, với hai mùa được hình thành khá rõ là mùa khô và mùa mưa trong
năm. Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu thì Đông Nam Á có độ ẩm cao nhất thế
giới (trên 80% - 90%), vì có đường xích đạo chạy qua. Do có đường bờ biển dài bao
quanh khiến lượng nước bốc hơi trên đất liền luôn dư thừa (Sakurai Yumlo, 1996), tạo
nên khí hậu nóng ẩm (nhiệt độ trung bình từ 20 - 27
0
C) và mưa nhiều (lượng mưa từ
1.500 đến 3.000mm/năm) (Phan Ngọc Liên, 2002). Mặc dù, khu vực Đông Nam Á cùng
6
Tuy nhiên, người ta phân chia khí hậu Đông Nam Á thành hai đới khác nhau
(Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008), vừa tạo nên tính đa dạng vừa tạo nên tính
thống nhất về khí hậu nơi đây:
Đới khí hậu xích đạo: tạo thành một dải dọc theo đường xích đạo, bao gồm các
đảo Xumatơra, Calimantan, Xulavêxi, phần tây các đảo Giava, Irian, phần nam bán đảo
Malacca và đảo Minđanao. Đới khí hậu cận xích đạo (đới gió mùa xích đạo): gồm hai
đới nằm ở phía bắc và phía nam đới khí hậu xích đạo. Trong đó, đới nằm ở phía bắc bao
gồm: phần lớn bán đảo Trung - Ấn và gần như toàn bộ quần đảo Philippin; còn đới ở
phía nam gồm toàn bộ quần đảo nằm ở phía đông của đảo Giava. Ở các đới khí hậu này,
một năm có hai mùa rõ rệt: mùa hạ
(1)
và mùa đông
(2)

.
Nhìn tổng thể, địa hình - khí hậu Đông Nam Á khá thuận lợi cho cuộc sống của
con người, nhất là ngay trong buổi đầu bình minh lịch sử, chính vì vậy, Phan Ngọc
Liên, Nghiêm Đình Vỳ, Đinh Ngọc Bảo, Trần Thị Vinh (2002) đã khẳng định:
Những mùa mưa ổn định với khí hậu không quá gay gắt về cả nhiệt độ
và lượng mưa, địa bàn sinh tụ nhỏ nhưng hết sức phong phú, đa dạng kết
hợp rừng - suối, đồi ruộng, có biển, có đồng bằng, đã tạo nên những không
gian lí tưởng cho cuộc sống của con người thời cổ, điều đó giải thích vì sao,
từ rất cổ xưa, con người đã đến đây sinh sống.
Tóm lại, “điều kiện nóng ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là hằng số tự nhiên của
văn hóa Đông Nam Á, và chính nó đã góp phần tạo nên nét đặc trưng của văn hóa Đông
Nam Á - một nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng” của khu vực” (Mai Ngọc Chừ,
1999: 17).
4. Động và thực vật
Với điều kiện khí hậu như đã nói trên sẽ gắn chặt với sự sinh tồn và phát triển
của giới động, thực vật ở khu vực Đông Nam Á. Thật vậy, với rừng tự nhiên đa dạng,
mang nhiều màu sắc, cho nên thành phần trong giới động vật ở khu vực Đông Nam Á
cũng rất phong phú và đa dạng về chủng loài. Trong rừng nhiệt đới ẩm thường xanh
(2)

có khỉ, đười ươi, vượn, heo vòi, nhiều loài chim và bò sát… Trong rừng gió mùa, rừng
thưa và xavan cây bụi
(3)
tập trung nhiều động vật ăn cỏ, ăn lá cây và động vật ăn thịt.
Đáng chú ý là có trâu rừng, linh dương, nai, bò tót, bò xám, tê giác một sừng, voi, hổ,
báo… Tất cả các loài này phân bố rộng, có ở cả bán đảo Trung - Ấn và vùng đảo Mã
Lai. Ngày nay, nhiều loài động vật quý như hổ, báo, bò rừng, tê giác… bị suy giảm
nhanh và có nguy cơ bị tuyệt chủng vì con người săn bắn bừa bãi và diện tích rừng bị
thu hẹp (Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). Ngoài ra, Đông Nam Á còn được coi
là một “viện bảo tàng chim thú” - thiên đường của các nhà động vật học, với những loài

chim ở đây có giá trị lớn về nhiều mặt như kinh tế, khoa học, sản xuất, văn hóa - xã hội
(Phan Ngọc Liên, 2002).
Nhà địa lý - thực vật học người Mỹ C.O Sauer, cho rằng: Đông Nam Á là nơi
phát sinh trồng trọt sớm vì đó là một vùng nhiệt đới với tính đa dạng cao về thực vật
cũng như cảnh quan địa mạo, sinh thái mà không một nơi nào sánh kịp, đó là vùng
thung lũng chân núi hoặc ven biển (Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương, 2001).
Chính đặc trưng của khí hậu nóng ẩm ở Đông Nam Á cùng với biển và gió mùa đã biến
khu vực này thành thiên đường của thế giới thực vật, làm cho hệ thực vật ở đây vô cùng
đa dạng và phong phú, đó là màu xanh cây lá, hoa trái bạt ngàn quanh năm bao phủ
7
Nhờ có khí hậu thuận lợi, không quá gay gắt về cả nhiệt độ lẫn lượng mưa nên
tạo điều kiện cho nền kinh tế nông nghiệp - nền kinh tế chính của khu vực mà cây lúa
đóng vai trò chủ đạo. Do vậy, Đông Nam Á được mệnh danh là quê hương của cây lúa
nước, cây lương thực số một của nhân loại. Những cánh đồng lúa được phân bố chủ yếu
trên các đồng bằng châu thổ, dọc theo thung lũng các con sông ở Đông Nam Á vì đây là
những vùng đất phù sa màu mỡ do các con sông bồi đắp và được con người ở đây tận
dụng trong quá trình sản xuất.
Các nhà Sử học Phan Ngọc Liên, Nghiêm Đình Vỳ, Đinh Ngọc Bảo, Trần Thị
Vinh (2002) nhận xét rất xác đáng về khu vực này:
Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt đới đã cung cấp đủ nước cho
con người dùng trong đời sống và sản xuất, tạo nên những cánh rừng nhiệt
đới phong phú về thảo mộc và chim muông. Đông Nam Á từ lâu đã trở thành
quê hương của những cây gia vị, cây hương liệu đặc trưng như hồ tiêu, sa
nhân, đậu khấu, hồi, quế, đàn hương, trầm hương… Do có những điều kiện
thiên nhiên tương đồng với các loài động, thực vật rất khác biệt với các vùng
khác, nhưng lại giống nhau trong vùng, nên Đông Nam Á còn được coi là
khu vực thực vật - dân tộc học và động vật - dân tộc học.
Trong số các loài thực vật, rõ ràng, cây lúa chiếm diện tích lớn nhất trong khu
vực Đông Nam Á và đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của các nước nơi đây
(Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008).

Đông Nam Á là một miền địa lý đa dạng mà thống nhất (Phạm Đức Dương và
Trần Thị Thu Lương, 2001: 81, sđd), dù xét dưới góc độ nào - vị trí (đảo, bán đảo, quần
đảo), địa hình (núi, đồng bằng, sông biển), khí hậu (nhiệt đới gió mùa) hay hệ động thực
vật. Sự “thống nhất trong đa dạng” đó của điều kiện tự nhiên là một trong những tiền đề
quan trọng tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam
Á.
II. Dân tộc và ngôn ngữ Đông Nam Á
1. Dân tộc
Như đã nói, Đông Nam Á là nơi nằm trên tuyến đường giao lưu thuận lợi Đông -
Tây, cho nên ở đây cũng diễn ra quá trình hỗn dung giữa các thành phần chủng tộc với
nhau, rất phức tạp. Xét về nguồn gốc xuất phát dân tộc của các nước Đông Nam Á thì
người ta xác định rằng, các dân tộc Đông Nam Á đều xuất phát từ một loại chủng
Môngôlôit
phương Nam (tiểu chủng Đông Nam Á), mang trong mình ở những mức độ
khác nhau từ các yếu tố của hai đại chủng Môngôlôit và Ôxtralôit. Sự “đồng tộc” trên
phổ rộng này là một trong những tiền đề quan trọng tạo nên nhiều điểm tương đồng
cũng như khác biệt về con người cũng như văn hóa của khu vực Đông Nam Á.
Hiện nay, các nước Đông Nam Á đều là những quốc gia đa thành phần dân tộc,
trong đó ở mỗi nước thường có một thành phần dân tộc chiếm chủ thể về số lượng cư
dân
(5)
và trình độ phát triển xã hội. Ngoài ra, còn có nhiều thành phần tộc người khác
vốn bản địa của khu vực có từ lâu đời với số lượng thay đổi từng nơi.
8
Từ nhóm nhân chủng Môngôlôit phương Nam (tiểu chủng Đông Nam Á) có thể
chia ra 4 nhóm nhỏ như sau (Nguyễn Đình Khoa, 1983; Nguyễn Tấn Đắc, 2003; Lương
Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008):
1.1. Nhóm Anhđônêdiên
Bắt đầu là có một dòng người thuộc chủng Môngôlôit từ vùng lục địa châu Á
(Tây Tạng) di cư về hướng đông nam và dừng lại ở khu vực mà nay gọi là bán đảo

Trung - Ấn. Tại đây đã diễn ra sự hợp chủng giữa họ với cư dân Mêlanêdiên bản địa
(thuộc đại chủng Ôxtralôit), tạo chủng Anhđônêdiên (còn gọi là Mã Lai cổ)
(6)
. Từ đây
lan tỏa ra, người Anhđônêdiên cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại.
Người Anhđônêdiên là cư dân cổ có mặt ở hầu khắp các nơi trong khu vực Đông
Nam Á, gồm những tộc ít người sinh sống chủ yếu là sâu trong các hải đảo như như
người Batắc ở Xumatơra; người Đaiắc, Kênya, Kayan, Punan ở Calimantan; Alphuru ở
Xulavêxi thuộc Inđônêxia; nhóm Bontok, Nabaloi, Iphugao, Kankanai, Pagobo,
Ghianga thuộc Philippin. Còn ở các miền rừng núi, người Anhđônêdiên có mặt khắp
trên bán đảo Đông Dương: các tộc người ở Tây Nguyên, ở dãy Trường Sơn (Việt Nam):
Bru - Vân Kiều, Xơ Đăng, Ba Na, Gia Rai, M’nông, Khơ Mú; tập trung chủ yếu ở Lào:
Thượng Lào (Khơ Mú), Hạ Lào (Hin, Bôlôven) và miền Trung Lào ít hơn; ngoài ra còn
ở Cămpuchia và Thái Lan.
1.2. Nhóm Nam Á
Nhóm Nam Á
(7)
là kết quả của sự hợp chủng giữa hai chủng Anhđônêdiên với
chủng Môngôlôit, với các nét đặc trưng Môngôlôit lại càng nổi trội, vì vậy, nó được coi
là tiểu chủng Môngôlôit phương Nam, và về sau, Bách Việt đã được sinh ra từ chủng
này (Nguyễn Đình Khoa, 1983; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008).
Nhóm Nam Á gồm đại bộ phận người Đông Nam Á, với các nhóm đại diện chủ
yếu là Tày, Thái, Việt (Kinh), Lào, Mianma, Mã Lai, Khơ Me… ở bán đảo Trung - Ấn;
Visaya, Tagan, Giava, Sunđa, Mađura… ở quần đảo Mã Lai (Nguyễn Đình Khoa, 1983;
Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008).
1.3. Nhóm Vêđôit
Theo một giả thuyết, từ hai chủng Nam Á và Anhđônêdiên đã có một tác động
nhất định đến loại hình nhân chủng khác ở Đông Nam Á là Vêđôit, phần lớn là
Anhđônêdiên. Trong một giai đoạn lịch sử khá dài, nhóm loại hình nhân chủng Vêđôit
và Anhđônêdiên đã là thành phần chủ thể của cả khu vực Đông Nam Á với tỷ trọng có

thể khác nhau giữa phần lục địa (chủ yếu Anhđônêdiên) và phần hải đảo (ở thời kỳ đầu
chủ yếu Vêđôit). Tiếp đến, đó là sự tác động mạnh mẽ của dòng người Nam Á, điều
này, càng làm cho bức tranh nhân gian các nhóm nhân chủng Đông Nam Á đang biến
đổi lại càng thêm thấm đượm sắc thái mới.
Nhóm Vêđôit
(8)
cư trú khá phổ biến trong cư dân bản địa ở Inđônêxia và một số
ít hơn ở phía nam bán đảo Trung - Ấn với độ biến dị khá rộng rãi trên đặc điểm hình
thái, như người Tokea, Toala, Loinanga ở Xulavêxi; người Manga, Kayan ở
Calimantan; Orang Batin ở Xumatơra; người Xênôi ở Malacca (Nguyễn Đình Khoa,
1983; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008).
1.4. Nhóm Nêgritô
Nhóm loại hình nhân chủng Nêgritô
(9)
được coi là một loại hình của chủng
Mêlanêdiên (thuộc đại chủng Ôxtralôit), và phát sinh không sớm hơn loại hình nhân
9
Nhóm Nêgritô phân bổ nhiều nơi ở Đông Nam Á, điển hình như người Tapiro ở
sườn nam các dãy núi ở trung tâm Tân Ghinê, hoặc ở Philippin, Malaixia, đảo Irian của
Inđônêxia và cực nam bán đảo Trung - Ấn, ở các cụm đảo Anđaman, Nicobar.
Như vậy, qua một quá trình lịch sử lâu dài, từ tiểu chủng Đông Nam Á đã tiếp
tục phân hóa thành những tộc người khác nhau. Vì vậy, khi xem xét về Đông Nam Á ở
góc độ dân tộc học, ta dễ dàng nhận thấy tính đa dạng và phong phú trong các thành
phần tộc người và sự phân bố dân cư nơi đây, thể hiện ở mỗi quốc gia có thể có hàng
chục, hàng trăm dân tộc khác nhau
(10)
.
Chính bức tranh phong phú về các tộc người ở Đông Nam Á, xét cho cùng, đều
có nguồn gốc chung xuất phát từ chủng người Môngôlôit phương Nam, do đó, đã tạo
nên điểm tương đồng trong khu vực - một sự “thống nhất trong đa dạng” về con người

và văn hóa Đông Nam Á (Mai Ngọc Chừ, 1999).
2. Ngôn ngữ
Mặc dù, ngày nay, bức tranh ngôn ngữ Đông Nam Á rất đa dạng nhưng theo các
nhà ngôn ngữ học, trước đây chúng đều có một gốc chung, tạm thời gọi là ngôn ngữ
Đông Nam Á tiền sử (Phạm Đức Dương, 1983). Từ ngôn ngữ gốc chung này, trong quá
trình phát triển lịch sử, nó được phân thành các ngữ hệ khác nhau và phát triển theo
hướng khác nhau, có thể chia ngôn ngữ Đông Nam Á thành 4 ngữ hệ chính (Mai Ngọc
Chừ, 1999; Nguyễn Tấn Đắc, 2003; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008).
2.1. Ngữ hệ Nam Đảo
Ngữ hệ Nam Đảo (Mã Lai - Đa Đảo), được phân bố khá rộng, chủ yếu là các
đảo, trải từ Đông Nam Á đến tận châu Úc và các đảo nam Thái Bình Dương về phía
đông và hòn đảo ở đông nam châu Phi về phía tây. Thuộc ngữ hệ này gồm khoảng 200
tiếng nói cụ thể, bao gồm phần lớn cư dân Inđônêxia, Philippin và Malaixia, trong đó có
ngôn ngữ Melayu (các quốc gia Brunây, Malaixia, Inđônêxia, Xingapo), ngôn ngữ
Tagalog (ở Philippin), các ngôn ngữ Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Ra Glai, Chu Ru (ở vùng
biên giới Việt Nam), một số tộc người ở phía nam Thái Lan, Cămpuchia.
Những quốc gia sử dụng ngữ hệ Nam Đảo làm tiếng nói chính thức: Inđônêxia,
Malaixia, Philippin và Xingapo.
2.2. Ngữ hệ Nam Á
Ngữ hệ Nam Á được phân bố chủ yếu ở các quốc gia Đông Nam Á lục địa, có
thể chia thành 4 nhóm sau:
2.2.1. Nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me
Ngữ hệ Môn - Khơ Me có hơn 100 ngôn ngữ, chia thành hai nhóm: Môn - Khơ
Me Bắc và Môn - Khơ Me Đông.
Môn - Khơ Me Bắc gồm có các tiếng nói chủ yếu: Bắc Thái Lan, Bắc Lào, Đông
Mianma.
Môn - Khơ Me Đông gồm các ngôn ngữ tập trung: Cămpuchia, miền Trung Việt
Nam, Trung Lào, Bắc Thái.
10
Các ngôn ngữ của những tộc người Môn - Khơ Me ở Việt Nam sống rải rác ở

vùng Tây Nguyên, Trường Sơn và Tây Bắc, gồm: Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, H’rê,
M’nông, Stiêng, Bru - Vân Kiều, Ka Tu, Khơ Mú, Tà Ôi, Mạ, Gié Triêng, Chơ Ro,
Mảng, Kháng, Rơ Năm, Ơ Đu và Brâu.
2.2.2. Nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao
Nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao được phân bố ở phía Bắc của Việt Nam, Lào và
Thái Lan, còn Mianma thì ở gần biên giới Trung Quốc. Nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao,
bao gồm các ngôn ngữ: H’mông (Mèo, Miao, Mông), Dao (Man, Yao), Pàthẻn, Sơ,
Klao.
2.2.3. Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường
Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường gồm bốn ngôn ngữ: Việt (Kinh), Mường, Thổ,
Chứt. Nhóm ngôn ngữ này chỉ có ở Việt Nam và một số nước Đông Nam Á có người
Việt sinh sống.
2.2.4. Nhóm ngôn ngữ Nam Á khác
Có người gọi đây là nhóm hỗn hợp hay Kađai (cái gạch nối giữa ngôn ngữ Tày -
Thái cổ và Mã Lai - Đa Đảo, theo Paul K. Benedict), đó là các ngôn ngữ La Chí, La Ha,
Klao, Pupéo ở Việt Nam.
2.3. Ngữ hệ Thái
Các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Thái được phân bố ở Thái Lan, Lào, miền núi phía
bắc Việt Nam và đông bắc Mianma. Thuộc họ này có các ngôn ngữ: Thái, Lào, Tày
Nùng, Sán Chay, Giáy, Bố y, Lự, La Ha.
2.4. Ngữ hệ Hán Tạng
Ngữ hệ Hán Tạng được phân thành hai nhóm:
2.4.1. Nhóm ngôn ngữ Hán
Tiếng Hán được phân bố ở nhiều nước Đông Nam Á như Xingapo, Malaixia,
Inđônêxia, Mianma, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Philippin…
Thuộc nhóm ngôn ngữ Hán, ngoài tiếng Hán còn có Sán Dìu, Ngái…
2.4.2. Nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến
Nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến được phân bố ở Mianma, miền núi phía tây Thái
Lan, bắc Lào và một số ít tây bắc Việt Nam.
Các ngôn ngữ thuộc họ Tạng - Miến ở Đông Nam Á là Miến, Kachin, Karen,

