Ý nghĩa của học thuyết đối với đời sống

Tên luận văn: "Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử”

Chuyên ngành: Triết học Mã số: 62.22.03.01   Họ và tên nghiên cứu sinh: Phạm Thị Dinh   Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Anh Quốc                                                TS. Phạm Đình Đạt Cơ sở đào tạo: Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. HCM 1.Tóm tắt nội dung luận án      Là một trong những hình thái ý thức xã hội, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử không hình thành một cách ngẫu nhiên mà xuất phát từ điều kiện của xã hội Trung Quốc thời Xuân thu. Đó là thời kỳ quá độ chuyển từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến, mệnh lệnh thiên tử nhà Chu không còn được tuân thủ, trật tự thể chế xã hội bị đảo lộn; những giá trị tư tưởng, đạo đức của xã hội cũ bị băng hoại, nhưng giá trị tư tưởng, đạo đức mới còn đang trên con đường xác lập; nạn chư hầu chiếm ngôi Thiên tử, đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết cha, em hại anh, vợ lìa chồng,… thường xuyên xảy ra. Các nước chư hầu đua nhau động binh gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau hòng làm bá thiên hạ. Do chiến tranh giữa các nước liên tục xảy ra trên quy mô lớn, tích chất tàn khốc của nó đã làm cho đời sống nhân dân ngày càng cùng cực, lòng dân lo sợ, bất an trước thời cuộc. Thực trạng xã hội trên đã đặt ra một loạt những vấn đề bức xúc, buộc các nhà tư tưởng phải quan tâm, lý giải. Trong đó, nổi bật là vấn đề làm thế nào để có thể ổn định trật tự xã hội và giáo hóa đạo đức con người, đưa xã hội từ “loạn” trở thành “trị”, con người từ “vô đạo” trở thành “có đạo”, “bất nhân” trở thành “nhân nghĩa”. Chính trong bối cảnh đó, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử đã hình thành và phát triển. Ngoài ra, sự hình thành tư tưởng đạo đức của Khổng Tử còn dựa trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những tư tưởng về đạo đức luân lý trong các thư tịch và kinh điển của Trung Quốc cổ đại như tư tưởng thiên mệnh, thiên lý. Bên cạnh đó, yếu tố không thể thiếu để hình thành tư tưởng đạo đức của Khổng Tử đó chính là phẩm chất cá nhân của ông. Trong đó, phẩm chất cao cả nhất theo suốt cuộc đời Khổng Tử đó là luôn đề cao nhân đức, lấy đạo đức làm trọng, luôn quan tâm tới sự tồn vong của đất nước, thấu hiểu nỗi khổ cực của người dân,... đã hun đúc lên tư tưởng đạo đức của ông.  Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử là tổng hợp các nội dung: tư tưởng về vai trò của đạo đức; tư tưởng về các quan hệ đạo đức và các chuẩn mực đạo đức cơ bản. Khổng Tử cho rằng, trong xã hội có năm mối quan hệ đạo đức cơ bản gọi là “ngũ luân”, gồm quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè. Mỗi quan hệ có những tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng, như cha hiền, con thảo; anh tốt, em ngoan; chồng biết tình, vợ nghe lẽ phải; bề trên từ hiếu, bề dưới kính thuận; vua nhân từ, tôi trung thành. Vào thời mình, Khổng Tử đã đề cập đến những mối quan hệ và các tiêu chuẩn này, song ông nhấn mạnh nhiều hơn đến quan hệ vua tôi và cha con. Khổng Tử cũng cho rằng để thực hiện tốt các mối quan hệ đạo đức trên, con người cần phải lấy các chuẩn mực đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung, dũng, hiếu, kính đễ để điều chỉnh hành vi của mình. Các chuẩn mực đạo đức này tồn tại trong mối tương quan sâu sắc lẫn nhau, trong đó, nhân được xem là trung tâm.  