Luyện tập TDTT góp phần hình thành nhân cách ở trẻ23 Tháng Hai 2009 (GMT+7) 11974 Lượt xem Danh mục: Thể thao quốc tế Tác dụng của tập luyện Thể dục thể thao14/01/2020 08:15 19286 lượt xem TÁC DỤNG CỦA TẬP LUYỆN THỂ DỤC THỂ THAO Show Tổ chức y tế thế giới (WHO, 1946) đưa ra quan điểm sức khỏe là “Trạng thái toàn diện về thể chất, tinh thần và sự thịnh vượng xã hội” (a complete state of physical, mental and social prosperity). Định nghĩa này cho thấy quan điểm sức khỏe không chỉ là không bệnh tật. Trạng thái khỏe mạnh không phải là bất biến, một số yếu tố nhất định có thể duy trì hay làm tăng tình trạng sức khỏe và cũng có những yếu tố làm suy giảm sức khỏe. Trong đó, việc tập luyện TDTT là những hoạt động có lợi cho sức khỏe. Trong quá khứ, thể thao không phải là mục tiêu phát triển sức khỏe, cho đến cuối thế kỷ 19 với câu châm ngôn của Juvenal “mens sana in corpore sano” có nghĩa: “Một tinh thần khỏe mạnh trong một cơ thể cường tráng” đã hình thành một quan điểm mới về tập luyện TDTT khi những lợi ích của TDTT được thừa nhận. Quan điểm này ngày càng chứng tỏ rõ ràng hơn khi hiện tượng cơ giới hóa và tự động hóa của xã hội xuất hiện, có nghĩa là các hoạt động thể chất trong lúc lao động bị giảm sút và lối sống ít vận động bắt đầu biểu lộ một số tác hại. Tham gia vào tất cả các hoạt động mà cơ thể phải tiêu hao năng lượng nhiều hơn trạng thái nghỉ ngơi, vận động thể chất bao gồm không chỉ là thể thao mà còn là các trò chơi vận động, đi bộ, khiêu vũ, bơi lội… Đã có rất nhiều nghiên cứu về vai trò, lợi ích của tập luyện TDTT đối với sức khỏe (thể chất và tinh thần) con người, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống. 1. Kéo dài tuổi thọ Từ thế kỷ 19, các nhà khoa học đã nghiên cứu tác động của TDTT đến việc kéo dài tuổi thọ. Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy việc tham gia hoạt động TDTT ở đại đa số các môn đều có thể làm tăng tuổi thọ. Thí dụ: Theo Bouchard (1994): các VĐV môn chèo thuyền ở ĐH Cambridge và Oxford, cũng như VĐV trượt tuyết Phần Lan có tuổi thọ cao hơn người không tập luyện. Một nghiên cứu khác của Paffenbarger và cộng sự (1986) trên hơn 15.000 cựu sinh viên ĐH Harvard cho thấy những người tham gia hoạt động TDTT, đặc biệt là đi bộ, thì tuổi thọ tăng lên gần 2 năm so với người bình thường. 2. Phòng chống bệnh tật Báo cáo của WHO (2002, 2003), ƣớc lượng trên toàn cầu, không vận động thể chất là nguyên nhân chính gây ra 1.9 triệu ngƣời chết hàng năm, trong đó có 250.000 người Mỹ. Lối sống ít vận động ở Mỹ là nguyên nhân gây bệnh, chiếm 18% các ca bệnh tim mạch, 22% các ca ung thư ruột kết, tiêu tốn 3.5% chi phí dành cho sức khỏe toàn liên bang (US Department of Health,1996). Ở Canada, 21.000 trường hợp chết yểu do không vận động, tiêu tốn 2.1 tỷ USD trong năm 1999, chiếm 2.5% quỹ chăm sóc sức khỏe (Katzmarzyk et al., 2000). Rất nhiều nghiên cứu đã cho thấy cái giá phải trả cho lối sống ít vận động và lợi ích của tập luyện TDTT, dẫn đến việc thúc đẩy mạnh các chương trình hoạt động TDTT ngày càng rộng lớn trên thế giới. Béo phì: Cho dù lượng