Kaya, Lôlô, Chin (ở Mianma), Hà Nhì, Phù Lá, La Hủ, Si La (ở Việt Nam), Lisu, Akha
(ở Thái Lan), Kọ, Phunọi (ở Lào).
Ngoài bốn họ ngôn ngữ chính nêu trên, ở một số khu vực Đông Nam Á còn có
một vài ngôn ngữ thuộc các ngữ hệ khác theo dòng người nước ngoài đến Đông Nam Á
như tiếng Tamin (thuộc Đraviđa) của người Ấn Độ ở Malaixia, Inđônêxia; tiếng Aryen
(thuộc Ấn - Âu) của một số người Ấn Độ và Pakixtan ở Mianma.
Những đặc điểm về hệ ngôn ngữ cũng như sự phân bố tộc người trên lãnh thổ
Đông Nam Á cho thấy một sự thật là: không phải giữa các quốc gia Đông Nam Á từ
trước đến nay không tồn tại một mối quan hệ nào, và nếu chúng ta biết khai thác những
mối quan hệ, liên hệ ẩn náu trong quá khứ ấy thì sự hợp tác khu vực không thể không
11
Xin mượn lời của Mai Ngọc Chừ để kết lại: “Sự đa dạng không hề thủ tiêu tính
thống nhất của chúng. Nếu như nói rằng văn hóa Đông Nam Á là sự thống nhất trong đa
dạng thì nhận định đó cũng hoàn toàn chính xác đối với ngôn ngữ - một nhân tố quan
trọng của văn hóa và các ngôn ngữ Đông Nam Á là bức tranh đa dạng trong sự thống
nhất cao độ từ trong cội nguồn của chúng” (Mai Ngọc Chừ, 1999: 112).
III. Nền kinh tế truyền thống Đông Nam Á
“Xét về mặt lịch sử, những quốc gia lục địa chủ yếu sống bằng nông nghiệp
trồng lúa và những quốc gia hải đảo được lợi từ việc buôn bán đường biển” (Mary
Somers Heidhues, 2007: 6), đó chính là những nền kinh tế cơ bản, đem lại nhiều hiệu
quả và mang tính truyền thống của khu vực Đông Nam Á.
1. Kinh tế lúa nước
Nhiều bộ môn khoa học, trước hết là khảo cổ học, sinh thái học, dân tộc học…
đã chứng minh: Đông Nam Á là một trong những cái nôi trồng trọt cổ của loài người.
Nền văn hóa Hòa Bình đã minh chứng
(11)
, cư dân nơi đây thuần hóa nhiều giống lúa
khác nhau… Những di chỉ khảo cổ tại lục địa, đặc biệt là trên cao nguyên Khorat của
Thái Lan, nơi xã hội nông nghiệp đã xuất hiện khoảng năm 3.000 T.CN. Mặt khác, các
công trình nghiên cứu về địa lý cây trồng cũng công nhận rằng: Đông Nam Á là một

trong mười trung tâm chính phát sinh cây lúa nước. Con người ở đây đã thuần hóa được
nhiều loại cây trồng và vật nuôi có giá trị, đặc biệt là cây lúa nước. Qua nhiều cuộc điều
tra, khảo sát, Giáo sư Lương Ninh và Vũ Dương Ninh đi đến kết luận: đây là trung tâm
chính phát sinh cây lúa nước, và nghề trồng lúa nước đã xuất hiện cách đây khoảng
4.000 - 5.000 năm T.CN.
Bước sang thời đại đồ đồng, trong điều kiện khí hậu của vùng nhiệt đới, cư dân
Đông Nam Á đã bước sang thời kỳ kinh tế trồng lúa khô ở nương rẫy và lúa nước ở
vùng thung lũng hẹp châu thổ. Cùng với quá trình di chuyển cây lúa, con người dần với
tay đến các vùng đồng bằng lớn ngập lụt và những vùng đất cao khô hạn. Ở vùng đồng
bằng ngập nước, với phương thức “gieo mạ” rồi kỹ thuật cấy lúa ra đời, đánh dấu bước
phát triển của nông nghiệp trồng lúa của cư dân Đông Nam Á. Còn việc đưa cây lúa lên
cạn lại là sự can thiệp lớn hơn nữa của con người và đời sống tự nhiên của nó: vùng
đồng bằng ngập nước cây lúa với phương thức “gieo mạ” rồi “cấy”, lên vùng khô cây
lúa cạn với phương thức “gieo thẳng” (Ngô Thế Phong, 1990; Nguyễn Phan Thọ, 1999,
Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương, 2001). Chính nền nông nghiệp trồng lúa với
sự di chuyển này đã hình thành nên các thành tố văn hóa Đông Nam Á thống nhất mà
đa dạng, trong đó yếu tố trồng lúa đã trở thành “cội nguồn”, “mẫu số chung” của nền
văn hóa đó.
Đông Nam Á lục địa là nơi hội tụ những con sông lớn của khu vực: Mê Kông,
Xaluen, Iraoađi, Mê Nam, sông Hồng và tương ứng với mỗi con sông là những đồng
bằng châu thổ, thích hợp cho việc phát triển lúa nước. Thật vậy, dấu vết nông nghiệp
trồng lúa xuất hiện sớm ở châu thổ sông Hồng; đồng bằng sông Iraoađi và châu thổ
sông Xittang (Mianma); đồng bằng châu thổ sông Mê Nam và sông Tachin (Thái Lan)
và vùng đông - bắc Tông Lê Xáp (Cămpuchia), muộn hơn nữa, đến đồng bằng sông Mê
Kông (Lào, Cămpuchia, Việt Nam)… Ngoài lưu vực các con sông, cư dân Đông Nam Á
còn phát triển nông nghiệp trồng lúa lên cả vùng cao nguyên Khorat (Thái Lan), Shan
(Mianma) vùng núi Tây Nguyên (Việt Nam)… để phục vụ nhu cầu cuộc sống.
12
Đến quốc gia hải đảo Inđônêxia, có đồng bằng ven biển bắc Giava, nhưng vì đất
châu thổ không nhiều nên những núi đá lửa được san thành những ruộng bậc thang trên

các sườn núi; còn ở Malaixia đồng bằng bang Kê Đắc là vựa lúa lớn của cả nước.
Nói tóm lại, ở Đông Nam Á, cây lúa được trồng khắp nơi từ đồng bằng, thung
lũng (cây lúa nước) cho đến cao nguyên, miền núi (cây lúa cạn) và người trồng lúa đóng
vai trò chủ thể tạo sức sản xuất trong xã hội. Từ sự phân chia này đã hình thành nên các
phương thức canh tác khác nhau, mang nhiều điểm khác biệt giữa trồng lúa ở ruộng
nước và trồng lúa trên nương, khi lúa trở thành một cây trồng chính trong nền kinh tế
trồng trọt ở Đông Nam Á, tính đa dạng được thể hiện một cách rõ rệt hơn. Đó là việc
hình thành ở khắp nơi một phức thể canh tác đa dạng: ruộng - rẫy; ruộng - nương; ruộng
- vườn… trong nghề trồng lúa, và gắn với mỗi phức thể canh tác đó là sự ra đời của
những yếu tố văn hóa phù hợp. Nghề trồng lúa nước đã trở thành nền kinh tế chính và
chủ đạo của Đông Nam Á từ xa xưa cho đến bây giờ.
Ngày nay, các quốc gia Đông Nam Á lấy sản xuất nông nghiệp làm nền kinh tế
chủ yếu của mình (trừ Xingapo phát triển theo hướng công nghiệp), trong đó Thái Lan
và Việt Nam là hai quốc gia đi tiên phong trong việc xuất khẩu lúa, gạo trên thế giới. Vì
vậy, nghề trồng lúa của cư dân Đông Nam Á ngày càng được cư dân nơi đây phát huy
tác dụng và có một vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân nơi đây.
2. Nghề sông biển
Trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp, ngoài ngành trồng trọt, cư dân
Đông Nam Á còn có cả một hệ thống nghề phụ, trong đó nổi bật nhất là nghề sông biển
(ngư nghiệp và ngoại thương). Trong các quốc gia Đông Nam Á, duy chỉ có Lào là
không giáp biển, tuy nhiên, Lào vẫn có thể tiếp xúc được với biển thông qua các quốc
gia láng giềng anh em. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà cư dân Đông Nam Á đã
biết đóng mảng và đi thuyền biển từ rất sớm
(12)
tạo thuận lợi cho việc phát triển thương
nghiệp. Theo Mary Somers Heidhues đã nhận định: “…dân hải đảo là những thủy thủ
tài giỏi đến độ biển không ngăn cản được việc đi lại của họ, và trong những thời kỳ có
sử việc đánh cá, buôn bán và đi biển là hoạt động chính của cư dân Đông Nam Á hải
đảo, và cũng là một hoạt động quan trọng đối với cư dân lục địa ” (Mary Somers
Heidhues, 2007: 14). Việc buôn bán bằng đường biển với Đông Nam Á đã khá nhộn

nhịp từ thế kỷ II, đến thế kỷ VII thì thuyền buôn Ả Rập đã thường xuyên đến vùng này
để mua hương liệu, gia vị. Đối với các lái buôn thời bấy giờ “Đông Nam Á được nhìn
nhận là một vùng thần bí, nơi sản xuất hương liệu, gia vị và những sản phẩm kỳ lạ khác,
còn sinh sống ở đây là những con người đi biển thành thạo và can đảm” (Phan Ngọc
Liên, 2002, sđd).
Ngay từ rất sớm ở Đông Nam Á đã có một sự giao thoa văn hóa liên tục giữa các
nơi trong khu vực với các quốc gia khác trên thế giới, điều này làm cho bức tranh văn
hóa vốn đã phong phú, lại thêm hết sức đa dạng, đầy màu sắc. Ở ngoài hải đảo, những
mối liên hệ kinh tế, văn hóa giữa các đảo được xác lập và phát triển một phần nhờ biển
cả, và mối liên hệ ấy mở rộng dần theo năm tháng để hình thành nên thế giới hải đảo.
Còn ở trong đất liền các mối liên hệ kinh tế - văn hóa được xác lập một phần nhờ các
dòng sông, mỗi con sông ấy lại mang trong mình một đời sống văn hóa rất riêng của nó.
Trong đó, thuyền đi sông, đi biển là một phương tiện chủ yếu để truyền tải và thực hiện
giao lưu văn hóa trong khu vực với các quốc gia bên ngoài. Hơn nữa, đây cũng là một
phương tiện quan trọng để tiếp thu những yếu tố văn hóa từ các trung tâm văn minh lớn
ở phương Đông như Ấn Độ, Trung Quốc. Chính vì vậy, có người nhận xét về Đông
13
Từ rất sớm, Đông Nam Á đã là một khu vực gắn kết với hệ thống buôn bán thế
giới, suốt trong nhiều thế kỷ, Đông Nam Á đóng vai trò làm trạm trung chuyển: nơi để
hàng tạm thời, sửa chữa thuyền, thay cột buồm, nơi mua hàng, và là nơi gửi hàng dự trữ
và để thương nhân trở lại năm sau, như cảng thị Óc Eo - vương quốc Phù Nam là một
thí dụ điển hình. Về sau, cư dân Đông Nam Á chủ động tham gia vào đường buôn quốc
tế trên biển, như vậy, Đông Nam Á không còn chỉ là một trạm trung chuyển như trước,
mà đã có những sản phẩm bản địa tham gia vào đường buôn. Đó là hương liệu, gia vị,
sản xuất chủ yếu của các đảo Malacca và phía đông Đông Nam Á. Thêm nữa, kỹ thuật
đóng thuyền cũng khá hơn, cho phép đi vòng xa hơn, vì vậy, thuyền buôn bấy giờ đã đi
về phía đảo Xumatơra, Giava, Malacca hết sức giàu sản phẩm hương liệu này.
Nếu như biển vừa nối liền, vừa chia cắt những hòn đảo của Đông Nam Á hải đảo
thì sông là nguồn giao thông chính của vùng lục địa. Các quốc gia Đông Nam Á ngoài
có vị trí thuận lợi là giáp biển (trừ Lào) thì hầu hết các quốc gia Đông Nam Á lục địa

đều có sông suối, vì thế mà cư dân Đông Nam Á có thể nuôi mình qua hàng thế kỷ nhờ
hệ thống sông, biển này. Bởi vì, ngoài việc thuận lợi về mặt giao thương thì cư dân
Đông Nam Á còn có thể đánh bắt tôm, cá, nuôi trồng các loài thủy, hải sản thông qua
sông, biển. Từ xa xưa, cư dân Đông Nam Á đã sống rất quen thuộc với nghề đánh bắt cá
trên sông biển này. Đây là nguồn thực phẩm nuôi sống và làm kế sinh nhai của họ từ
bao đời nay. Ngày nay, nghề này vẫn còn phát huy tác dụng và đem lại giá trị kinh tế
cao cho cư dân Đông Nam Á, đặc biết là đối với các cư dân ven biển.
Thật vậy, Nguyễn Quốc Lộc (2007) đã thấy được tầm quan trọng của biển đối
với Đông Nam Á:
Biển vốn giàu có và nuôi sống con người từ bao đời nay. Nhưng với tri
thức mới và năng lực hiện tại của con người, tài nguyên thiên nhiên của biển,
bao gồm cả đáy biển và dưới lòng đất của biển, đang và sẽ được khai thác,
sử dụng, làm giàu cho những quốc gia có biển. Một “thế kỷ đại dương” được
nói đến ngày càng nhiều, và khi nêu ra một dự báo “thế kỷ XXI là thế kỷ của
Đông Nam Á” ngoài những cơ sở về sự năng động và khả năng phát triển
nhanh của nó, có tầm nhìn mới của con người về biển của khu vực này.
Nhìn chung, nghề nông trồng lúa với nghề trên sông biển là nền kinh tế truyền
thống của cư dân Đông Nam Á được duy trì thường xuyên và liên tục từ xưa cho đến
nay. Nền kinh tế cơ bản này đã quy định đời sống văn hóa xã hội và tác động đến các
thành tố văn hóa “thống nhất trong đa dạng” ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, còn có rất
nhiều nền kinh tế quan trọng của cư dân Đông Nam Á mà vẫn chưa được đề cập đến:
dệt vải, chế tạo kim loại, đồ gốm… để tạo nên một nền văn hóa đậm đà mang tính
“thống nhất trong đa dạng”.
IV. Tiến trình lịch sử các quốc gia Đông Nam Á
Nếu coi Đông Nam Á là một khu vực địa lý - lịch sử với những nét tương đồng
đã từng tồn tại qua nhiều thế kỷ, thì quá trình phát triển lịch sử của khu vực này từ thời
nguyên thủy cho đến nay, có thể chia thành 4 giai đoạn nhỏ, mà trong mỗi giai đoạn đó,
yếu tố thống nhất và đa dạng đã trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong tiến trình lịch
sử Đông Nam Á, được lưu giữ và phát huy giá trị cho đến ngày nay.
1. Giai đoạn hình thành các vương quốc cổ ở Đông Nam Á (Từ nguyên thủy

đến thế kỷ X)
14

Một số ý kiến về văn hóa Đông Nam Á mang tính thống nhất trong đa dạng

31/08/202104/10/2021 Bài viết nghiên cứu khoa học (2021)
SOME OPINIONS ABOUT SOUTHEAST ASIAN
CULTURE BEING UNIFIED IN DIVERSITY

Tác giả bài viết: Thạc sĩ QUẢNG VĂN SƠN
(Trường Đại học Văn Lang)

TÓM TẮT

Với những thành tựu nghiên cứu khoa học ngày càng được tiếp cận theo lối liên ngành/đa ngành. Đông Nam Á: từ góc độ tiếp cận văn hóa cổ, khảo cổ học, văn hóa học, văn học dân gian… để đưa đến tổng hợp phục dựng bức tranh văn hóa vật chất thời tiền sử – sơ sử. Trước khi có sự tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ, cư dân Đông Nam Á đã tạo lập cho mình một nền tảng văn hóa riêng. Đó chính là nền văn hóa bản địa phát triển, khi tiếp nhận những hạt giống văn minh tốt từ bên ngoài đã tạo nên một vườn văn hóa đặc sắc, đa dạng như ngày hôm nay.