Bên cạnh đó, Khổng Tử cũng chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cho con người. Ông đã đưa ra những phương pháp giáo dục đạo đức hết sức tích cực và tiến bộ như: Phương pháp chính danh, phương pháp tùy nghi thuyết giáo; phương pháp nêu gương; thống nhất giữa học với hành, giữa tri thức và cuộc sống,… Chính điều này đã làm cho Khổng Tử không những trở thành nhà tư tưởng kiệt xuất, mà còn là một nhà giáo dục vĩ đại, người thầy của muôn đời. Những nội dung trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử, nhìn một cách khái quát, nổi lên những đặc điểm chủ yếu sau: Một là, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện sự thống nhất giữa đạo đức và chính trị. Hai là, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện tính thống nhất giữa ý thức cá nhân, gia đình và ý thức cộng đồng. Ba là, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện tính mâu thuẫn giữa quan điểm tiến bộ với quan điểm bảo thủ, lạc hậu.  Với những nội dung và đặc điểm như trên, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử có những giá trị như: góp phần xây dựng một xã hội có trật tự kỷ cương, nền nếp từ trên xuống dưới, từ bản thân mỗi cá nhân đến gia đình và xã hội; đồng thời, hàm chứa giá trị nhân bản, nhân văn khá sâu sắc. Tuy nhiên, tư tưởng đó vẫn có những hạn chế nhất định, thể hiện quan điểm duy tâm, tiên nghiệm, phiến diện về lịch sử và còn mang dấu ấn đẳng cấp, danh phận. Song, nếu bỏ qua những hạn chế này, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, Khổng Tử không chỉ cống hiến cho nền học thuật Trung Hoa nói riêng và nhân loại nói chung một hệ thống các phạm trù đạo đức khá phong phú và sâu sắc, mà ông còn đưa ra phương pháp giáo dục đạo đức cho con người hết sức tích cực, tiến bộ. Đây chính là một đóng góp to lớn và quý báu vào sự hình thành, phát triển lý luận về tâm lý và lý luận về giáo dục trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Về mặt thực tiễn, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử có ý nghĩa trong việc xác định rõ yêu cầu và trách nhiệm của mỗi người trong các mối quan hệ xã hội; góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức của con người; đồng thời có ý nghĩa trong việc cai trị, quản lý xã hội, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống đạo đức xã hội ở một số nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. 2. Những kết quả mới của luận án Một là, trên cơ sở xã hội và tiền đề hình thành, phát triển tư tưởng đạo đức của Khổng Tử, luận án đã tập trung làm rõ những nội dung cơ bản và những đặc điểm chủ yếu trong tư tưởng đạo đức của ông một cách có hệ thống và sâu sắc hơn. Hai là, luận án đã phân tích, đánh giá, chỉ ra những giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử về mặt lý luận và thực tiễn, góp thêm một ý tưởng về mối liên hệ lịch sử và tầm ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Khổng Tử với lịch sử nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng. 3. Khả năng ứng dụng của luận án Việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Khổng Tử một cách có hệ thống cả về nội dung, đặc điểm, giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử của nó, giúp chúng ta thấy rõ vai trò to lớn trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử đối với việc xác định yêu cầu, trách nhiệm của mỗi người trong các mối quan hệ xã hội, góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức của con người và cai trị, quản lý xã hội. Kết quả của luận án có thể làm tài liệu nghiên cứu cho việc tìm hiểu lịch sử triết học Trung Quốc nói chung, triết học Khổng Tử nói riêng; đồng thời, cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy của các cá nhân, tổ chức có liên quan.