calory tiêu thụ trung bình không tăng trong thế kỷ 20 nhưng số lượng người bệnh béo phì lại tăng cao ở các nước phát triển. Năm 1850, 1/3 năng lượng được dùng trong lao động ở các nhà máy và nông trường, trong khi ước lượng hiện nay chỉ khoảng 1%. Lối sống đô thị hóa, sử dụng thường xuyên xe hơi, ít đi bộ, thời gian ngồi trước tivi ngày càng tăng, lười vận động, ít tập TDTT… là những yếu tố góp phần vào việc tăng số lượng người béo phì ngày nay (Prentice & Jebb, 1995). Bệnh tim mạch: Một trong những tác động có hại dễ thấy nhất của rối loạn chức năng vận động là các bệnh tim mạch. Từ 1953, nghiên cứu của Morris (1953) về các nhân viên làm việc tại công ty xe bus London cho thấy các tài xế bị bệnh tim mạch gấp 2 người bán vé (có đi lại). Đây là lần đầu tiên lợi ích của hoạt động vận động đƣợc chứng minh bằng tỉ lệ bệnh tim mạch. Các nghiên cứu tiếp tục đƣợc tiến hành từ 1968 đến 1978, trên 16.882 người, Morris khẳng định tỉ lệ bệnh tim mạch xảy ra ít hơn đối với nhóm có hoạt động TDTT, 3.1% so với 6.9% ở nhóm không TDTT (1980). Một nghiên cứu trên 16.936 cựu sinh viên Harvard cho thấy: những người có tham gia TDTT nhưng ít, 1 lần/tuần, có nguy cơ bị tim mạch cao hơn 64% so với nhóm tham gia TDTT cường độ cao (Paffenbarger et al., 1978). Phân tích các kết quả nghiên cứu tại Mỹ, nghiên cứu tất cả các yếu tố liên quan đến bệnh tim mạch trên 12.866 ngƣời từ 35 đến 57 tuổi, cho thấy: tỉ lệ tử vong ở nhóm tập luyện TDTT 45phút/ngày thấp hơn đáng kể nhóm chỉ tập 15 phút/ngày (Leon & Connett, 1988). Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy rõ tập luyện TDTT sẽ làm giảm nguy cơ bệnh tật, đặc biệt là tim mạch. Vận động thể chất có xu hướng làm giảm triglyceride và cholesterol (tác nhân gây nghẽn động mạch), nâng cao độ nhạy insulin, nâng cao chức năng cơ tim, giúp máu lưu thông đến tim dễ dàng và giúp hạn chế sự hình thành máu cục, phòng chống bệnh loãng xương và tiểu đường, làm giảm căng thẳng và lo âu. Bệnh Parkinson: Một nghiên cứu của trường ĐH Harvard trên 48.000 ngƣời đàn ông, kết quả cho thấy: hầu hết những ai vận động ít thì phải đối mặt với nguy cơ mắc bệnh và phát triển bệnh kinh phong (Parkinson) 50% so với những người thường xuyên vận động. Ung thư tuyến tiền liệt: Một nghiên cứu kéo dài 14 năm tại Đại học Harvard nhận thấy rằng những ngƣưi nào trên 65 tuổi thực hiện việc chạy bộ, đạp xe hay đi bơi ít nhất 3 lần/tuần thì rủi ro mắc bệnh bị ung thư tuyến tiền liệt thấp hơn 70% so với người không tập luyện TDTT. Bệnh giảm trí nhớ: Một nghiên cứu ở ĐH Honolulu cho thấy: những người đi bộ ít hơn 400 mét/ngày hầu như có nguy cơ giảm trí nhớ gấp 2 lần so với người có vận động thƣờng xuyên. 