Từ khóa: Đông Nam Á; lịch sử, văn hóa Ấn Độ; văn hóa Trung Quốc; thống nhất; đa dạng.

ABSTRACT

The latest scholarly studies have increasingly relied upon interdisciplinary and multidisciplinary research methods to consistently supplement. These studies have been completed by experts inside and outside the region. The puzzle of Southeast Asia from the perspective of ancient cultural studies, archeology, cultural studies and folk literature – can be reassembled to give a more complete picture of the prehistoric and historic epochs of human history. Priored to contact with the Chinese culture and Indian, Southeast Asian residents had already created a local culture of their own. This was a culture of indigenous development. This indigenous culture then blossomed into a diverse garden, after receiving seeds of influence from outside civilizations.

Key words: Southeast Asia; history; Indian culture; Chinese culture; unity; diversity.

x
x x

1. Đặt vấn đề

Đông Nam Á, một bộ phận, một khu vực ở phần đông nam châu Á. Hiện nay, khu vực này gồm 11 quốc gia và vùng lãnh thổ, đang hợp tác chặt chẽ và ngày càng tạo được vị thế của mình trên bình diện khu vực và quốc tế (thông qua Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN, thành lập ngày 08-8-1967). Tính chất gắn kết – liên kết tiến dần tới sự đồng thuận giữa các quốc gia này đã thực sự đạt được trong những năm gần đây. Đó là nền tảng và là động lực cho sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tạo đà phát triển trên nhiều lĩnh vực, cho mỗi quốc gia trong khu vực, một thực thể mà gần đây đã được ví như “trái tim của châu Á năng động” [3]. Khi nhắc đến khái niệm Đông Nam Á [3, tr.3], các nhà nghiên cứu sẽ có những quan niệm khác nhau, có người sẽ cảm nhận ở góc độ một Đông Nam Á về mặt chính trị, lịch sử và ở thời điểm hiện tại, bao gồm những thể chế, những nhà nước đi theo đường lối phát triển đất nước như thế nào? Hay Đông Nam Á về địa lý, nằm ở đâu trên bản đồ thế giới, bản đồ địa lý tự nhiên của châu Á… Hay Đông Nam Á về văn hóa, những nền tảng văn hóa truyền thống và trong thời kỳ khu vực hóa, quốc tế hóa hiện nay là như thế nào, bức tranh văn hóa đó được tạo nên từ những gam màu trong bức tranh tổng thể đa sắc gắn với văn hóa tộc người sở tại ra sao? Hoặc nghiên cứu Đông Nam Á thời kỳ tiền sử, Đông Nam Á ở thời kỳ hiện đại… Cũng có người xem xét Đông Nam Á ở tính đa dạng về địa hình như làsự tồn tại của một Đông Nam Á lục địa (hoặc bán đảo) và một Đông Nam Á hải đảo.

Điều đáng lưu ý khi nghiên cứu về bức khảm văn hóa khu vực Đông Nam Á, nhiều nhà nghiên cứu người nước ngoài và các học giả người Việt, đều nhận thấy những biểu hiện văn hóa được du nhập vào từ bên ngoài trong quá trình lịch sử. Đông Nam Á với tư cách như một thực thể khu vực văn hóa có quá trình hình thành và phát triển trong mối quan hệ với những nền văn minh lớn trên một không gian địa lý nhất định và xuyên suốt theo chiều dài lịch sử – văn minh Trung Quốc và văn minh Ấn Độ [1], [5]. Sự ảnh hưởng, sự tác động từ hai nền văn minh lớn của nhân loại này là điều không thể bàn cãi. Với những thành tựu nghiên cứu khoa học ngày càng được tiếp cận theo lối liên ngành/đa ngành, không ngừng được bổ sung và làm phong phú bởi các chuyên gia trong và ngoài khu vực, bản sắc văn hóa khu vực Đông Nam Á đã được làm rõ. Có thể thấy rằng, trước khi có sự tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ, các cư dân Đông Nam Á đã tạo lập cho mình một nền tảng văn hóa riêng, đó chính là nền văn hóa phát triển tự thân, ngày nay được gọi là văn hóa bản địa để rồi khi tiếp nhận những hạt giống văn minh tốt từ bên ngoài đã tạo nên một vườn văn hóa đặc sắc, đa dạng như ngày hôm nay [1], [3]. Để có một cách nhìn mang tính biện chứng trong việc đánh giá đúng vai trò, vị thế cửa ngõ con đường giao lưu Đông – Tây, cần quan niệm về Đông Nam Á như một thực thể “thống nhất trong đa dạng”.Để hiểu rõ về nhận định này cần có sự nghiên cứu liên ngành/đa ngành về khu vực trên các mặt địa – chính trị, địa – lịch sử, địa – văn hóa, địa – kinh tế, địa – sinh thái, địa – nhân văn… qua đó phác dựng nên bức tranh về một không gian tổng thể, lọc bỏ các điểm dị biệt, tiểu tiết để tiến tới xây dựng mô hình về các thiết chế chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo, gia đình… trên khuôn viên địa lý môi trường với những mối tương liên giữa con người với tự nhiên, xã hội [3, tr.33]. Với cả 2 phần lục địa và hải đảo, Đông Nam Á nên được quan niệm là “thực thể thống nhất” và riêng biệt trong khung cảnh châu lục, đối sánh giữa 2 khối dân số và văn minh khổng lồ của nhân loại về 2 phía Bắc phương và Tây phương (Trung Quốc và Ấn Độ). Đông Nam Á – với những nhận thức lớn được rút ra trong quá khứ và hiện tại, từ góc độ tiếp cận văn hóa cổ, đặc biệt là việc vận dụng những thành tựu nghiên cứu trong khảo cổ học, văn hóa học, văn học dân gian… đưa đến tổng hợp phục dựng bức tranh văn hóa vật chất thời tiền sử – sơ sử. Sự biến chuyển nhận định về một Đông Nam Á trì trệ, lạc hậu, đến một Đông Nam Á phát triển và phát tán, từ “một quá khứ bị lãng quên” đến một Đông Nam Á năng động, có vai trò lớn hơn của – thời kỳ hội nhập ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của giới học thuật sử học – khảo cổ học, văn hóa học… trên thế giới.

2. Nội dung

2.1. Đông Nam Á – những vấn đề chung

2.1.1. Đôi nét về điều kiện tự nhiên khu vực Đông Nam Á

Đông Nam Á ngày nay là một bộ phận cùng với khu vực Nam Á (gồm đồng bằng sông Ấn – sông Hằng, bán đảo Indostan, Sri Lanka) hợp thành 1 trong 10 miền địa lý tự nhiên của liên châu lục – lục địa Á – Âu, tồn tại như một thực thể địa – sinh thái riêng biệt, đa dạng sinh học giữa chí tuyến Bắc (230 vĩ bắc) và xích đạo. Đông Nam Á có diện tích đất liền và biển – đảo rộng khoảng gần 4.5 triệu km2 [7, tr.37], trải rộng trên hệ tọa độ quy chiếu theo chiều Bắc – Nam (theo vĩ độ) khoảng từ 280 Vĩ Bắc đến 150 Vĩ Nam và theo chiều Đông – Tây (theo kinh độ) từ 920 đến 1400 Kinh Đông. Năm 2020, dân số khu vực khoảng 671.624.000 triệu người, trong đó hơn 1/6 sống trên đảo Java (Indonesia) [11]. Đông Nam Á là tập hợp gồm quần thể bán đảo, quần đảo, đảo riêng lẻ nằm trong vùng biển chạy dài từ Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương, là chỗ giao nhau của nhiều mảng địa chất có núi lửa và động đất hoạt động mạnh. Các quốc gia củakhu vực được chia ra làm hai nhóm chính: Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam nằm ở Đông Nam Á lục địa (gắn liền với lục địa Á – Âu, nhưng thể hiện nhiều tính chất bán đảo), các nước còn lại tạo nên Quần đảo Malaysia. Quần đảo này được hình thành bởi nhiều cung đảo thuộc về vành đai núi lửa Thái Bình Dương và là một trong những khu vực có hoạt động núi lửa mạnh nhất thế giới. Xét tổng thể trên bình diện châu lục, Đông Nam Á là bộ phận cực Nam của tầng nền châu Á với nền tảng lục địa cổ nhất Paleozoi, từ vận động Tân kiến tạo Hymalaya cho đến sự hình thành tầng nền Đông Dương (khối Kon Tum) – cốt lõi của Đông Nam Á lục địa. Vận động tạo sơn có tuổi Trung Sinh hình thành thềm Sunda cổ (Sundaland) tồn tại đến cuối Thế Pleistocene muộn (khoảng 20.000 năm cách ngày nay) và bị biển tiến nhấn chìm tới 2/5 diện tích, tách rời các đảo lớn như Borneo, Sumatra, Java và các đảo lớn nhỏ khác [7]. Về khí hậu, Đông Nam Á được xem là khí hậu xích đạo – Á xích đạo, nhiệt đới nóng ẩm hoặc cũng được gọi là nhiệt đới ẩm gió mùa, hình thành các thảm rừng nhiệt đới thường xanh với sự đa dạng sinh học cao.

Các nhà khoa học nhận định: Biển Đông như là ranh giới tự nhiên ngăn cách 2 thế giới đất liền và hải đảo Đông Nam Á. Đông Nam Á lục địa với diện tích khoảng 1.8 triệu km2 thường được tính từ eo Kra của bán đảo Malacca trở lên. Đông Nam Á hải đảo là hệ thống các đảo lớn nhỏ từ Sumatra, Borneo, Java vòng qua phía Đông và hướng Bắc tới Sulawesi, quần đảo Molucca, lên Philippines. Những nước như Philippin là tập hợp gồm khoảng 7.000 hòn đảo và đặc biệt Inđônesia được gọi là thế giới đảo với khoảng 13.000 hòn đảo lớn nhỏ. Đông Nam Á cũng là khu vực có nguồn tài nguyên phong phú, trữ lượng lớn như các loại khoáng sản thiếc, sắt, nhôm, mangan, nickel, crom, kẽm, chì, vàng, hồng ngọc, dầu mỏ… Xét về vị trí địa lý trong khung cảnh châu lục, Đông Nam Á được xem là “Ngã ba đường (Carrefour) của các tộc người, các nền văn minh và nghệ thuật bản xứ” [7, tr.38], là ngã tư đường, nằm ở vị thế án ngữ con đường giao lưu thương mại, con đường hàng hải nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Nó là cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc với Ấn Độ, Tây Á, châu Phi, châu Âu – Địa Trung Hải.

2.1.2. Tên gọi Đông Nam Á và đôi nét về tình hình nghiên cứu

Địa danh Đông Nam Á (Southeast Asia) xuất hiện khá muộn, nó được nhìn nhận trong lịch sử hiện đại từ nửa sau thế kỷ XX [3, tr.57-58]. Tên gọi này được các nhà nghiên cứu Hà Lan, Anh, Hoa Kỳ đưa ra trong Đệ Nhị thế chiến, chính thức đi vào lịch sử như là khu vực chính trị, địa quân sự quan trọng khi Anh và Hoa Kỳ, nhất trí thành lập Bộ chỉ huy tối cao quân Đồng Minh ở Đông Nam Á (Hội nghị Québec tháng 8-1943). Đông Nam Á bị lôi cuốn vào chiến tranh như là một lực lượng thuộc địa của các đế quốc Anh, Hà Lan, Pháp, Mỹ [6], Đông Nam Á đã xuất hiện trên bản đồ chính trị thế giới như một khu vực chính trị có những nét tương đồng rõ rệt [3, tr.57-58].

Những phát kiến địa lý phát xuất từ những nhà hàng hải châu Âu vào khoảng thế kỷ XV-XVI, trên những hải trình dài mà họ đã trải qua, vùng đất này như là những viễn xứ, vùng đất bán lục địa và hải đảo trong cương vực rộng lớn của thế giới bán đảo Ấn Độ, có khi được miêu tả gồm Cực Đông và Cực Nam châu Á với tên gọi là Viễn Đông. Khu vực này còn được nhìn nhận bên cạnh nền văn minh Trung Quốc và được gọi là Đông Dương hay Nam Dương… Từ cuối thế kỷ XIX, các học giả người Áo đã đặt tên cho khu vực này là “Sudost Asien” (Đông Nam Á), nó trở thành một thực thể địa – sinh thái riêng biệt, khác với Đông Bắc Á và Tây Nam Á [7, tr.36].

Tình hình nghiên cứu khu vực Đông Nam Á khởi phát phải kể đến Trung Quốc, một phần khu vực phía Nam của Đế chế rộng lớn này cũng được nhắc đến nhiều, đôi lúc lại mang hàm nghĩa không tốt, khi mà khu vực này bị coi là một trong Tứ di (Nam di) trên con đường chinh phục thiên hạ của các triều đại phong kiến của họ và đây lànguồn tư liệu quý để nghiên cứu về khu vực Đông Nam Á. Nhật Bản cũng đã có những nghiên cứu của riêng mình về khu vực Đông Nam Á, nhất là nghiên cứu mối quan hệ bang giao trong lĩnh vực mậu dịch từ khoảng đầu thế kỷ XVIII trở đi. Về sau, việc nghiên cứu này để phục vụ mục đích xâm chiếm thuộc địa là chính và nó thể hiện rõ là một khu vực có vị trí chiến lược rất quan trọng. Những người phương Tây (Anh, Pháp, Hà Lan…), trên hải trình tìm kiếm và xâm chiếm các nguồn lợi cho mình, đã ra sức nghiên cứu các dân tộc bản địa nơi đây. Xuất phát từ hệ tư tưởng riêng, dựa trên những cảm thức và hệ quy chiếu riêng của châu Âu, các nhà nghiên cứu mang nhiều chức danh này (có thể là nhà thám hiểm, quan chức, sĩ quan quân đội, linh mục truyền đạo, nhà tự nhiên học, sinh thái học, dân tộc học, ngôn ngữ học…) [2], đã chưa hiểu thật đúng về những cư dân bản địa. Trong tiến trình thực dân hóa khu vực này, thực dân – vốn mang tư tưởng dân tộc văn minh châu Âu đã bác bỏ những sáng tạo văn hóa của cư dân bản địa trong lịch sử. Đôi khi họ đưa ra những kết luận không chính xác nhằm phục vụ cho mưu đồ chính trị. Việc nghiên cứu khu vực Đông Nam Á từ phương Tây, có thể kể những người đến từ Pháp, về sau có Liên Xô cũ và Hoa Kỳ. Nhìn chung, các học giả Tây Âu quan tâm nhiều hơn về lịch sử văn hoá Đông Nam Á [3, tr.43], người Nga và người Mỹ quan tâm nhiều đến chính trị, nhất là khi đặt Đông Nam Á như là một khu vực có vị trí địa – chính trị chiến lược trong sự tranh chấp ảnh hưởng của hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.

Mặc dù là những nước láng giềng, nhưng những chủ nhân của khu vực Đông Nam Á trong lịch sử, lại hiểu biết về nhau không nhiều. Sự ảnh hưởng theo các sắc thái văn hóa Ấn Độ và Trung Quốc, sự thống trị của thực dân phương Tây trong hàng thế kỷ là một trong những trở ngại cho mối giao lưu, liên hệ giữa các cộng đồng người. Trong những thập niên cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, khi các quốc gia trong khuvực đã giành được độc lập dân tộc, từng bước gia nhập vào tổ chức khu vực ASEAN, nghiên cứu về Đông Nam Á của các quốc gia trong khu vực mới bắt đầu khởi sắc.