Truyền thuyết là gì?

Truyền thuyết là những truyện kể truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích  nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại.

Vai trò của truyền thuyết

Thể hiện ở 3 mặt cơ bản:

- Về mặt lịch sử: Truyền thuyết là cơ sở cho các nhà sử học tham khảo về các giai đoạn lịch sử dân tộc.

Nếu như thần thoại lấy thế giới tự nhiên làm đối tượng nhận thức, lý giải; nếu như truyện cổ tích chọn đời sống xã hội để phản ánh,... thì truyền thuyết lại hướng về các sự kiện, các biến cố có liên quan đến lịch sử của cộng đồng. Dân tộc nào, đất nước nào, làng quê nào cũng có một quá trình hình thành, biến đổi và phát triển (hoặc tàn lụi). Trong những thời điểm quan trọng, những cái mốc son, những biến cố mang ý nghĩa sống còn của một cộng đồng thường xuyên xuất hiện những nhân vật kiệt xuất. Việc làm của họ, hành động của họ có tác động lớn đến cuộc sống của cả cộng đồng, và của cả một giai đoạn lịch sử. Nhiều nhân vật lịch sử khi còn sống và đặc biệt khi họ đã mất trở thành một biểu tượng đẹp của quê hương, đất nước. Người Việt Nam, xưa cũng như nay, với truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” thường lập đền miếu để thờ phụng họ. Nhân vật lịch sử được nhân dân các làng quê, phường phố thiêng liêng hóa và suy tôn thành thần thánh, bốn mùa hương khói. Bậc đạo cao, đức trọng, tài năng kiệt xuất như Vua Hùng, Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung thuở xưa và Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện nay mãi mãi sẽ sống trong lòng dân tộc qua sự tôn vinh bằng đền miếu, bằng các ngày kỷ niệm, các lễ hội lớn được tổ chức hàng năm. Chung quanh các sự kiện lịch sử lớn, các nhân vật lịch sử đầy hào quang thế nào cũng có những câu chuyện kể về sự kiện đó hoặc kể về tài năng, về đức độ, về sự cống hiến của các anh hùng, các danh nhân cho dân, cho nước. Theo con đường sáng tác và lưu truyền dân gian, các truyện kể ấy sẽ lưu truyền từ đời này qua đời khác, từ Bắc vô Nam hoặc từ Nam ra Bắc, từ đồng bằng lên miền núi và ngược lại...

Như vậy, các sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch sử chính là cảm hứng, là đề tài, là chất liệu để làm nên các truyền thuyết. Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong một bài viết về các Vua Hùng đã nêu một ý kiến khá xác đáng: “Truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thực lịch sử, mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng ...” (Báo Nhân dân ngày 29/4/1969).

- Về mặt ý thức xã hội: Truyền thuyết giáo dục lòng yêu nước, tinh thần dân tộc.

Phản ảnh các sự kiện lịch sử một cách trung thực cũng là một sự thể hiện cảm quan và thái độ của quần chúng nhân dân đối với những biến cố, những sự kiện, những con người ... có liên quan, có tác động lớn đến đời sống của cộng đồng. Qua từng tình tiết, từng cách mở đầu hoặc kết thúc mỗi truyền thuyết, chúng ta đều thấy thái độ khen chê, biểu dương, ca ngợi, hay phê phán, lên án,... của người sáng tác đối với các nhân vật lịch sử một cách khá minh bạch, rõ ràng.

Xin được lấy truyền thuyết An Dương Vương (Sách Lĩnh Nam chích quái lấy tựa đề là “Truyện Rùa Vàng”) làm ví dụ. Truyện này có 3 nhân vật chính: An Dương Vương, Mỵ Châu và Trọng Thủy. Nhà vua là nhân vật chính. Ông là người có công dựng nước Âu Lạc, xây thành Cổ Loa, chế ra nỏ thần và chỉ huy quân dân Âu Lạc đánh thắng Triệu Đà trong lần đầu đội quân này kéo đến xâm lăng. Nhưng ông cũng là người mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng trong việc giữ nước, dẫn đến họa “Cơ đồ đắm biển sâu”. Như vậy, ông là người vẫn có công, lại vừa có tội đối với dân, với nước. Ông phải tự nhận lấy cái chết. Song tác giả dân gian lại cho Thần Kim Quy xuất hiện cầm sừng tê 7 tấc rẽ nước đưa nhà vua về với biển xanh. Việc An Dương Vương phải chém con gái yêu của mình cũng là nỗi đau không nhỏ và là sự tự trừng phạt mình của chính ông. Song nhân dân vẫn luôn trân trọng những đóng góp to lớn của nhà vua cho lịch sử, cho dân tộc nên lập đền thờ ông (ở Hà Nội, ở Nghệ An) và tạo nên một chi tiết nghệ thuật đẹp đẽ, để hình bóng vua Thục còn mãi với biển trời.