3. Hình thành nhân cách, đặc biệt là đối với trẻ em Cái quý nhất của mỗi con người là sức khỏe và trí tuệ. Có sức khỏe tốt sẽ tạo điều kiện cho trí tuệ phát triển đƣợc tốt hơn và ngược lại. TDTT giúp người tập có đƣợc sức khỏe tốt, từ đó hiệu quả học tập, công tác và tham gia các hoạt động ở nhà trường, xã hội đạt hiệu quả cao hơn. Khi tham gia các hoạt động TDTT đòi hỏi phải có tính tổ chức, kỷ luật, tinh thần đoàn kết và trách nhiệm trước tập thể, tác phong nhanh nhẹn, sự cố gắng, tính thật thà, trung thực... Đây chính là quá trình giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách trẻ em, giúp người tập có một nếp sống lành mạnh, vui tươi, học tập và làm việc khoa học. Trong quá trình tập luyện và thi đấu TDTT, nếu thất bại, ngƣời tập sẽ học đƣợc cách chấp nhận thất bại và tìm cách vượt qua, có nghĩa là đang học cách để thành công. Ngoài ra, quá trình tập luyện thể thao sẽ tạo cho người tập phong cách riêng, không còn mắc cở, rụt rè trƣớc đám đông, mạnh mẽ trong thể hiện năng lực... chính phong cách này sẽ góp phần giúp người tập tự tin hơn trong cuộc sống. 4. Cải thiện sức khỏe thể chất Tổng kết nhiều nghiên cứu cho thấy tập luyện TDTT có thể cải thiện hoạt động các hệ thống cơ xương, tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa…, nâng cao khả năng thích nghi của cơ thể đối với môi trường bên ngoài. Tập luyện TDTT thường xuyên, đúng khoa học sẽ làm cho hệ cơ xương phát triển hài hòa. Cơ bắp nở nang, rắn chắc, tạo ra vẻ đẹp hình thể và dáng đi khỏe mạnh của con người. Sức mạnh, sức nhanh, sức bền, năng lực mềm dẻo và linh hoạt của cơ tăng lên. Tập luyện TDTT với lượng vận động phù hợp có tác dụng kích thích tích cực đến sự phát triển chiều dài và chu vi của xương, nói cách khác, có tác dụng kích thích phát triển chiều cao và chất lượng xương đối với thiếu niên (Mc Ardle, 2000). Những môn như chạy, đi bộ, nâng tạ đều có thể giúp phòng tránh loãng xương khi lớn tuổi. Tập TDTT sẽ làm nhịp tim tăng lên, tăng cường sức co bóp của cơ tim, dung lượng máu trong tim tăng lên, tỷ lệ hấp thụ oxy của cơ thể tăng lên. Sự tăng cường hoạt động của tim sẽ giúp làm chậm quá trình suy thoái của tim, giảm tỷ lệ sơ cứng mạch máu, huyết áp cao. Tập TDTT giúp hô hấp có phản xạ thở sâu, thở nhanh hơn, tăng hoạt động của các cơ hô hấp, tăng lượng oxy cung cấp cho tế bào, giúp cơ thể khỏe mạnh hơn do khả năng chịu đựng sự mệt mỏi tăng lên. Tập TDTT đều đặn có khả năng tăng hàm lượng hồng cầu trong máu, sức đề kháng cơ thể cũng tăng lên, ít bệnh tật hơn. Tập TDTT sẽ cải thiện kỹ năng vận động như đi, đứng, chạy, nhảy, leo trèo… giúp ích rất nhiều cho các vận động sinh hoạt, làm việc hàng ngày. 5. Làm tinh thần sảng khoái, giảm stress Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): "Sức khỏe tâm thần là một phần không thể tách rời của sức khỏe; Thực vậy, sẽ không có sức khỏe nếu không có sức khỏe tâm thần". Nhiều nghiên cứu đã cho thấy những người có sức khỏe tâm thần kém tăng nguy cơ tử vong do bệnh tim và đột quỵ. Hơn nữa, các nghiên cứu đã liên hệ sức khỏe tâm thần kém với phân biệt đối xử về giới, không hòa nhập xã hội, tăng nguy cơ bạo lực và tội phạm và một lối sống không lành mạnh. Trong cuộc sống hiện đại, với cường độ làm việc căng thẳng, nhiều áp lực trong cuộc sống, ngày càng có nhiều người bị stress. Nhiều nghiên cứu cho thấy, tập luyệnTDTT là một trong những biện pháp hữu hiệu để giải tỏa stress nhanh và hiệu quả nhất, đặc biệt trong chữa bệnh trầm