2.2. Văn hóa Đông Nam Á mang tính thống nhất trong đa dạng

2.2.1. Đông Nam Á cổ đại – miền địa lý thống nhất trong đa dạng

Đối với các nhà nghiên cứu lịch sử – văn hóa, “biên giới chính trị” hay “biên giới hành chính” của Đông Nam Á hiện đại không hoàn toàn trùng khớp với “biên giới khoa học” của thực thể Đông Nam Á vốn được hình thành và phát triển trên cơ tầng các yếu tố văn hóa nội sinh thời kỳ tiền sử. Đông Nam Á hiện đại (về mặt hành chính – chính trị) có phạm vi hẹp hơn nhiều so với không gian văn hóa Đông Nam Á cổ đại đã từng được biết đến trong lịch sử. Nói cách khác, không gian văn hóa mang đậm yếu tố Đông Nam Á không những bao gồm các quốc gia Đông Nam Á hiện nay mà còn phải thêm vào phần Nam Trung Hoa (bao gồm cả Đài Loan), một phần đông bắc Ấn Độ (vùng Assam). Cụ thể đường biên giới khoa học của Đông Nam Á, về phía Bắc đến Trường Giang (Dương Tử giang) tính từ dãy Himalaya bao trọn bờ nam (hữu ngạn) sông Dương Tử trải rộng về xích đạo; về phía Tây là khu vực giáp với phần đông bắc Ấn Độ và vùng biển Ấn Độ Dương; phía Đông và phía Nam là một thế giới đảo tiếp giáp với châu Đại Dương [1], [3], [10].

Tính thống nhất của thực thể Đông Nam Á cổ đại được định tính ngay từ thời băng hà trong kỷ Đệ Tứ, lúc cầu lục địa (Sundaland) hình thành trên biển Đông trong chu kỳ biển thoái (trong thế Pleistocene) tạo điều kiện cho sự giao lưu các luồng di cư động – thực vật, cũng là con đường di cư của bầy người nguyên thủy từ các dãy núi và dòng chảy ở nam Trung Quốc, bắc Việt Nam, tây Miến Điện và bắc Thái Lan chinh phục vùng đất từ Mã lay, Philippines xuống Sumatra, Java, Timor… và ngược lại. Thời kỳ sau, hoạt động biển tiến cắt đứt cây cầu Sunda (khoảng đầu thế Toàn Tân –Holocene, cách nay trên dưới 10.000 năm), người cổ đại vẫn có thể tiếp tục con đường này nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật đi biển. “quan hệ giao lưu văn hóa – tín ngưỡng, chuyển giao kỹ thuật, lan truyền những cảm hứng về nghệ thuật lại được họ tiếp tục và tăng cường suốt thời tiền sử – sơ sử từ trình độ hàng hải nguyên thủy cho đến văn minh” [7, tr.38]. Đó là hợp thể văn hóa – văn minh từ miền núi – trung du – đồng bằng (chân núi, trước núi) cho đến biển đảo.

Về ngôn ngữ, Đông Nam Á cổ đại cũng là cương vực phân bố và sáng tạo của các cộng đồng người nói tiếng thuộc các ngữ hệ lớn nhất và có quan hệ nguồn gốc Austric với nhau như Nam Á (Môn – Khmer, Việt – Mường, Tày – Thái, Lào, Tạng – Miến) và Nam Đảo.

2.2.2. Đông Nam Á là cái nôi của văn minh lúa nước

Đông Nam Á được xác định là một khu vực văn hóa lúa nước với một phức thể gồm 3 yếu tố: văn hóa núi, văn hóa đồng bằng và văn hóa biển, yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng vai trò chủ đạo. Lịch sử ở đây đã diễn ra những quá trình hội tụ – phát tán dẫn đến những phức thể văn hóa chung cho toàn vùng, bước hội tụ sau cao hơn bước hội tụ trước, đồng thời cũng để lại nhiều sắc thái khác nhau có tính dân tộc hoặc mang dấu ấn địa phương.

Cư dân Đông Nam Á có những nét chung thống nhất về mặt văn hóa, vì cư dân ở đây có chung một nền tảng văn hóa Đông Nam Á, lấy sản xuất nông nghiệp lúa nước làm phương thức hoạt động kinh tế chính. Đông Nam Á được coi là “cái nôi” của cây lúa nước và là một trong 5 trung tâm cây trồng lớn trên thế giới. Văn hóa Hòa Bình đã chứng minh cư dân ở đây đã thuần hóa nhiều giống lúa, thực vật khác nhau, xuất hiện nền nông nghiệp sơ khai với các loại cây trồng, đặc biệt là các loại cây có củ và bầu bí, các cây họ đậu ở vùng thung lũng chân núi. Có nhà nghiên cứu còn cho rằng chủ nhân văn hóa Hòa Bình là người biết trồng trọt đầu tiên trên thế giới; niên đại nông nghiệp ở đây có thể lên đến hơn 1 vạn năm TCN [9]. Đông Nam Á đã là một trong những nơi có cuộc cách mạng nông nghiệp sớm nhất trên thế giới. Đến thời đại đồ đồng, trong điều kiện của vùng nhiệt đới, cư dân Đông Nam Á đã bước sang kinh tế trồng lúa khô ở nương rẫy và lúa nước ở vùng thung lũng hẹp châu thổ. Cây lúa đầu tiên được thuần dưỡng ở vùng thung lũng theo chân núi dần dần được chuyển xuống vùng châu thổ thích nghi với vùng ngập nước. Cùng với việc trồng lúa nước, người ta đã thuần dưỡng trâu bò làm sức kéo, xuất hiện các nghề thủ công, đặc biệt là nghề sông, biển. Từ đó, nông nghiệp lúa nước đã trở thành một cơ sở quan trọng của nền văn minh khi vực. Đó là một nền văn minh mang đủ các sắc thái của những nền văn minh đồng bằng, biển, nửa đồi núi, nửa rừng với đủ các dạng kết cấu đan xen phức tạp… cơ sở chung của nền văn minh này là nông nghiệp trồng lúa nước, văn hóa xóm làng [8, tr.153].

2.2.3. Đông Nam Á với đặc trưng cư dân đi biển

Do vị trí địa lý nằm án ngữ trên con đường hàng hải nối liền giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Đông Nam Á từ lâu vẫn được coi là cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải Thậm chí đến gần đây, một số nhà nghiên cứu vẫn gọi khu vực này là “ống thông gió” hay “ngã tư đường”.

Việc đi lại bằng thuyền ở vùng Đông Nam Á đã có từ thời xa xưa, cư dân Nam Á đã biết đóng thuyền bè mảng và thuyền đi biển rất sớm. Dựa trên các tài liệu khảo cổ học, W. Solheime đã nhận định, kỹ thuật đi biển xuất hiện sớm nhất ở vùng duyên hải quần đảo Sulu, giữa Mindanao, Borneo và đảo Celebes khoảng 8000-9000 năm trước. Kỹ thuật hàng hải cổ đạt đến đỉnh cao vào khoảng thế kỷ V TCN, khi những hình thuyền cỡ dáng to lớn, kiểu cong mũi, cong lái được khắc trên nhiều trống đồng Đông Sơn. Các thư tịch cổ Trung Quốc từ thế kỷ III cũng xác nhận các sư tăng Trung Hoa sang Ấn Độ đều đi trên những thuyền gọi là “Côn Luân bản”, dài đến 50m, trọng tải đến 600 tấn, có thể trở hàng trăm người, có buồmlớn, buồm con… của các nước thương nghiệp Đông Nam Á. Những con thuyền này đều có cột, giương buồm đã vượt khơi nối liền Đông Nam Á với Trung Quốc và Ấn Độ, chở người và hàng hóa, từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ XV-XVI. Trong cuộc hành trình này, một số thuyền bị đắm, P.Y. Manguin đưa ra một danh mục 10 thuyền bị đắm đã được khảo cổ học dưới nước phát hiện và nghiên cứu trong đó có 2 thuyền ở Pahang (Malaysia) và Agusan (Philippines) có niên đại từ thế kỷ III-V; 3 thuyền thuộc thế kỷ V-VI và những thuyền khác thuộc thế kỷ VII-XIV. Trên tường khu đền Borobudur có phù điêu hình thuyền buồm lớn, nhiều mái chèo, gần giống với những hạm thuyền của La Mã cổ đại [8]. Việc buôn bán qua đường biển với Đông Nam Á đã khá nhộn nhịp từ thế kỷ II. Đến thế kỷ VII, thuyền buôn Ả Rập đã thường xuyên đến vùng này mua hương liệu, gia vị. Không phải ngẫu nhiên mà ở đây đã có mặt những nhà địa lý hay du lịch, nhà truyền giáo hay ngoại giao của cả phương Đông và phương Tây. Trong suốt chiều dài của cuộc hàng trình nổi lên những nhà thám hiểm như Claudius Ptolemaeus, Khang Thái, Nghĩa Tình, Pháp Hiển, Trịnh Hòa, Marco Polo, Chu Đạt Quang… Họ đã đến đây xem xét, ghi chép và để lại những tài liệu quý cho đời sau [8, tr.154-155].

2.2.4. Đông Nam Á tiếp thu văn hóa Ấn và Hoa

Khi các nước Đông Nam Á xây dựng các quốc gia cổ đại họ đã tiếp nhận mô hình văn hóa Hán và văn hóa Ấn Độ một cách chủ động và chọn lọc, thể hiện qua hai phương diện [4, tr.9-10]:

1) Tổ chức bộ máy nhà nước: hầu hết các nhà lãnh đạo ở đây đều muốn tìm đến việc ứng dụng mô hình tổ chức nhà nước đã khá hoàn thiện từ Ấn Độ, Trung Quốc, cùng với mô hình đó là sự mô phỏng thiết chế xã hội, chủ yếu là chế độ đẳng cấp. Tất nhiên, sự mô phỏng này chỉ về mặt hình thức và tùy tình hình cụ thể của mỗi nhà nước, sự mô phỏng ở mức độ đậm nhạt khác nhau. Điểm cần nhấn mạnh ở đây là về mặt nội dung, các nhà nước vẫn được xây dựng trên nền tảng chủ đạo đó là tinh thần dân tộc, tính dân chủ và cởi mở của cư dân Đông Nam Á. Sự phỏng mô hình Trung Hoa được đẩy mạnh trong thời kỳ độc lập – tự chủ. Các triều đại của nhà nước Đại Việt, nhất là từ cuối Trần – đầu Lê đã chọn Nho giáo, cụ thể là Tống Nho [3, tr.209] làm chỗ dựa tinh thần. Điều nghịch lý là càng mong muốn xây dựng đất nước hùng mạnh để tránh hiểm họa bị xâm lược và đồng hóa, các triều đại quân chủ Việt Nam càng cố theo sát mô hình Trung Hoa. Khác với Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ xâm nhập vào khu vực Đông Nam Á không bằng cách cưỡng bức, bằng sự đô hộ mà bằng con đường hòa bình. Văn hóa Ấn Độ ở Đông Nam Á qua một quá trình tiêm nhiễm, tiếp nhận trong xã hội các dân tộc bản địa. Khi người Ấn Độ đến đây, họ tìm thấy được trước mặt họ không phải là những người man rợ ngu dốt, mà là những cộng đồng xã hội có tổ chức, với một nền văn minh đã phát triển cao, không phải là không có những nét chung với nền văn minh của họ [4, tr.317-319].

2) Tinh thần: giữ gìn và bảo lưu những phong tục, tập quán cổ truyền. Tiếp nhận những tinh hoa văn hóa phù hợp với phong tục, tập quán và lối sống riêng. Sự tiếp nhận ở đây chủ yếu là từ tôn giáo (Hindu, Hồi giáo, Nho giáo và Phật giáo). Hindu giáo và Phật giáo được truyền bá vào Đông Nam Á ngay từ những thế kỷ đầu Công nguyên và phát huy ảnh hưởng tới đời sống văn hóa tinh thần của các dân tộc Đông Nam Á. Từ thế kỷ XIII, dòng Phật giáo Tiểu thừa được phổ biến ở nhiều nước Đông Nam Á. Đền tháp cũ hoang vắng, các chùa mới mọc lên. Văn học Phật giáo gồm các tích truyện gắn với sự tích lịch sử Phật giáo phát triển mạnh, sự tiếp thu Phật giáo ở mỗi nơi cũng mang màu sắc đậm nhạt khác nhau và theo từng cách thức riêng. Khoảng thế kỷ XII-XIII, Hồi giáo du nhập vào Đông Nam Á theo các thương nhân Ả-Rập và Ấn Độ, trước tiên là ở một số nước hải đảo. Đến cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, hàng loạt tiểu quốc Hồi giáo ra đời ở Đông Nam Á hải đảo và bán đảo Mã Lai.

Cư dân Đông Nam Á tiếp thu và sử dụng văn tự và văn học rất sớm thông qua Phạn ngữ, trên cơ sở đó, các dân tộc Đông Nam Á đã sáng tạo ra chữ viết riêng cho dân tộc mình (người Chăm với bia Đông Yên Châu; Việt Nam thế kỷ thứ IV; Khmer đầu thế kỷ VII; Mãi Lai tìm thấy ở đảo Sumatra có niên đại 683; chữ Thái cổ đầu thế kỷ XIII…). Văn học gồm văn học dân gian và văn học viết (ở Việt Nam, một số từ chỉ cây cối (như “mít”, “lài”), và một loạt từ thuộc về Phật giáo (“Bụt”, “bồ đề”, “bồ tát”, “chùa”, “tháp”, “tăng già”…) có nguồn gốc từ Ấn Độ [1, tr.47]. Kiến trúc, điêu khắc của cư dân Đông Nam Á cũng chịu ảnh hưởng từ Trung Hoa và Ấn Độ như Thánh địa Mỹ Sơn, kinh thành Huế, chùa Một cột (Việt Nam) thế kỷ IV-XVI, Borobudur (Indonesia) thế kỷ thứ IX, Angkor (Cambodia) thế kỷ IX-XII, chùa Shwedagon (Myanma) thế kỷ XIV.

3. Kết luận

Đặc trưng nổi bật của văn hóa Đông Nam Á là “Thống nhất trong đa dạng” và quá trình hội tụ bắt nguồn từ nhiều trung tâm khác nhau cho nên chúng không mang tính đơn tuyến trong sự biệt lập mà là đa tuyến trong sự tiếp xúc đan xen nhiều chiều, tạo nên những đường đồng quy, những cấu trúc văn hóa – tộc người đa thành phần được vận hành theo những cơ chế linh hoạt mà đồng nhất. Kết quả là tính đa dạng ngày càng được mở rộng trong không gian, tính đồng nhất được tiềm ẩn trong thời gian và sự tác động qua lại giữa chúng tạo thành một cơ chế tổng hợp quy định sự phát triển của mỗi nước và của toàn khu vực [3].

Đông Nam Á là khu vực văn hóa, văn minh lúa nước lâu đời, có nguồn gốc và bản sắc riêng của mỗi dân tộc, bên cạnh những nét chung do mối quan hệ từ lâu trên nhiều lĩnh vực. Dù có chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ, nền văn hóa Đông Nam Á vẫn mang tính riêng biệt độc đáo. Chính cuộc tiếp xúc văn hóa này đã làm cho các dân tộc ở đây định hình và phát triển hơn với sự ra đời của các quốc gia cổ đại, điều này đã làm cho bản sắc văn hóa Đông Nam Á thêm đa dạng và phong phú. Đông Nam Á đã hấp thụ sâu sắc tinh thần của Phật giáo Ấn Độ, nền tôn giáo mà trong bản chất, là một triết học đạo đức, về cơ bản nhấn mạnh những cách nghĩ và cách sống hơn là những hệ thống kinh điển, nghi lễ, tín điều chặt chẽ. Bên cạnh tín ngưỡng bản địa là các tôn giáo hiện đại như Hindu giáo, Phật giáo; kiến trúc – điêu khắc mang dấu ấn của tư tưởng triết học Ấn Độ, văn học nghệ thuật cũng tiếp nhận những yếu tố của văn hóa Ấn Độ.

Với những bằng chứng xác thực về nhiều lĩnh vực, Đông Nam Á đã cho thế giới thấy được một nền văn hóa huy hoàng trong quá khứ. Văn hóa truyền thống không chỉ là cội nguồn, là động lực mà còn là sợi dây kết nối vững chắc từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Các dân tộc Đông Nam Á có một sức sống mãnh liệt, một vốn văn hóa cổ xưa. Vì vậy, sự tiếp biến giao lưu với những nền văn hóa ngoài khu vực đã không làm mất đi bản chất của con người Đông Nam Á mà càng làm tăng thêm sự phong phú, đa dạng của nó. Trên cơ tầng đó, văn hóa các quốc gia Đông Nam Á do những điều kiện môi trường, hoàn cảnh lịch sử, chọn lọc, tiếp biến một cách sáng tạo trước ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Ấn Độ đã tạo cho mình những nền văn hóa riêng, rất phong phú và đặc sắc trong một tổng thể khu vực Đông Nam Á thống nhất trong đa dạng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Mai Ngọc Chừ (1998), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

[2] Ngô Văn Doanh và Vũ Văn Thiện (1996), Những phong tục lạ ở Đông Nam Á, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

[3] Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương (2001), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[4] Nguyễn Tấn Đắc (2003), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

[5] Nguyễn Quốc Lộc (Chủ biên, 1997), Đông Nam Á ngày nay, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

[6] Trần Thị Mai (2007), Lịch sử bang giao Việt Nam – Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

[7] Phạm Đức Mạnh (2007), Lịch sử văn hóa vật chất thời tiền sử Đông Nam Á – một thế kỷ điền dã và liên hiệp nghiên cứu, tập 10, Phát triển Khoa học và Công nghệ.