Với Mỵ Châu và Trọng Thủy, thái độ và cách ứng xử của quần chúng nhân dân cũng đầy tinh thần nhân ái. Cả hai người đều có tội với đất nước Âu Lạc. Họ có những việc làm không thể chấp nhận được. Mỵ Châu không ý thức mình là ai khi đưa nỏ thần cho Trọng Thủy xem và rắc lông ngỗng chỉ đường cho chồng tìm mình trong cơn binh lửa. Trọng Thủy thì tiếp tay cho Triệu Đà xâm chiếm Âu Lạc. Nhưng cả 2 người trước lúc chết đều đã có “sự phản tỉnh”. Mỵ Châu bị người lừa chứ không có “ý thức hại cha”, Trọng Thủy còn có chút liêm sỉ về hành động của mình ... Hình ảnh “ngọc trai giếng nước” là phần vĩ thanh của câu chuyện và không nằm trong phần “chính truyện”, nhưng nó là sự thể hiện một tấm lòng đầy nhân ái của người đời sau đối với bi kịch của một đôi trai tài, gái sắc. “Ngọc trai giếng nước”, theo thiển ý của chúng tôi, không phải là “bài ca ngợi ca tình yêu chung thủy” như có người đã viết trên Tạp chí “Nghiên cứu Văn học” cách đây gần 50 năm, mà chỉ là một sự thể tất của quần chúng nhân dân giành cho những người có tội song đã biết nhận ra lỗi lầm của bản thân.

- Về mặt văn học nghệ thuật: Truyền thuyết là nguồn cảm hứng cho nhà văn, nhà thơ sáng tác.

Truyền thuyết là thể loại khái quát được lịch sử của dân tộc, đồng thời giáo dục con người hướng đến cái thiện, cái tốt nên đó là nguồn cảm hứng xuyên suốt cho các tác giả dân gian sáng tạo. Nhiều cuốn truyền thuyết ghi lại hình ảnh của dân tộc đạt đến giá trị cao.

Tuy nhiên, là một thể loại văn học, truyền thuyết cũng  bị chi phối bởi các nguyên tắc, các phương pháp của việc sáng tác nên trong nội dung tác phẩm, sự thực lịch sử trong truyền thuyết được “cấu tạo lại, tái hiện lại” thông qua cảm quan lịch sử của các tác giả dân gian. Nhiều tình tiết trong tác phẩm đã được tô vẽ thêm theo khuynh hướng “lý tưởng hóa” để tôn vinh các nhân vật lịch sử. Chẳng hạn Thánh Gióng, trong sự thực lịch sử có thể chỉ là một chiến binh, một người chỉ huy dũng cảm, lập công lớn và hy sinh ở chiến trường, nhưng khi trở thành một nhân vật truyền thuyết, thì người anh hùng làng Phù Đổng đã hoàn toàn là một con người khác với nhiều chi tiết hết sức kỳ lạ. Hay như Hai Bà Trưng, trong sự thực lịch sử, sau khi bị bại trận trước sức mạnh của đội quân thiện chiến Mã Viện đã nhảy xuống dòng Hát Giang tự vẫn. Còn ở truyền thuyết, Hai Bà lại có một cái kết cục hoàn toàn đẹp đẽ: Hai Bà cưỡi voi bay về trời bất tử cùng gió mây, non nước,... Nhiều năm sau, khi hạ giới gặp cơn hạn hán, dân các làng xã lập đàn cầu đảo, hai bà lại xuống trần tạo mây mưa, giúp dân có nước cấy cầy, ăn uống,...

Page 2

Home Lê Phước Thời sự Đắk Nông Giặt ủi Đắk Nông

Video liên quan

Chủ đề