cảm. Tập luyện TDTT thường xuyên, kể cả chỉ 30 phút mỗi ngày, cũng có tác dụng làm bớt nóng nảy, buồn rầu, người tập cảm thấy sảng khoái, lạc quan, yêu đời hơn. Những thay đổi về tâm lý này có thể xảy ra do sự thay đổi của endorphin, tăng hóc môn senotonin sẽ cải thiện tâm trạng, giúp thư giãn, yêu đời hơn. Tập luyện thể thao giúp tăng cường sản xuất các chất dẫn truyền thần kinh, đƣợc gọi là endorphins, giúp sảng khoái tinh thần. Tập luyện còn giúp làm dịu những căng thẳng hằng ngày và chúng ta học cách ứng phó tốt hơn với những nguyên nhân gây stress. Một số môn thể thao tốc độ sẽ giúp chuyển hướng sự tập trung của người tập ra khỏi những rắc rối, khó xử trong cuộc sống. Thực tế cho thấy người chơi thể thao thường xuyên không chỉ có thể lực tốt mà còn kiểm soát cảm xúc tốt, cũng nhƣ suy nghĩ rõ ràng hơn trong mọi công việc. Nghiên cứu của ĐH California – Berkeley tháng 2/2014 cho thấy căng thẳng có thể gây ra các bệnh lý tinh thần. Tuy nhiên, có nhiều cách để chúng ta có thể giảm hoặc xử lý stress. Bộ Y tế Mỹ khuyên người lớn nên tập thể dục cường độ vừa phải ít nhất 150 phút mỗi tuần hoặc tập cường độ mạnh 75 phút mỗi tuần. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy tập thể dục ngoài trời có thể hiệu quả ngang với thuốc chống trầm cảm trong điều trị trầm cảm và lo âu mức độ nhẹ và vừa. 6. Cải thiện chức năng não bộ TS. John Ratey, một trong những nhà tâm lý hàng đầu của ĐH Y khoa Harvard, cho rằng: chính tập luyện TDTT, chứ không phải dầu cá hay trò chơi sudoku, là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất giúp chúng ta luôn lạc quan và tin tưởng vào trí tuệ của bản thân. Thường xuyên tập luyện TDTT không chỉ tốt cho cơ thể mà còn giúp cải thiện não bộ, tăng cường khả năng học hỏi, tăng trí nhớ, giảm stress, giảm sự lão hóa của não bộ. Kết quả nghiên cứu của Ratey cho thấy: càng hào hứng với tập luyện thì não bộ càng làm việc hiệu quả. Quá trình luyện tập sẽ huy động tối đa các hợp chất trong máu mà khi được vận chuyển tới não bộ sẽ hỗ trợ tối đa cho các tế bào nơron. Một trong những hợp chất hóa này là protein BDNF, được xem là có tác động rất lớn tới sự phát triển của não bộ. Nghiên cứu này cũng cho thấy việc luyện tập có thể làm đảo ngược sự tác động của tuổi tác đối với não bộ. Bƣớc vào tuổi 40, thể tích não bộ sẽ giảm 5% sau từng thập kỷ. Điều này xảy ra do các khớp thần kinh, vùng giữa các tế bào não có nhiệm vụ truyền các tín hiệu thần kinh, bị mòn thậm chí là bị đứt. Các mao mạch dẫn truyền dưỡng chất cho não cũng sẽ co hẹp cùng với tuổi tác, giảm lưu lượng máu tới não và kết quả là làm suy giảm các chức năng não bộ. Đây chính là nguyên nhân vì sao càng lớn tuổi càng hay quên. Tập luyện TDTT sẽ khích thích một loạt các phản ứng có tính chất trẻ hóa và kích thích các tế bào não, bảo vệ não bộ khỏi những tác hại của stress và lão hóa. 7. Hình thành kỹ năng sống Quá trình tập luyện TDTT là quá trình làm việc, giao tiếp với một tập thể gồm huấn luyện viên, giảng viên, đồng đội, người tập chung. Qua đó, người tập có thể học hỏi những kỹ năng sống có giá