[8] Vũ Dương Ninh (2005), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[9] Nguyễn Phan Thọ (1999), Nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[10] Viện nghiên cứu Đông Nam Á (2000), Nghệ thuật Đông Nam Á, Nxb Lao động, Hà Nội.

[11] Đông Nam Á, //vi.wikipedia.org/wiki/Đông_Nam_Á

Nguồn:Tạp chí Khoa học Đại học Văn Lang, số 28, tháng 7 – 2021

Thánh Địa Việt Nam Học
(//thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Một số ý kiến về văn hóa Đông Nam Á mang tính thống nhất trong đa dạng (Tác giả: ThS. Quảng Văn Sơn)

Sự GIAO THOA VĂN HÓA đầu thế kỷ XX qua trường hợp NHÓM HÀN THUYÊN (Lương Đức Thiệp, Nguyễn Đức Quỳnh,…)

05/02/2020 Chức năng bình luận bị tắt ở Sự GIAO THOA VĂN HÓA đầu thế kỷ XX qua trường hợp NHÓM HÀN THUYÊN (Lương Đức Thiệp, Nguyễn Đức Quỳnh,…)

Văn hóa Việt Nam hiện nay một mặt luôn giữ gìn những tinh hoa truyền thống của dân tộc, một mặt vẫn có sự tiếp biến giao lưu với văn hóa khu vực và quốc tế. Vậy sự tiếp biến đó bắt đầu từ khi nào? Nó thăng hoa vào giai đoạn nào? Lịch sử dân tộc trải qua nhiều biến cố thăng trầm, song hành với những biến cố đó là nhiều sự dịch chuyển của văn hóa, văn học, nghệ thuật. Trong đó, giai đoạn đầu thế kỷ XX từ 1930 đến 1945 có thể xem là thời kỳ có nhiều thay đổi lớn với sự du nhập của nhiều luồng tư tưởng khác nhau trong xã hội.

TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐÔNG NAM Á

Ngày nay, khi các dân tộc, các quốc gia ở Đông Nam Á đã vượt qua thời kì đối đầu để bước vào thời đại mới, thời đại chung sống hòa bình, hữu nghị và hợp tác. » Xem thêm

» Thu gọn
Chủ đề:
  • văn hóa truyền thống
  • bản sắc văn hóa việt nam
  • di tích lịch sử văn hóa
  • kiến thức lịch sử
  • luận văn
  • đời sống văn hóa
  • Đông Nam Á
Download
Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN LỊCH SỬ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐÔNG NAM Á Chủ tịch Hội đồng Ban Chủ nhiệm Khoa Chủ nhiệm đề tài Võ Văn Thắng Trần Thể Lê Thị Liên Chủ nhiệm đề tài: Ths. LÊ THỊ LIÊN Long Xuyên, tháng 6 năm 2010
  2. MỤC LỤC Trang Mục lục Lời cám ơn Lời nói đầu Phần tóm tắt Danh sách các biểu bảng, hình ảnh minh họa Viết tắt MỞ ĐẦU 1 I. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu 1 II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 III. Phương pháp nghiên cứu 3 IV. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3 NỘI DUNG 5 Chương I 5 NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” I. Điều kiện tự nhiên Đông Nam Á 5 II. Dân tộc và ngôn ngữ Đông Nam Á 8 III. Nền kinh tế truyền thống Đông Nam Á 12 IV. Tiến trình lịch sử các quốc gia Đông Nam Á 14 Chương II TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” 21 VỀ VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á I. Thức ăn 21 II. Trang phục 24 III. Nhà ở 28 IV. Kiến trúc và điêu khắc 31
  3. Chương III TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” 40 VỀ VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á I. Chữ viết 40 II. Tín ngưỡng bản địa - tôn giáo 42 III. Lễ hội và phong tục tập quán 51 IV. Nghệ thuật diễn xướng 63 KẾT LUẬN 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO 70 PHỤ LỤC 74
  4. LỜI CÁM ƠN Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành gửi lời cám ơn đến: Viện nghiên cứu Đông Nam Á Thư viện Quốc Gia Thư viện Quân đội Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Phòng Tư liệu - Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Ban Giám Hiệu, phòng Quản lí Khoa học và Hợp tác Quốc tế, Thư viện và Hội đồng Khoa học Trường Đại học An Giang. Xin chân thành gửi lời cám ơn đến quý Thầy Cô, quý đồng nghiệp trường Đại học An Giang, đặc biệt xin chân thành cám ơn PGS.TS. Ngô Văn Doanh - Viện nghiên cứu Đông Nam Á, đã động viên và hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài này trong thời gian vừa qua. Do điều kiện thời gian và trình độ còn nhiều hạn chế, cho nên, đề tài của tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của quý Thầy Cô và quý đồng nghiệp, để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cám ơn! Long Xuyên, tháng 6 năm 2010 Chủ nhiệm đề tài Lê Thị Liên
  5. LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, khi các dân tộc, các quốc gia ở Đông Nam Á đã vượt qua thời kì đối đầu để bước vào thời đại mới, thời đại chung sống hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Khi mà những cuộc tiếp xúc và giao lưu ngày càng diễn ra mạnh mẽ, thì mỗi chúng ta, ai cũng dễ dàng nhận thấy trong vốn kiến thức của người Việt và các dân tộc Đông Nam Á khác thiếu hẳn sự hiểu biết về khu vực, về những người bạn láng giềng của mình. Trong khi đó, các quốc gia dân tộc đều sinh ra và lớn lên trong khu vực Đông Nam Á, có chung một cội nguồn văn hóa - tộc người, có chung một tiến trình lịch sử, ngày nay đang cùng nhau xây dựng một ASEAN hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa. Tất cả mọi hoạt động giao lưu văn hóa hiện nay đều nhằm mục đích tăng cường sự hiểu biết, giới thiệu về nền văn hóa của nhau không chỉ ở khu vực mà ra cả thế giới bên ngoài, để thúc đẩy tình hữu nghị, đoàn kết, và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình, đồng thời tiếp thu, học tập các giá trị văn hóa của nước bạn. Đông Nam Á xưa kia được biết đến như “là một khu vực thần bí, nơi sản xuất hương liệu, gia vị và những sản phẩm kỳ lạ khác” (Donald G. Mc. Cloud, 1986) và cho đến tận cuối thế kỷ XIX, Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như một khu vực địa lý - lịch sử - văn hóa - chính trị riêng biệt. Cách nhận thức mới về tính khu vực của Đông Nam Á thực sự xuất hiện từ chiến tranh thế giới thứ hai, khi thực dân Anh lập ra Bộ chỉ huy quân sự Đông Nam Á, để phân biệt với Đông Á và Nam Á. Tuy nhiên, Đông Nam Á không phải chỉ là một khu vực chính trị thuần túy mà từ xa xưa, Đông Nam Á đã là một khu vực văn hóa thống nhất - điều này đã được nhiều học giả, kể cả các học giả Âu, Mĩ, khẳng định. Người ta đã khẳng định được rằng trước khi tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ, cư dân Đông Nam Á đã có một nền văn hóa bản địa phát triển, đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước, với nền văn hóa Đông Sơn mà biểu tượng rực rỡ nhất là chiếc trống đồng, được tìm thấy khắp ở các nước Đông Nam Á. Như vậy, có thể nói, Đông Nam Á đã là một khu vực lịch sử - văn hóa trước khi trở thành khu vực địa lý - chính trị. Ngày nay, văn hóa Đông Nam Á, vừa là sự kế thừa và phát huy vốn văn hóa bản địa truyền thống, vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới từ bên ngoài, cả phương Đông lẫn phương Tây. Trong kho tàng văn hóa đồ sộ Đông Nam Á có rất nhiều yếu tố chung, làm nên cái gọi là “khung” Đông Nam Á, song, cũng có không ít những yếu tố đặc sắc, riêng biệt độc đáo tiêu biểu cho mỗi quốc gia, dân tộc. Hay nói cách khác, văn hóa Đông Nam Á là nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng”, theo cách nói của người Inđônêxia. Cụm từ này bắt nguồn từ câu nói của nhà thơ Mpu Tantular ở Inđônêxia “Bhineka Tungga Ika” (nghĩa là “thống nhất trong đa dạng”), và ngày nay, câu nói này đã trở thành thuật ngữ phổ biến khi nói về văn hóa Đông Nam Á. Có lẽ, trên thế giới, hiếm có khu vực nào vừa mang tính đa dạng mà cũng vừa mang tính thống nhất như ở khu vực Đông Nam Á. Sự đa dạng và thống nhất ấy được biểu hiện trên nhiều mặt, từ cơ sở nền tảng tạo thành cho đến đời sống sinh hoạt vật chất lẫn tinh thần của cư dân Đông Nam Á. Ở đây, đề tài không trình bày theo hệ thống tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa Đông Nam Á từ cổ chí kim, mà đề cập đến những thành tố cấu thành nên nền văn hóa truyền thống Đông Nam Á đó. Trong đề tài này, được chia thành ba chương: Chương I: Những yếu tố tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng”
  6. Chương II: “Thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á Chương III: “Thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Đông Nam Á Trong mỗi chương, đều có phần chú thích và hình ảnh minh hoạ cụ thể để làm rõ nội dung đã được trình bày. Hy vọng rằng, đề tài này sẽ giúp bạn đọc có cái nhìn “tổng thể về văn hóa Đông Nam Á”, một thực tế của nền văn hóa tương đồng và đa sắc thái, mà chúng tôi dùng ý tưởng “thống nhất trong đa dạng” để đề cập đến. Bên cạnh đó, chúng ta sẽ hiểu biết thêm về những người bạn láng giềng của mình, đã kết “thành hội thành thuyền” trong quá trình phát triển, vươn lên theo xu thế khu vực và hội nhập thế giới. Tóm lại, văn hóa là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn, mà năng lực của người viết lại có hạn, dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn cũng không tránh khỏi những sai sót. Kính mong quý Thầy Cô và quý đồng nghiệp lượng thứ cho những sai sót và rất mong đón nhận được nhiều ý kiến chỉ dẫn thêm.
  7. PHẦN TÓM TẮT Tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á, đề cập đến nét chung và riêng của văn hóa Đông Nam Á, và cũng là một nét văn hóa đặc sắc, tiêu biểu cho khu vực, đó là tương đồng và đa sắc thái, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực. Với vị trí địa lý thuận lợi, Đông Nam Á trở thành cửa ngõ giao lưu qua lại giữa những nền văn minh lớn, nơi giao thương giữa các quốc gia, châu lục, là điều kiện thuận lợi để cho các nước trong khu vực tiếp cận với thế giới bên ngoài. Bên cạnh đó, với khí hậu nhiệt đới châu Á gió mùa, Đông Nam Á sớm có điều kiện phát triển nghề nông trồng lúa và đã trở thành một nền kinh tế chính của khu vực. Đông Nam Á vốn có chung cội nguồn về tộc người - từ một loại chủng Môngôlôit phương Nam (tiểu chủng Đông Nam Á), sau quá trình tiếp cận và giao lưu đã tạo cho Đông Nam Á một khu vực đa sắc tộc, đa ngôn ngữ. Các nhà nước, quốc gia Đông Nam Á từ khi ra đời cho đến nay, có sự thay đổi lớn về ranh giới, địa phận ở mỗi quốc gia, tuy ở những phương diện khác nhau nhưng tất cả các nước đều có chung hoàn cảnh lịch sử nên dễ dàng thông cảm cho nhau trong quá trình phát triển, vươn lên và hội nhập. Với nền tảng như thế, cho nên đã hình thành trong nếp sống của cư dân Đông Nam Á những phương thức sinh hoạt từ thức ăn, trang phục, nhà ở đến các công trình kiến trúc và điêu khắc đồ sộ, đều có những nét chung với nhau, dựa trên nền tảng của cơ tầng văn hóa bản địa, của cư dân nông nghiệp lúa nước, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng rất lớn từ nền văn hóa lớn của hai quốc gia láng giềng là Ấn Độ và Trung Hoa. Từ xa xưa, đời sống tâm linh của cư dân Đông Nam Á, đã được quan tâm đến bằng những tín ngưỡng bản địa đặc sắc, bên cạnh đó, với sự du nhập của các tôn giáo từ bên ngoài vào, đã được người dân ở đây tiếp nhận và hòa trộn với nền văn hóa bản địa, đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của họ. Là cư dân nông nghiệp lúa nước, cho nên, các dân tộc Đông Nam Á có các lễ hội và phong tục tập quán vừa mang bản sắc riêng đa sắc màu, vừa mang dáng dấp chung của nền nông nghiệp trồng lúa nước. Các hoạt động này vừa giúp cho cư dân thoả mãn những nhu cầu về đời sống tâm linh, vừa kèm theo các hình thức vui chơi, giải trí, nhằm tạo một không khí đoàn kết và thân thiện lẫn nhau giữa các con người trong một cộng đồng chung, làng xóm nói riêng, cả khu vực nói chung. Một hình thức giải trí khác cũng không kém phần hấp dẫn đối với cư dân Đông Nam Á, đó là nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống, và do các nước có sự tiếp cận, giao lưu và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cho nên nền nghệ thuật truyền thống của mỗi nước vừa có nét tương đồng về nội dung lẫn phương pháp vừa có sự đa dạng về hình thức biểu diễn. Nhìn chung, văn hóa truyền thống Đông Nam Á, dựa trên nền tảng của nên nông nghiệp lúa nước, đã tạo ra cho cư dân ở đây một đời sống sinh hoạt cả vật chất lẫn tinh thần đều vô cùng độc đáo, vừa mang tính thống nhất vừa mang tính đa dạng, một sắc thái rất riêng Đông Nam Á.
  8. DANH SÁCH CÁC BIỂU BẢNG, HÌNH ẢNH MINH HỌA Danh sách biểu bảng: Biểu bảng 1: Tộc người chủ thể và tỷ lệ đạt được so với tổng dân số trong nước ở các nước Đông Nam Á Biểu bảng 2: Tình hình tôn giáo ở các nước trong khu vực Đông Nam Á Danh sách hình ảnh minh họa: Hình 1: Bản đồ các quốc gia Đông Nam Á Hình 2: Bản đồ vương quốc Hồi giáo Brunây Hình 3: Bản đồ vương quốc Cămpuchia Hình 4: Bản đồ Cộng hòa Dân chủ Đông Timo Hình 5: Bản đồ Cộng hòa Inđônêxia Hình 6: Bản đồ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Hình 7: Bản đồ Liên bang Malaixia Hình 8: Bản đồ Liên bang Mianma Hình 9: Bản đồ Cộng hòa Philippin Hình 10: Bản đồ Cộng hòa Xingapo Hình 11: Bản đồ vương quốc Thái Lan Hình 12: Bản đồ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Hình 13: Núi lửa ở Philippin Hình 14: Ruộng bậc thang ở Sapa - Việt Nam Hình 15: Đoạn sông Mê Kông từ Cămpuchia chảy về Việt Nam Hình 16: Cánh đồng lúa chín ở Việt Nam Hình 17: Bờ biển của đất nước Đông Timo Hình 18: Bữa cơm truyền thống của gia đình người Việt (cơm - rau - cá) Hình 19: Cơm lam của người Lào và một số dân tộc ở Việt Nam Hình 20: Nasi goreng (cơm rang) của tộc người Melayu Hình 21: Nasi ulam (cơm rau sống) của tộc người Melayu Hình 22: Mắm bò hóc của người Campuchia Hình 23: Solok Cili (ớt xanh nhồi cá băm nhuyễn hấp) của người Mã Lai Hình 24: Bánh Ketupat trong lễ hội - lễ tết của người Mã Lai Hình 25: Bánh chưng, bánh tét trong ngày Tết của dân tộc Việt và một số dân tộc Đông Nam Á khác Hình 26: Nam cởi trần đóng khố Hình 27: Trang phục ngày Tết của phụ nữ H’mông Hình 28: Chiếc áo yếm của nhiều dân tộc Đông Nam Á Hình 29: Trang phục truyền thống của người Mianma Hình 30: Trang phục truyền thống của người Việt Nam Hình 31: Nhà sàn người Thái Hình 32: Nhà dài của người Ê Đê Hình 33: Nhà hình thuyền Hình 34: Nhà đất Hình 35: Nhà hiện đại Hình 36: Thánh địa Mỹ Sơn ở Việt Nam Hình 37: Ngôi đền Bôrôbuđua ở Inđônêxia Hình 38: Đền Ăngco Vát ở Cămpuchia Hình 39: Đền Bayon của Angkor Thom ở Cămpuchia Hình 40: Chùa tháp ở Pagan - Mianma Hình 41: Cung điện Hoàng gia ở Băng Cốc - Thái Lan
  9. Hình 42: Thạt Luổng ở Viên Chăn - Lào Hình 43: Pho tượng Phật bằng đồng ở Đồng Dương (Quảng Nam - Việt Nam) Hình 44: Bức phù điêu về Đức Phật của ngôi đền Bôrôbuđua ở Inđônêxia Hình 45: Nụ cười đền Bayon ở Ăngco Thom - Cămpuchia Hình 46: Vũ nữ Apsara ở đền Ăngco Vát Hình 47: Bức phù điêu ở đền Sukhôthay - cố đô Thái Hình 48: Những chạm khắc hình lá bao quanh Thạt Luổng ở Lào Hình 49: Tượng phật bằng vàng tại chùa Mahamuni Hình 50: Một trong 18 vị La Hán chùa Tây Phương - Hà Nội Hình 51: Bia Võ Cạnh (Khánh Hòa) xác định chữ Sanskrit và Pali vào Chăm Pa sớm nhất Hình 52: Chữ Khơ Me (Sanskrit) được ghi ở đền Ăngco Vát của Cămpuchia Hình 53: Bộ sách chữ Thái cổ Hình 54: Di sản chữ Nôm (tiếp thu từ chữ Hán) của người Việt Hình 55: Tục thờ sinh thực khí “nõ - nường” ở Phú Thọ - Việt Nam Hình 56: Tín ngưỡng phồn thực được thể hiện trên những bức tượng điêu khắc Hình 57: Tín ngưỡng phồn thực thể hiện ở Nhà mồ Tây Nguyên Hình 58: Tượng thờ Linga và Yoni ở Mỹ Sơn - Việt Nam Hình 59: Bàn thờ tổ tiên trong gia đình người Việt Hình 60: Ấn Độ giáo thời ba vị thần Brama, Visnu và Siva Hình 61: Tượng của Đức Phật được rắn thần Naga bảo vệ Hình 62: Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Trần Chiến Thắng cũng tham gia những đường cày đầu tiên trong Lễ hội xuống đồng ở Lào Cai - Việt Nam Hình 63: Lễ hội Té nước ở Thái Lan, Cămpuchia Hình 64: Lễ hội Loi Krathồng (thả đèn trong một cái chén lá) ở Thái Lan Hình 65: Hội đền Hai bà Trưng Hình 66: Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của người Khơ Me Hình 67: Tết cổ truyền người Lào Hình 68: Hát quan họ trên thuyền quanh giếng Ngọc - Cổ Loa Hình 69: Chơi đu - trò chơi dân gian không thể thiếu được trong ngày hội Hình 70: Cô gái duyên dáng trong thi thổi cơm Hình 71: Tục cướp dâu của dân tộc H’mông ở Việt Nam Hình 72: Đêm chợ tình ở Sa Pa - Lào Cai (Việt Nam) Hình 73: Lễ cưới truyền thống ở Việt Nam Hình 74: Trầu để nhai Hình 75: Trầu cau trong ngày cưới Hình 76: Đua thuyền rồng tại Băng Cốc - Thái Lan Hình 77: Chọi gà ở một làng quê Việt Nam Hình 78: Thi thả diều quốc tế ở Việt Nam Hình 79: Bịt mắt bắt dê Hình 80: Kéo co Hình 81: Ô lò cò Hình 82: Rối bóng ở Malaixia - Xingapo Hình 83: Rối nước Hình 84: Wayang Topeng (múa mặt nạ) ở Giava - Inđônêxia Hình 85: Wayang Wong (múa mặt nạ) ở Bali - Inđônêxia Hình 86: Múa Lakhon của người Thái Hình 87: Sân khấu Mayong ở Malaixia
  10. Hình 88: Lakhon Basac của người Cămpuchia Hình 89: Hát Dù kê của người Khơ Me Nam Bộ Việt Nam Hình 90: Cờ ASEAN Hình 91: Ban lãnh đạo các nước ASEAN Hình 92: Cờ biểu trưng ASEAN 2010 Hình 93: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắt tay thân mật với Quốc vương Brunây Haji Hassanal Bolkiah Hình 94: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Cămpuchia Hun Sen duyệt đội danh dự Quân đội Nhân dân Việt Nam Hình 95: Tổng thống Inđônêxia Susilo Bambang Yudhoyono tiếp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Hình 96: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Tổng bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Chummaly Sayason Hình 97: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Malaixia Abdul Razak Hình 98: Chủ tịch hội đồng quốc gia Mianma Than Shwe tiếp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Hình 99: Tổng thống Philippines Gloria Arroyo tiếp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Hình 100: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva Hình 101: Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đón Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết Hình 102: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đón tiếp Bộ trưởng Công thương và Du lịch Đông Ti-mo Gil da Costa AN. Alves Hình 103: Đông Nam Á không còn là một vùng bị chia rẽ mà sẽ gắn kết trong tổ chức ASEAN hội nhập vào quốc tế Hình 104: Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC 2006 Hình 105: Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy nâng cốc chúc mừng vị thế thành viên thứ 150 của Việt Nam
  11. VIẾT TẮT Viết tắt theo tiếng Anh: APEC: Asia Pacific Economic Cooperation Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ASEAN: Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEM: The Asia Europe Meeting Diễn đàn hợp tác Á - Âu SEAMEO: Southeast Asian Ministers of Education Organization Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á WTO: World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới Viết tắt theo tiếng Việt: CN: Công Nguyên CNXHKH: Chủ nghĩa Xã hội Khoa học KHXH Khoa học Xã hội KHXH & NVQG: Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia NXB: Nhà xuất bản TC: Tạp chí T.CN: Trước Công Nguyên Sđd: Sách đã dẫn
  12. MỞ ĐẦU I. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu 1. Mục tiêu Đề tài tập trung khai thác những yếu tố tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Trong đó, đề tài sẽ làm rõ những yếu tố như điều kiện tự nhiên; dân tộc và ngôn ngữ; nền kinh tế truyền thống và tiến trình phát triển lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á. Từ đó, đi đến khẳng định, đây là cơ sở tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á qua các mặt: thức ăn, trang phục, nhà ở, kiến trúc và điêu khắc. Qua đó, đề tài đi đến khẳng định: đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á rất đa dạng, tuy nhiên trong nền văn hóa đó đều thể hiện những nét tương đồng, thống nhất trong chiều sâu cuộc sống của họ. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Đông Nam Á qua các mặt: chữ viết, tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán và nghệ thuật biểu diễn sân khấu. Từ đó, đề tài sẽ rút ra những điểm tương đồng và khác biệt về đời sống văn hóa tinh thần - nét đặc trưng nổi bật trong đời sống văn hóa truyền thống ở các quốc gia Đông Nam Á. 2. Nội dung nghiên cứu Đề tài nghiên cứu gồm ba phần: Phần 1: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu khai thác những khía cạnh để tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Trước tiên, đề tài sẽ đi vào xem xét về điều kiện tự nhiên, như các mặt: vị trí địa lý, địa hình, khí hậu và động, thực vật ở Đông Nam Á. Bên cạnh đó, yếu tố dân tộc và ngôn ngữ cũng là những điều kiện cần thiết tạo nên tính đặc trưng của nền văn hóa này. Xuất phát từ một nguồn nhân chủng Môngôlôit phương Nam, qua quá trình giao lưu và lan tỏa, đã hình thành nên những tộc người khác nhau ở Đông Nam Á. Đồng thời, có chung một nguồn gốc ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử, dần dần cũng hình thành nên những ngữ hệ khác nhau trong khu vực. Nền kinh tế truyền thống cũng là yếu tố cực kỳ quan trọng tạo nên đặc trưng văn hóa khu vực, đặc biệt là nghề nông trồng lúa. Sau cùng, sự tương đồng trong tiến trình lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á cũng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên tính tương đồng trong văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Phần 2: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á: thức ăn, trang phục, nhà ở, kiến trúc và điêu khắc. Trong bữa ăn truyền thống của cư dân Đông Nam Á chủ yếu là ăn cơm, rau, cá hay thịt. Từ gạo, cư dân Đông Nam Á đã chế biến ra nhiều loại thức ăn khác hay các loại bánh để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày và lễ hội. Còn về trang phục truyền thống của cư dân Đông Nam Á là nam đóng khố, nữ mặc váy, cởi trần, dần về sau y phục có sự thay đổi cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng: yếm, áo chui, quần, váy… Tùy mỗi quốc gia, dân tộc mà trang phục truyền thống của họ hoặc thêm vào hay bớt đi, tạo nên bức tranh muôn màu trong trang phục cư dân Đông Nam Á. Về nhà ở, kiểu nhà sàn là kiểu nhà truyền thống, đồng thời, nhà hình thuyền, nhà đất, nhà 1
  13. Phần 3: đề tài tập trung khai thác những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Đông Nam Á: chữ viết, tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán, nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống. Về chữ viết Đông Nam Á chịu ảnh hưởng sâu sắc của chữ Ấn Độ (chữ Sanskrit và Pali), Trung Quốc (chữ Hán), dần dần họ tạo ra nhiều kiểu chữ viết riêng cho dân tộc mình, và chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, các loại chữ Latinh đã ra đời ở các quốc gia Đông Nam Á. Về hệ thống tín ngưỡng, xuất phát từ một nền nông nghiệp lúa nước, cư dân các nước Đông Nam Á có những tín ngưỡng tương tự nhau: sùng bái tự nhiên, phồn thực, thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh đó, các tôn giáo từ bên ngoài: Phật giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo được truyền bá vào Đông Nam Á, và được cư dân Đông Nam Á tiếp nhận và biến tấu cho phù hợp với tín ngưỡng bản địa. Với các lễ hội: nông nghiệp, tôn giáo, lễ Tết là những lễ hội truyền thống gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước của các quốc gia Đông Nam Á. Còn về phong tục tập quán: cưới xin, tang ma, nhai trầu, hay các trò chơi dân gian: thả diều, bơi thuyền, chọi gà… cũng được cư dân Đông Nam Á bảo lưu và phát huy các giá trị vốn có của nó. Loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống: rối bóng, rối nước, kịch múa, kịch hát… cũng được giữ gìn và bảo tồn nét văn hóa đặc sắc của cư dân vùng Đông Nam Á. II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1. Đối tượng Đề tài nghiên cứu tính “thống nhất trong đa dạng” về các mặt trong đời sống vật chất như ăn, mặc, ở, kiến trúc và điêu khắc, đồng thời về các mặt trong đời sống tinh thần như chữ viết, tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội - phong tục tập quán, nghệ thuật sân khấu biểu diễn của các quốc gia Đông Nam Á. Bên cạnh đó, đề tài còn nghiên cứu các tiền đề quan trọng tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của nền văn hóa truyền thống Đông Nam Á: điều kiện tự nhiên, dân tộc và ngôn ngữ, nền kinh tế truyền thống và tiến trình phát triển lịch sử của mỗi nước trong khu vực. 2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về nền văn hóa truyền thống ở các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, biểu hiện trên lĩnh vực văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần: từ ăn, mặc, ở, kiến trúc và điêu khắc đến chữ viết, tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán, nghệ thuật diễn xướng từ khi có mặt ở các quốc gia Đông Nam Á cổ đại và còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên, đề tài không tập trung nghiên cứu sự phát triển của các mặt trong đời sống văn hóa vật chất lẫn tinh thần theo tiến trình phát triển của lịch sử, mà ở đây, khái quát những đặc điểm nổi bật của các thành tố cấu thành nên nền văn hóa đó và rút ra những điểm tương đồng lẫn khác biệt để giải quyết vấn đề đã đặt ra trong đề tài. Đề tài tập trung nghiên cứu các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á (Cămpuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, Mianma, Malaixia, Inđônêxia, Philippin, Xingapo, Brunây, Đông Timo). Tuy nhiên, ở các quốc gia Đông Nam Á này, có những quốc gia mới giành tự chủ sau này như Xingapo, Brunây, hay Đông Timo mới tách khỏi Inđônêxia (năm 2002). Do vậy, văn hóa của các nước này thường được nhắc đến và hòa chung vào văn hóa tộc người Mã Lai hay văn hóa Inđônêxia, cho nên, khi tiếp xúc với đề tài, thường thấy vắng bóng các quốc gia trên là lẽ tất nhiên. 2