trị như: Đưa ra quyết định; Giải quyết vấn đề; Tư duy sáng tạo; Tư duy phản biện/sáng suốt; Giao tiếp hiệu quả; Mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân; Tự ý thức về bản thân/Chánh niệm; Quyết đoán; Đồng cảm; Tâm xả; Đối phó với căng thẳng, tổn thương và mất mát; Khả năng phục hồi tâm lý; Giao tiếp; Làm việc nhóm; Lãnh đạo…. Sự tự tin sẽ tăng lên khi giành chiến thắng và đạt đƣợc mục tiêu. Trong môi trường TDTT, chúng ta sẽ có cơ hội gặp gỡ, kết bạn với những ngƣời có cùng sở thích, có điều kiện có thêm nhiều bạn mới, mở rộng mối quan hệ xã hội./. Tin bài: Lê Viết Vinh - Tổ GDTC & QPAN Rèn luyện thể chất - Môn học không thể thiếu trong trường họcTài liệu giáo dục thể chất phần chungBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 63 trang ) PHẦN I: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP THỂ DỤC THỂ 1 các hoạt động sống cơ bản: đi, chạy, nhảy, leo, trèo... Kỹ năng, kỹ xảo ngành nghề du lịch, giải trí... - Bản chất của thành phần thứ 2 trong giáo dục thể chất là sự tác động hợp lý tới sự phát triển tố chất vận động, đảm bảo phát triển năng lực vận động. Trong hệ thống giáo dục nội dung đặc trưng ấy của GDTC được gắn liền với trí dục, đạo đức, mỹ thuật và giáo dục lao động. Bên cạnh thuật ngữ GDTC người ta thường dùng thuật ngữ chuẩn bị thể lực, về bản chất hai thuật ngữ này có ý nghĩa như nhau. Nhưng thuật ngữ thứ 2 thường được nhắc tới khi nhấn mạnh tính thực dụng của GDTC đối với lao động hoặc các hoạt động khác. GDTC kết hợp các mặt giáo dục khác như: đức, trí, thể, mĩ nhằm phát triển con người cân đối toàn diện. I.2. Khái niệm phát triển thể chất Thể chất chỉ chất lượng cơ thể con người Phát triển thể chất là qúa trình hình thành và thay đổi hình thái chức năng cơ thể diễn ra trong suốt cuộc đời mỗi cá nhân (chúng được hình thành trên và trong cái nền thân thể ấy). I.2.1. Hình thái: Thể chất con người có thể nhìn thấy cân đo, đong đếm được, hình thái bao gồm chiều cao cân nặng, các chỉ số vòng ngực vòng eo, vòng đùi, vòng cổ, vòng bụng, chiều dài bàn tay bàn chân v.v... tất cả các chỉ số đó có thể cân đo đong đếm được gọi là hình thái. I.2.2 Chức năng: Các chỉ số về sinh lý sinh hoá, sinh cơ trong cơ thể. VD: trọng lượng của tim, mạch đập lưu lượng phút, lưu lượng tâm thu, thông khí phổi, hệ cơ xương, thần kinh.vv... I.3 Quá trình phát triển thể chất đồng thời là quá trình tự nhiên và quá trình Xã hội. 1.3.1. Quá trình tự nhiên 2 Phát triển thể chất là quá trình tự nhiên vì nó tuân theo những quy luật sinh học tự nhiên, như quy luật phát triển thể chất theo lứa tuổi giới tính, quy luật thống nhất hữu cơ giữa cơ thể và môi trường, quy luật thay đổi về hình thái dẫn đến thay đổi về chức năng, theo những quy luật thay đổi số lượng dẫn đến thay đổi chất lượng... 