  14. III. Phương pháp nghiên cứu Dựa vào phương pháp luận sử học theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc. Trên cơ sở tìm hiểu thực tế các mô hình về văn hóa Đông Nam Á như ở Viện bảo tàng Dân tộc học, cùng với việc tiếp cận và theo dõi những thông tin, tư liệu trên internet, truyền hình… Sử dụng những phương pháp chuyên ngành Lịch sử: thu thập, xử lí tư liệu, tổng hợp, thống kê, chọn lọc, phân tích, so sánh, đối chiếu… để làm thỏa đáng vấn đề đã đặt ra trong đề tài. IV. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tình hình nghiên cứu trong nước Trong nhiều năm trở lại đây, văn hóa Đông Nam Á đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên đến nay, vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu về tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Hiện nay, vấn đề về tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á được một số tác giả đề cập trên một số công trình cụ thể: Tác giả Phan Hữu Dật (chủ biên) với quyển “Văn hóa lễ hội của các dân tộc Đông Nam Á”, năm 1992, với phần đầu của tác phẩm có đề cập đến, Đông Nam Á: thống nhất trong đa dạng, sau đó, giới thiệu chi tiết những lễ hội truyền thống của các quốc gia: Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Mianma, Malaixia, Xingapo, Philippin, Inđônêxia. Quyển “Phong tục các dân tộc Đông Nam Á” do Ngô Văn Doanh và Vũ Quang Thiện (chủ biên), năm 1997, giới thiệu các phong tục như ăn, ở, mặc, hôn nhân, tín ngưỡng ở một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Bài viết “Những suy nghĩ về tính thống nhất của văn hóa Đông Nam Á” của Phan Ngọc trong quyển “Việt Nam - Đông Nam Á: Quan hệ Lịch sử và văn hóa”, của Viện Đông Nam Á, năm 1998, tác giả có đề cập một cách khái quát về tính thống nhất của một số thành tố văn hóa của cư dân Đông Nam Á. Quyển “Văn hóa Đông Nam Á” của Mai Ngọc Chừ, năm 1999, đã trình bày một cách hệ thống một số thành tố của văn hóa Đông Nam Á như: ăn uống, các trò giải trí, nghệ thuật tạo hình, hơn nữa, tác phẩm còn đề cập đến các giai đoạn phát triển và những thành tựu lớn của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Quyển: “Nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á” của Nguyễn Phan Thọ, năm 1999, đây là một tài liệu chuyên khảo về nghệ thuật truyền thống của các nước trong khu vực Đông Nam Á. Trong quyển sách này, tác giả trình bày đến quá trình hình thành và phát triển của các loại hình nghệ thuật truyền thống cũng như những nền tảng tạo nên sự đồng nhất trong đa dạng của nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á. Quyển “Những tương đồng giữa các lễ hội cổ truyền Đông Nam Á” của Trần Bình Minh, năm 2000, đã đề cập đến những lễ hội lớn trong khu vực Đông Nam Á. Trong quyển sách này, tác giả đã tập trung so sánh những nét tương đồng trong lễ hội cổ truyền của người Việt ở đồng bằng và trung du Bắc bộ (Việt Nam) với một số quốc gia trong khu vực. 3
  15. Hai tác giả Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương, với quyển “Văn hóa Đông Nam Á”, năm 2001, khái quát về tình hình nghiên cứu Đông Nam Á, nền văn hóa bản địa của cư dân nông nghiệp; sự hình thành các nền văn hóa quốc gia dân tộc trong quá trình tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc và văn hóa phương Tây; cùng với văn hóa Đông Nam Á trong thời kỳ lịch sử hiện đại. Bài viết “Văn hóa truyền thống Đông Nam Á” trong quyển “Lịch sử văn hóa thế giới cổ trung đại” do Lương Ninh chủ biên, năm 2003, bài viết khái quát lịch sử cổ - trung đại Đông Nam Á, đồng thời, nêu lên một số đặc điểm về văn hóa Đông Nam Á như tôn giáo, lễ hội, chữ viết, văn học, kiến trúc và điêu khắc. Quyển “Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam bộ và Đông Nam Á” của tác giả Ngô Văn Lệ, năm 2003, trong tác phẩm giới thiệu sơ nét về tính “thống nhất trong đa dạng” của Đông Nam Á nhìn từ khía cạnh trang phục, tổ chức gia đình, công xã. Quyển “Văn hóa Đông Nam Á” của Nguyễn Tấn Đắc, năm 2003, giới thiệu về khu vực văn hóa Đông Nam Á, các nhóm chủng tộc và ngôn ngữ, tiếp đến là những nền tảng cơ bản của văn hóa khu vực là nông nghiệp và thương nghiệp. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến văn hóa hiện nay ở một số nước thông qua hệ ý thức và bảng giá trị của các nước Đông Nam Á, cuối cùng, tác giả tổng hợp Đông Nam Á và văn hóa Đông Nam Á, quá trình nhận thức khu vực Đông Nam Á. Đề tài cấp Bộ: “Cộng đồng Melayu một số vấn đề văn hóa” do Mai Ngọc Chừ chủ nhiệm, năm 2004, giới thiệu về văn hóa phục vụ đời sống như ăn, ở, mặc; tôn giáo - tín ngưỡng; một số phong tục tập quán và ngôn ngữ; nghệ thuật của cộng đồng Melayu. Đinh Trung Kiên với quyển “Tìm hiểu nền văn minh Đông Nam Á”, năm 2007, tác giả giới thiệu về sự ra đời, phát triển và những thành tựu rực rỡ của nền văn minh Đông Nam Á, tiêu biểu là tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội, phong tục tập quán, kiến trúc, hội họa, điêu khắc. Quyển “Tri thức Đông Nam Á” của hai tác giả Lương Ninh và Vũ Dương Ninh (chủ biên), năm 2008, giới thiệu về Đông Nam Á đại cương: địa lý, lịch sử, văn hóa và các nước Đông Nam Á cụ thể, trong đó quyển sách cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản về các quốc gia Đông Nam Á từ cổ đại cho đến đương đại. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Unity in Diversity Regional Identity Building in Southeast Asia (Thống nhất trong đa dạng: xây dựng bản sắc khu vực Đông Nam Á) do Kristina Jonsson là một viên nghiên cứu của Trung tâm Đông và Đông Nam châu Á học, năm 2008, tại Đại học Lund, Thụy Điển. Nội dung của bài viết là vấn đề khu vực và xây dựng bản sắc văn hóa Đông Nam Á, khu vực Đông Nam Á trong sự thống nhất. Diversity and Unity in Southeast Asia (Sự đa dạng và thống nhất ở Đông Nam Á), do Jan o. M. Broekp, Đại học California, Berkeley. Nội dung chứng minh được thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Đông Nam châu Á vào nửa đầu của năm 1940. Vào đầu thập kỷ này, vùng đất giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Úc, với ngoại lệ của nhà nước Thái Lan đệm, đều dưới sự kiểm soát trực tiếp của các nước phương Tây. Qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trên cho thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu đi vào một cách có hệ thống về tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Dựa trên thành quả nghiên cứu của người đi trước, tác giả sẽ hệ thống một cách khái quát về các thành tố cấu thành nên nền văn hóa trên. 4
  16. NỘI DUNG Chương I NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” I. Điều kiện tự nhiên Đông Nam Á Con người sinh ra và lớn lên trong tự nhiên, được tự nhiên nuôi dưỡng cho nên con người luôn luôn gắn bó với tự nhiên. Chính vì thế, “mối quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng là một mặt cơ bản của đời sống văn hóa” (Trần Quốc Vượng, 1997: 17). Có thể nói, theo cách nói của Mai Ngọc Chừ: “điều kiện tự nhiên, môi trường tự nhiên của một khu vực chắc chắn có một ảnh hưởng nhất định đến đời sống văn hóa của con người trong khu vực đó” (Mai Ngọc Chừ, 1999: 15). Chính vì vậy, trước khi đi vào các mặt của đời sống văn hóa, chúng ta lại bắt đầu từ điều kiện tự nhiên của khu vực. 1. Vị trí địa lý Trên bản đồ thế giới, Đông Nam Á nằm trong một phạm vi khá rộng phía đông nam lục địa Á - Âu. Xét về mặt địa lý tự nhiên, diện tích Đông Nam Á khoảng 4,5 triệu km2, trải ra trên một không gian khá rộng (bao gồm cả biển và đất liền), nằm trong cùng một phạm vi khoảng từ 920 đến 1400 kinh Đông, và khoảng từ 280 vĩ Bắc chạy qua xích đạo đến 150 vĩ Nam, như một “ngã tư đường” của các châu lục lớn. Khu vực này gồm hai bộ phận: bán đảo Trung - Ấn và quần đảo Mã Lai, là một quần thể gồm: các đảo, bán đảo, quần đảo và các vịnh trong vùng biển xen kẻ với nhau rất phức tạp chạy dài suốt từ Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương, với sự phân tán của những quần đảo uốn cong có số lượng đảo nhiều và lớn nhất thế giới (chủ yếu ở hai quốc gia Inđônêxia, Philippin). Chính vì thế, đã tạo cho Đông Nam Á có một vị trí chiến lược quan trọng, vừa nằm giữa và gần hai quốc gia rộng lớn, với hai nền văn minh lâu đời, rực rỡ vào bậc nhất châu Á và thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ, vừa gần với cường quốc kinh tế Nhật Bản, nằm trên tuyến đường biển quốc tế quan trọng, giữa châu Úc với các quốc gia nằm ở phía bắc là Hàn Quốc, Triều Tiên, Trung Quốc, Butan, Bănglađét, Nêpan. Về mặt địa lý hành chính hiện đại, Đông Nam Á bao gồm 11 quốc gia: các quốc gia nằm ở hải đảo gồm Inđônêxia, Xingapo, Philippin, Brunây, Đông Timo; các quốc gia nằm ở lục địa gồm Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Mianma; và quốc gia Malaixia là vừa hải đảo vừa lục địa. Với vị trí đó, Đông Nam Á sớm trở thành khu vực có ý nghĩa và tầm quan trọng lớn trên nhiều bình diện, đồng thời là điều kiện thuận lợi để các nước trong khu vực tiếp cận, trao đổi với các nền văn hóa bên ngoài từ Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập đến châu Âu, để sáng tạo cho mình một nền văn hóa rộng lớn, đặc sắc và thấm đậm tinh thần khu vực. 2. Địa hình Đông Nam Á là khu vực có địa hình phong phú, với núi rừng, đồng bằng và biển cả, được nối với nhau bằng hệ thống sông ngòi chằng chịt đầy nước, cho nên văn hóa Đông Nam Á là một chỉnh thể thống nhất của ba yếu tố: văn hóa núi, văn hóa đồng bằng và văn hóa biển. Ở mỗi yếu tố văn hóa tự mang trong mình những đặc trưng riêng của chủ nhân nó. Những yếu tố: núi, biển và đồng bằng được tạo nên và chi phối chặt chẽ bởi những đặc điểm địa hình vô cùng độc đáo nơi đây, bởi, Đông Nam Á hải đảo hay lục địa đều có sự đan xen mang tính hệ thống giữa đồi núi, đồng bằng và sông biển, mà 5
  17. Ở khu vực thuộc bán đảo Trung - Ấn, có các cao nguyên rộng lớn, từ cao nguyên Shan (Mianma), Khorat (Thái Lan), Bôlôven, Khăm Muộn (Lào) đến Tây Nguyên (Việt Nam), rồi vươn ra biển làm cho các dòng sông lớn cũng bắt nguồn từ các núi rừng rộng lớn. Với hệ thống sông ngòi dày đặc, cũng bắt nguồn từ bán đảo Trung - Ấn: sông Mê Kông dài 4.500km (đoạn chảy vào khu vực Đông Nam Á dài 2.600km), sông Xaluen dài 3.200km, Iraoađi dài 2.150km, sông Mê Nam dài 1.200km, sông Hồng dài 1.126km. Còn ngược lại, các con sông trên quần đảo Mã Lai như ở Inđônêxia, Philippin, thậm chí cả Malaixia đều ngắn và dốc, có giá trị khai thác thủy điện cao. Sông ngòi ở Đông Nam Á không chỉ có giá trị về mặt giao thông mà chủ yếu là tạo nên các vùng châu thổ màu mỡ phù sa. Thông thường, tương ứng với các con sông lớn là các vùng châu thổ rộng lớn, như vùng Hạ Mianma; châu thổ Mê Nam (Thái Lan); châu thổ Mê Kông (Cămpuchia, Việt Nam…); châu thổ sông Hồng (Việt Nam). Từ bán đảo Đông Dương qua Thái Lan đến Mianma, cảnh quan tự nhiên của vùng là những châu thổ xen kẽ với đồi núi, rừng rậm kéo dài từ phía bắc xuống phía nam ra biển, núi rừng và bình nguyên ở Đông Nam Á bao phủ các đảo, quần đảo ở phía đông, đông nam với trữ lượng lớn về tài nguyên. Sang quần đảo Mã Lai, các quốc gia Inđônêxia và Philippin có các dãy núi uốn nếp xen các núi lửa với cao nguyên núi lửa, còn các đồng bằng thường phân bố dọc theo các miền duyên hải hoặc trong các thung lũng giữa núi. Đồng bằng ở hải đảo thường nhỏ hẹp hơn so với khu vực lục địa, tuy nhiên, so với khu vực Đông Nam Á lục địa, địa hình đồi núi ở các nước hải đảo lại có phần quy mô hơn, trong đó địa hình núi lửa trở thành một yếu tố nổi bật trong cảnh quang thiên nhiên của khu vực này. Hầu hết các đỉnh núi cao nhất ở Inđônêxia và Philippin đều là những núi lửa đang hoạt động hoặc đã tắt, như núi Kerinsi ở Xumatơra, Semera ở Giava, Rantemario ở Xulavêxi, Anpô trên đảo Minđanao (Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). Đông Nam Á là khu vực có nhiều quần đảo vào bậc nhất thế giới, tập trung chủ yếu ở hai quốc gia: Inđônêxia (17.508 hòn đảo) và Philippin (7.107 hòn đảo). Biển và vịnh ở Đông Nam Á kéo dài từ vùng biển Đông, bán đảo Đông Dương hướng ra Thái Bình Dương đến vịnh Inđônêxia của Ấn Độ Dương. Đảo và quần đảo với những vịnh lớn, nhỏ, cùng với những eo biển nổi tiếng lâu đời đã tạo nên bức tranh thiên nhiên đa sắc và hùng vĩ của Đông Nam Á. Đó chính là những nét chung, thống nhất về mặt địa hình các quốc gia Đông Nam Á. Bên cạnh những nét chung đó, ở mỗi quốc gia lại chứa đựng những nét riêng, khác biệt tạo nên cảnh sắc đa dạng, muôn màu muôn vẻ trong toàn khu vực. 3. Khí hậu Đông Nam Á có vị trí địa lý khá quan trọng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi có đường xích đạo chạy qua, cho nên cùng chịu ảnh hưởng chủ yếu của khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết đặc trưng của khu vực châu Á. Đặc điểm chung của vùng này là tính chất bán đảo và điều kiện hoàn lưu gió mùa, tạo cho Đông Nam Á, một khu vực “châu Á gió mùa” bởi đặc trưng nổi bật của khí hậu nóng và ẩm, với hai mùa được hình thành khá rõ là mùa khô và mùa mưa trong năm. Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu thì Đông Nam Á có độ ẩm cao nhất thế giới (trên 80% - 90%), vì có đường xích đạo chạy qua. Do có đường bờ biển dài bao quanh khiến lượng nước bốc hơi trên đất liền luôn dư thừa (Sakurai Yumlo, 1996), tạo nên khí hậu nóng ẩm (nhiệt độ trung bình từ 20 - 270C) và mưa nhiều (lượng mưa từ 1.500 đến 3.000mm/năm) (Phan Ngọc Liên, 2002). Mặc dù, khu vực Đông Nam Á cùng 6
  18. Tuy nhiên, người ta phân chia khí hậu Đông Nam Á thành hai đới khác nhau (Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008), vừa tạo nên tính đa dạng vừa tạo nên tính thống nhất về khí hậu nơi đây: Đới khí hậu xích đạo: tạo thành một dải dọc theo đường xích đạo, bao gồm các đảo Xumatơra, Calimantan, Xulavêxi, phần tây các đảo Giava, Irian, phần nam bán đảo Malacca và đảo Minđanao. Đới khí hậu cận xích đạo (đới gió mùa xích đạo): gồm hai đới nằm ở phía bắc và phía nam đới khí hậu xích đạo. Trong đó, đới nằm ở phía bắc bao gồm: phần lớn bán đảo Trung - Ấn và gần như toàn bộ quần đảo Philippin; còn đới ở phía nam gồm toàn bộ quần đảo nằm ở phía đông của đảo Giava. Ở các đới khí hậu này, một năm có hai mùa rõ rệt: mùa hạ (1) và mùa đông (2). Nhìn tổng thể, địa hình - khí hậu Đông Nam Á khá thuận lợi cho cuộc sống của con người, nhất là ngay trong buổi đầu bình minh lịch sử, chính vì vậy, Phan Ngọc Liên, Nghiêm Đình Vỳ, Đinh Ngọc Bảo, Trần Thị Vinh (2002) đã khẳng định: Những mùa mưa ổn định với khí hậu không quá gay gắt về cả nhiệt độ và lượng mưa, địa bàn sinh tụ nhỏ nhưng hết sức phong phú, đa dạng kết hợp rừng - suối, đồi ruộng, có biển, có đồng bằng, đã tạo nên những không gian lí tưởng cho cuộc sống của con người thời cổ, điều đó giải thích vì sao, từ rất cổ xưa, con người đã đến đây sinh sống. Tóm lại, “điều kiện nóng ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là hằng số tự nhiên của văn hóa Đông Nam Á, và chính nó đã góp phần tạo nên nét đặc trưng của văn hóa Đông Nam Á - một nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng” của khu vực” (Mai Ngọc Chừ, 1999: 17). 4. Động và thực vật Với điều kiện khí hậu như đã nói trên sẽ gắn chặt với sự sinh tồn và phát triển của giới động, thực vật ở khu vực Đông Nam Á. Thật vậy, với rừng tự nhiên đa dạng, mang nhiều màu sắc, cho nên thành phần trong giới động vật ở khu vực Đông Nam Á cũng rất phong phú và đa dạng về chủng loài. Trong rừng nhiệt đới ẩm thường xanh (2) có khỉ, đười ươi, vượn, heo vòi, nhiều loài chim và bò sát… Trong rừng gió mùa, rừng thưa và xavan cây bụi (3) tập trung nhiều động vật ăn cỏ, ăn lá cây và động vật ăn thịt. Đáng chú ý là có trâu rừng, linh dương, nai, bò tót, bò xám, tê giác một sừng, voi, hổ, báo… Tất cả các loài này phân bố rộng, có ở cả bán đảo Trung - Ấn và vùng đảo Mã Lai. Ngày nay, nhiều loài động vật quý như hổ, báo, bò rừng, tê giác… bị suy giảm nhanh và có nguy cơ bị tuyệt chủng vì con người săn bắn bừa bãi và diện tích rừng bị thu hẹp (Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). Ngoài ra, Đông Nam Á còn được coi là một “viện bảo tàng chim thú” - thiên đường của các nhà động vật học, với những loài chim ở đây có giá trị lớn về nhiều mặt như kinh tế, khoa học, sản xuất, văn hóa - xã hội (Phan Ngọc Liên, 2002). Nhà địa lý - thực vật học người Mỹ C.O Sauer, cho rằng: Đông Nam Á là nơi phát sinh trồng trọt sớm vì đó là một vùng nhiệt đới với tính đa dạng cao về thực vật cũng như cảnh quan địa mạo, sinh thái mà không một nơi nào sánh kịp, đó là vùng thung lũng chân núi hoặc ven biển (Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương, 2001). Chính đặc trưng của khí hậu nóng ẩm ở Đông Nam Á cùng với biển và gió mùa đã biến khu vực này thành thiên đường của thế giới thực vật, làm cho hệ thực vật ở đây vô cùng đa dạng và phong phú, đó là màu xanh cây lá, hoa trái bạt ngàn quanh năm bao phủ 7
  19. Nhờ có khí hậu thuận lợi, không quá gay gắt về cả nhiệt độ lẫn lượng mưa nên tạo điều kiện cho nền kinh tế nông nghiệp - nền kinh tế chính của khu vực mà cây lúa đóng vai trò chủ đạo. Do vậy, Đông Nam Á được mệnh danh là quê hương của cây lúa nước, cây lương thực số một của nhân loại. Những cánh đồng lúa được phân bố chủ yếu trên các đồng bằng châu thổ, dọc theo thung lũng các con sông ở Đông Nam Á vì đây là những vùng đất phù sa màu mỡ do các con sông bồi đắp và được con người ở đây tận dụng trong quá trình sản xuất. Các nhà Sử học Phan Ngọc Liên, Nghiêm Đình Vỳ, Đinh Ngọc Bảo, Trần Thị Vinh (2002) nhận xét rất xác đáng về khu vực này: Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt đới đã cung cấp đủ nước cho con người dùng trong đời sống và sản xuất, tạo nên những cánh rừng nhiệt đới phong phú về thảo mộc và chim muông. Đông Nam Á từ lâu đã trở thành quê hương của những cây gia vị, cây hương liệu đặc trưng như hồ tiêu, sa nhân, đậu khấu, hồi, quế, đàn hương, trầm hương… Do có những điều kiện thiên nhiên tương đồng với các loài động, thực vật rất khác biệt với các vùng khác, nhưng lại giống nhau trong vùng, nên Đông Nam Á còn được coi là khu vực thực vật - dân tộc học và động vật - dân tộc học. Trong số các loài thực vật, rõ ràng, cây lúa chiếm diện tích lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á và đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của các nước nơi đây (Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). Đông Nam Á là một miền địa lý đa dạng mà thống nhất (Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương, 2001: 81, sđd), dù xét dưới góc độ nào - vị trí (đảo, bán đảo, quần đảo), địa hình (núi, đồng bằng, sông biển), khí hậu (nhiệt đới gió mùa) hay hệ động thực vật. Sự “thống nhất trong đa dạng” đó của điều kiện tự nhiên là một trong những tiền đề quan trọng tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. II. Dân tộc và ngôn ngữ Đông Nam Á 1. Dân tộc Như đã nói, Đông Nam Á là nơi nằm trên tuyến đường giao lưu thuận lợi Đông - Tây, cho nên ở đây cũng diễn ra quá trình hỗn dung giữa các thành phần chủng tộc với nhau, rất phức tạp. Xét về nguồn gốc xuất phát dân tộc của các nước Đông Nam Á thì người ta xác định rằng, các dân tộc Đông Nam Á đều xuất phát từ một loại chủng Môngôlôit phương Nam (tiểu chủng Đông Nam Á), mang trong mình ở những mức độ khác nhau từ các yếu tố của hai đại chủng Môngôlôit và Ôxtralôit. Sự “đồng tộc” trên phổ rộng này là một trong những tiền đề quan trọng tạo nên nhiều điểm tương đồng cũng như khác biệt về con người cũng như văn hóa của khu vực Đông Nam Á. Hiện nay, các nước Đông Nam Á đều là những quốc gia đa thành phần dân tộc, trong đó ở mỗi nước thường có một thành phần dân tộc chiếm chủ thể về số lượng cư dân (5) và trình độ phát triển xã hội. Ngoài ra, còn có nhiều thành phần tộc người khác vốn bản địa của khu vực có từ lâu đời với số lượng thay đổi từng nơi. 8
  20. Từ nhóm nhân chủng Môngôlôit phương Nam (tiểu chủng Đông Nam Á) có thể chia ra 4 nhóm nhỏ như sau (Nguyễn Đình Khoa, 1983; Nguyễn Tấn Đắc, 2003; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008): 1.1. Nhóm Anhđônêdiên Bắt đầu là có một dòng người thuộc chủng Môngôlôit từ vùng lục địa châu Á (Tây Tạng) di cư về hướng đông nam và dừng lại ở khu vực mà nay gọi là bán đảo Trung - Ấn. Tại đây đã diễn ra sự hợp chủng giữa họ với cư dân Mêlanêdiên bản địa (thuộc đại chủng Ôxtralôit), tạo chủng Anhđônêdiên (còn gọi là Mã Lai cổ) (6). Từ đây lan tỏa ra, người Anhđônêdiên cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại. Người Anhđônêdiên là cư dân cổ có mặt ở hầu khắp các nơi trong khu vực Đông Nam Á, gồm những tộc ít người sinh sống chủ yếu là sâu trong các hải đảo như như người Batắc ở Xumatơra; người Đaiắc, Kênya, Kayan, Punan ở Calimantan; Alphuru ở Xulavêxi thuộc Inđônêxia; nhóm Bontok, Nabaloi, Iphugao, Kankanai, Pagobo, Ghianga thuộc Philippin. Còn ở các miền rừng núi, người Anhđônêdiên có mặt khắp trên bán đảo Đông Dương: các tộc người ở Tây Nguyên, ở dãy Trường Sơn (Việt Nam): Bru - Vân Kiều, Xơ Đăng, Ba Na, Gia Rai, M’nông, Khơ Mú; tập trung chủ yếu ở Lào: Thượng Lào (Khơ Mú), Hạ Lào (Hin, Bôlôven) và miền Trung Lào ít hơn; ngoài ra còn ở Cămpuchia và Thái Lan. 1.2. Nhóm Nam Á Nhóm Nam Á (7) là kết quả của sự hợp chủng giữa hai chủng Anhđônêdiên với chủng Môngôlôit, với các nét đặc trưng Môngôlôit lại càng nổi trội, vì vậy, nó được coi là tiểu chủng Môngôlôit phương Nam, và về sau, Bách Việt đã được sinh ra từ chủng này (Nguyễn Đình Khoa, 1983; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). Nhóm Nam Á gồm đại bộ phận người Đông Nam Á, với các nhóm đại diện chủ yếu là Tày, Thái, Việt (Kinh), Lào, Mianma, Mã Lai, Khơ Me… ở bán đảo Trung - Ấn; Visaya, Tagan, Giava, Sunđa, Mađura… ở quần đảo Mã Lai (Nguyễn Đình Khoa, 1983; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). 1.3. Nhóm Vêđôit Theo một giả thuyết, từ hai chủng Nam Á và Anhđônêdiên đã có một tác động nhất định đến loại hình nhân chủng khác ở Đông Nam Á là Vêđôit, phần lớn là Anhđônêdiên. Trong một giai đoạn lịch sử khá dài, nhóm loại hình nhân chủng Vêđôit và Anhđônêdiên đã là thành phần chủ thể của cả khu vực Đông Nam Á với tỷ trọng có thể khác nhau giữa phần lục địa (chủ yếu Anhđônêdiên) và phần hải đảo (ở thời kỳ đầu chủ yếu Vêđôit). Tiếp đến, đó là sự tác động mạnh mẽ của dòng người Nam Á, điều này, càng làm cho bức tranh nhân gian các nhóm nhân chủng Đông Nam Á đang biến đổi lại càng thêm thấm đượm sắc thái mới. Nhóm Vêđôit (8) cư trú khá phổ biến trong cư dân bản địa ở Inđônêxia và một số ít hơn ở phía nam bán đảo Trung - Ấn với độ biến dị khá rộng rãi trên đặc điểm hình thái, như người Tokea, Toala, Loinanga ở Xulavêxi; người Manga, Kayan ở Calimantan; Orang Batin ở Xumatơra; người Xênôi ở Malacca (Nguyễn Đình Khoa, 1983; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). 1.4. Nhóm Nêgritô Nhóm loại hình nhân chủng Nêgritô (9) được coi là một loại hình của chủng Mêlanêdiên (thuộc đại chủng Ôxtralôit), và phát sinh không sớm hơn loại hình nhân 9