1.3.1. Quá trình xã hội Tuy vậy sự phát triển thể chất của con người còn chịu sự chi phối của môi trường xã hội như điều kiện sống vật chất, điều kiện vệ sinh, điều kiện lao động, học tập, nghỉ ngơi. điều kiện sống bao gồm; chê dộ dinh dưỡng, vi ta min, điều kiện môi trường. Các điều kiện này tác động đến sự phát triển thể chất một cách tự phát nghĩa là với điều kiện như ăn uống đầy đủ, môi trường đảm bảo sạch sẽ về nước không khí, ánh sang vv... lao động đúng mức thì thể chất phát triển tốt và ngược lại. Giáo dục: Tác động đến sự phát triển thể chất 1 cách tự giác (chủ động, tích cực hợp lý). Về bản chất giáo dục là quá trình điều khiển sự phát triển thể chất 1 cách hợp lý hoá. Vai trò của giáo dục còn thể hiện ở chỗ có thể khắc phục được những hậu quả tiêu cực của lao động, học tập hoặc những hoạt động sống khác gây nên. VD: Như chữa các bệnh cong vẹo cột sống hoặc phát triển mất cân đối giữa các bộ phân cơ thể, hồi phục chức năng của các cơ quan bị tổn thương, thậm trí thông qua tập luyện có thể tạo ra được những phẩm chất mà bản thân di truyền không có, VD: khả năng làm việc trên không trung hay dưới độ sâu của nước... - Cả 3 yếu tố này diễn ra đồng thời, có quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong việc phát triển tố chất và nhân cách con người. Trên cơ sở yếu tố bẩm sinh di truyền là tiền đề cũng với điều kiện sống phù hợp đảm bảo tính khoa học và quá trình giáo dục diễn ra đúng lúc sẽ mang lại hiệu quả cao. *Tập luyện TDTT sẽ thúc đẩy và nâng cao sự phát triển thể chất như tăng cường sức khoẻ, thể hình đẹp, cân đối nâng cao các khả chức phận của cơ thể như tim, phổi, hệ tim mạch, hô hấp… nâng cao và phát triển các tố chất thể lực, sức đề kháng với bệnh tật, các năng lực vận động cơ bản của cuộc sống như chạy, nhảy, bò, trườn... ngoài ra còn là mục tiêu để rèn luyện phẩm chất đạo đức, hình thành nhân cách của con người và có thể khẳng định một điều 3 rằng người nào tập luyện TDTT 1 cách hợp lý thì chắc chắn sẽ có sự phát triển thể chất hơn hẳn người không tập luyện TDTT mà do sự phát triển của các quy luật tự nhiên (bẩm sinh di truyền). I.4. Khái niệm thể dục thể thao Khoảng những năm 70 về trước thuật ngữ TD và TT đã được giải thích bằng cách cắt nghĩa từng từ. Ví dụ: Thể là cơ thể, dục là giáo dục "giáo dục cơ thể", song thuật ngữ TDTT vẫn rơi vào tình trạng chưa được xác định nội dung cụ thể. Năm 1972 cuốn sách dịch đầu tiên về lý luận và phương pháp giáo dục thể chất đã nêu được nội dung của khái niệm "TDTT là tổng hoà các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo ra trong qúa trình phát trển xã hội loài người trong lĩnh vực hoàn thiện thể chất cho con người". Thuật ngữ TDTT được dùng lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 19 trong ngôn ngữ Anh SPORT. Gần đây trong quá trình phát triển khái niệm TDTT ngày càng hoàn thiện được bổ sung những nội dung mới, theo sự phát triển của nhận thức xã hội sự hiểu biết phát triển - khái niệm phát triển. Thực ra nếu dịch theo đúng từ điển thì thuật ngữ thể dục thể thao đang dùng phải mang tên là văn hoá thể chất. Như vậy thuật ngữ TDTT đồng nghĩa với VHTC. Muốn hiểu được văn hoá thể chất hay TDTT ta cần đi sâu nghiên cứu khái niệm văn hóa. Trong các ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới có hàng trăm nghĩa khác nhau. Thông thường người ta dùng thuật ngữ văn hoá