VĂN HÓA ĐÔNG NAM Á MỘT NỀN VĂN HÓA THỐNG NHẤT TRONG SỰ ĐA DẠNG

- - - ˜ ™ - - -

* Quá trình nhận biết về khu vực văn hóa Đông Nam Á

Khu vực Đông Nam Á từ xưa, trong các sách cổ của Ấn Độ đã được nói đến với những cái tên như Suvarnabhumi (đất vàng) hay Suvarnadvipa (Đảo vàng), người Trung Hoa thì gọi là Nam Dương, tương tự người Nhật Bản củng dùng từ Nan Yo để chỉ Đông Nam Á, tức Nam Dương như Trung Hoa, người Ả Rập gọi là Zabag, còn người Hy Lạp, La mã từ giữa thế kỷ II TCN cũng gọi là Chryse (đất vàng). Như vậy là từ xa xưa, thế giới đã biết đến khu vực văn hóa Đông Nam Á. Sở dĩ như vậy là vì tầm quan trọng về mặt vị trí địa lý của khu vực Đông Nam Á, vốn đã được chú ý đến từ rất lâu. Đông Nam Á thường được gọi là “ngã tư đường”, “hành lang” hay “cầu nối” giữa thế giới Đông Á với Tây Á và Địa Trung Hải.

Tuy vậy, từ trước thế kỷ XIX Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như một khu vực địa lí - lịch sử - văn hóa - chính trị riêng biệt. Bởi nó đã bị lu mờ giữa hai nền văn minh phát triển rất rực rở là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Nhưng kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II đến nay, khu vực văn hóa Đông Nam Á ngày càng được công nhận rộng rải trong khoa học. Nhưng không chỉ dừng lại ở việc dựng lại các vương triều, các nền văn minh cổ ở đây, mà Đông Nam Á đang từng bước được xem xét như một khu vực lịch sử - văn hóa – kinh tế - chính trị thật sự.

Người ta đã khẳng định được rằng: trước khi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ thì cư đân Đông Nam Á đã có một nền văn hóa bản địa khá phát triển. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước, một nền văn hóa Đông Sơn phát huy hết sức rực rở mà biểu tượng là những chiếc trống đồng rất nổi tiếng được tìm thấy ở khắp Đông Nam Á. Đông Nam Á cũng là nơi thuần dưởng các loài thú sớm nhất thế giới (trâu, bò, chó).

* Văn hóa Đông Nam Á, một nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng

- Tính thống nhất, tính khu vực của Đông Nam Á trước hết được thể hiện ở chủ thể của văn hóa Đông Nam Á. Ngay từ buổi bình minh của lịch sử _ Đông Nam Á đã là một trong những cái nôi hình thành loài người, đây là địa bàn hình thành của đại chủng phương Nam (Australoid).

Vào khoảng 10.000 năm trước (thời đại đồ đá giữa), có một dòng người thuộc đại chủng Mongoloid từ phía dảy Himalaya thiên di về hướng Đông Nam, tới vùng Đông Nam Á thì dừng lại và hợp chủng với cư dân Melanesien bản địa (thuộc đại chủng Australoid), dẫn đến sự hình thành chủng Indonesien (cổ Mã Lai _ Đông Nam Á tiền sử). Với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, nhỏ, thấp. Từ đây chủng này lan tỏa, họ có mặt trên toàn bộ Đông Nam Á cổ đại. Đông Nam Á cổ đại được xác định trên một khu vực địa lý rộng lớn. Ngoài 11 nước Đông Nam Á hiện nay thì Đông Nam Á cổ đại được xác định phía Bắc gồm toàn vùng Hoa Nam Trung Quốc (phía Nam sông Dương Tử), đảo Đài Loan, một số lảnh thổ ở Đông Bắc Ấn Độ, quần đảo Andaman và Nicoba trong vịnh Bengal, châu Đại Dương và cả đảo Madagasca ở Đông Nam châu Phi (tổ tiên chính là người Mã Lai di cư sang).

Chính mối liên hệ này đã tạo nên sự thống nhất cao độ của khu vực văn hóa Đông Nam Á. Sự thống nhất do cùng một cội nguồn là một loại hình Indonesien, chính điều đó đã tạo ra bản sắc chung cho văn hóa Đông Nam Á.

- Tính thống nhất về mặt văn hóa của khu vực và tính đa dạng của các tộc người lại làm nên những đặc trưng bản sắc riêng của từng vùng văn hóa được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao hàm trong nó rất nhiều thành tố cả về vật chất lẩn tinh thần của văn hóa Đông Nam Á. Đơn nhiên, trong quá trình phát triển, văn hóa Đông Nam Á đã tiếp thu nhều yếu tố mới từ bên ngoài mà tiêu biểu nhất là từ Trung Hoa, Ấn Độ, Ả Rập và phương Tây. Nhờ sự giao lưu này, văn hóa Đông Nam Á đã đạt được những thành tựu mới mẻ trong quá trình phát triển của mình. Sau đây là một số điểm tiêu biểu được thể hiện:

Về ngôn ngữ - chử viết: Sự đa dạng của ngôn ngữ được thể hiện ở chổ các quốc gia Đông Nam Á hiện có tới hàng chục, thậm chí hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Như ở Indonesia có đến 200 ngôn ngữ dân tộc khác nhau cùng tồn tại; ở Philippin củng có tới 80 ngôn ngữ dân tộc khác nhau (1998). Tương tự, các quốc gia Đông Nam Á khác củng là các quốc gia đa ngôn ngữ. Tuy nhiên, các ngôn ngữ Đông Nam Á đều chỉ thuộc về một trong số 4 ngữ hệ sau đây: Nam Á, Nam Đảo, Thái, Hán – Tạng. Và xa hơn nữa, chúng đều bắt nguồn từ một nguồn gốc chung là ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử. Đó là một sự thống nhất cao độ. Về chữ viết, từ đầu công nguyên, khi cần ghi chép các dân tộc Đông Nam Á đã vay mượn chữ Hán (như ở Việt Nam) và chữ Pali – Sanskrit (ở các nước khác) của Trung Hoa, Ấn Độ để xây dựng chử viết riêng cho dân tộc mình. Tuy nhiên, từ thế kỷ XIII , chử viết Ả Rập đã ảnh hưởng mạnh mẻ đến các quốc gia hải đảo như Malaysia, Indonesia. Từ thế kỷ XVI, với sự can thiệp của các quốc gia phương tây, chử viết của các quốc gia Đông Nam Á được chuyển đổi theo hướng Latinh hóa (chữ viết Brunay, Malaysia, Indonesia, Philippin và Việt Nam) được sử dụng ngày nay.

Về phong tục tập quán: Ở Đông Nam Á có đến hằng trăm dân tộc khác nhau, vì thế phong tục, tập quán rất đa dạng, tạo nên một bức tranh đa sắc. Mặc dù rất đa dạng, song những tập tục ấy vẫn có nét gần gủi, tương đồng nhau, là mẩu số chung quy tụ, giao thoa trên nền tảng của cơ sở văn hóa bản địa Đông Nam Á _ Một nền tảng văn minh nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là cách ăn mặc với một bộ trang phục chung là Sàrông (váy), khố, vòng đeo tai, vòng đeo cổ,… Đó là tục ăn uống với các thức ăn chính là cơm, rau, cá và hoa quả (hiện nay, thịt ngày càng quan trọng trong cuộc sống hiện đại). Đó là tục ăn hỏi trước khi tổ chức đám cưới linh đình. Tục chôn theo người chết những thứ cần thiết cho cuộc sống mà khi còn sống họ thường ưa thích. Đó là tục nhai trầu, cưa và nhuộm răng đen, xăm mình; rồi đến cả các trò vui chơi giải trí như thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền,… Trong cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc Đông Nam Á là nhà sàn “cao cẳng” thích hợp với mọi địa hình của khu vực và phù hợp với khí hậu nóng ẩm của khu vực Đông Nam Á.

Về lể hội: Củng giống như sự đa dạng của phong tục, tập quán. Có thể nói, ở mổi dân tộc mùa nào, tháng nào trong năm củng có lể hội. Nếu thống kê con số lể hội thì chắc chắn sẽ có đến con số hàng trăm. Tất nhiên, trong sự đa dạng ấy, các lể hội ở Đông Nam Á chủ yếu tập trung vào ba hình thức chính: Lễ hội nông nghiệp (Như lễ xuống đồng của người Việt, lễ mở đường cày đầu tiên của người Thái, lễ dựng chòi cày của người Chăm,…), lễ hội tôn giáo (như lễ hội chùa Keo, chùa Hương ở Việt Nam,…), lễ tết (như tết nguyên đán, tết phật,…).

Về tín ngưỡng bản địa: Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cùng sinh ra và lớn lên trong một khu vực địa lí, văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước. Tín ngưỡng bản địa Đông Nam Á dù hết sức đa dạng, nhiều vẽ nhưng vẫn thuộc về ba loại chính: Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (Các cư dân Đông Nam Á như ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanma, Indonesia,… thờ cả hạc, rùa, rắn, voi, cá sấu,…), tín ngưỡng phồn thực (thờ sinh thực khí tượng trưng cho cơ quan sinh dục nam, nữ; các tục tóe nước, tục cầu mưa, tục đánh đu,…), tín ngưỡng thờ cúng người đã mất (tục thờ cúng tổ tiên, ông bà). Cái chung đó xuất phát từ thuyết vạn vật hữu linh, tức thuyết mọi vật đều có hồn.

Tóm lại, ở mọi thành tố của văn hóa Đông Nam Á, chúng ta đều có thể thấy một sự thống nhất trong muôn hình muôn vẽ sự tồn tại đa dạng của chúng ở các dân tộc Đông Nam Á.

Văn hóa Đông Nam Á ngày nay vừa là sự kế thừa và phát huy vốn văn hóa bản địa truyền thống vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới từ bên ngoài, cả phương Đông lẩn phương Tây. Trong kho tàng văn hóa đồ sộ của Đông Nam Á có rất nhiều yếu tố chung, làm nên cái “khung” Đông Nam Á, song củng có không ít những yếu tố đặc sắc, riêng biệt tiêu biểu cho mổi quốc gia, mổi dân tộc. Nói cách khác văn hóa Đông Nam Á là nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng.

Có thể khẳng định Đông Nam Á có có một bản sắc văn hóa riêng và ngày càng tiến bộ. Đông Nam Á hiện nay đang phát triển kinh tế, đất nước hết sức nhanh chóng và mạnh mẽ. Mà văn hóa là động lực quan trọng nhất của của sự phát triển một nước, một khu vực. Với bề dày văn hóa mang bản sắc chung, đặc sắc, các quốc gia Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ tiến xa hơn nửa, đạt được nhiều thành tựu mới trong tương lai, Đông Nam Á sẽ trở thành một khu vực hòa bình, ổn định, một khu vực phát triển, thịnh vượng của thế giới.



TÀI LIỆU KHẢO CỨU

1. Văn hóa Đông Nam Á – Mai Ngọc Chừ (1999).
2. Lược sử Đông Nam Á – Phan Ngọc Liên (2002).
3. Văn hóa Đông Nam Á – (khoa sư phạm – bộ môn lịch sử trường Đại học An Giang – 2010).
4. Cơ sơ văn hóa Việt Nam – Trần Ngọc Thêm (1999).
5. Dân tộc học đại cương – Ts. Nguyễn Thành Phương – trường Đại học An Giang.[center][justify][center][center][center]

Admin1
Tổng số bài gửi : 10
Join date : 03/12/2011

LikeDislike

    Nội dung Tính thống nhất trong đa dạng các quốc gia Đông Nam Á

    Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Tính thống nhất trong đa dạng các quốc gia Đông Nam Á để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
    Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 30 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

    Xem preview Tính thống nhất trong đa dạng các quốc gia Đông Nam Á

    Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.

    Video liên quan

    Chủ đề