để chỉ những hoạt động tinh thần của con người và xã hội, chỉ trình độ học vấn của loài người, văn hoá cũng thường dùng để chỉ hành vi cử chỉ con người "người thiếu văn hóa" những hành vi văn minh. Trong khoa học các tài liệu gốc theo từ điển triết học bách khoa toàn thư người ta định nghĩa "Văn hoá là hoạt động của con người và toàn xã hội nhằm cải tạo tự nhiên. Như vậy văn hoá chính là hoạt động của con người nhằm vào tự nhiên (Cày bừa cuốc xới cải tạo tự nhiên để đáp ứng cho con người để lại những di sản hoạt động gọi là văn hoá). 4 Trong những tài liệu hiện đại, nội dung khái niệm văn hoá phong phú và đa dạng hơn. Văn hoá bao gồm hoạt động sáng tạo của con người chinh phục tự nhiên, những phương tiện, phương pháp hoạt động và những kết quả hoạt động đem lại cho cá nhân và xã hội. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người đã nảy sinh một loại hoạt động đặc biệt, nó không chỉ tác động vào tự nhiên bên ngoài mà tác động vào ngay phần tự nhiên trong con người, đó là cơ thể con người. Cơ thể con người gồm 2 phần: Thực thể tự nhiên (thể xác) và thực thể xã hội (tinh thần). Vậy TDTT được hiểu là sự luyện tập cơ thể cải tạo cơ thể bằng sự vận động tích cực của cơ bắp. Đối tượng của TDTT là điều khiển quá trình phát triển thể chất của con người. Để phân tích sâu hơn khái niệm TDTT được xem xét 3 quan điểm. - TDTT là một hoạt động. Đây là một hoạt động của con người, nó là một hoạt động có đối tượng là con người, đặc biệt của hoạt động này là một hoạt động hỗ trợ bổ sung cho hoạt động chính cơ bản. Nó là một hoạt động phụ làm tăng hiệu quả của hoạt động chính. Nó là hoạt động phụ bổ sung nâng cao hiệu quả hoạt động sống cơ bản. TDTT ra đời gắn liền với lao động cụ thể gắn liền với nghề săn bắn. Nghề săn bắn đòi hỏi con người phải có sức mạnh khéo léo bền bỉ, phải có kỹ năng leo trèo rình rập bò trườn và đặc biệt là lao ném. Nhờ có ý thức phát triển mà con người nhận thức được mối liên hệ nhân quả giữa chuẩn bị trước cho lao động và kết quả lao động vì vậy nó nảy sinh hình thức tập luyện để chuẩn bị trước cho lao động. Ở những nước Châu Phi, Châu Úc còn lại những di tích chứng tỏ người cổ xưa đã tập luyện săn bắn như hình vẽ của thú vật trên đá. Vậy nó là hoạt động chuẩn bị cho lao động, đi trước lao động để làm tăng hiệu quả của lao động, phục vụ cho lao động đây là chức năng xã hội vốn có của TDTT và lúc đó giáo dục thể chất cũng thuộc phạm trù vĩnh hằng. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tính chất của lao động thay đổi lao động chân tay ngày càng giảm nhẹ lao động trí óc và lao động bằng máy ngày càng 5 tăng lên. Nhưng mối quan hệ giữa TDTT với lao động không hề bị xoá bỏ. Nếu như trước đây TDTT liên hệ trực tiếp với lao động mang tính thực dụng trực tiếp nhưng ngày nay nó mang tính chất gián tiếp. Ảnh hưởng của nó là nâng cao sức khoẻ, chúng thúc đẩy nhanh quá trình hồi phục sau lao động nâng cao khả năng hoạt động thể lực. - TDTT là tổng hoà giá trị vật chất và tinh thần Đó là những công cụ phương tiện được sáng tạo ra tác động vào tự nhiên, đó là nhưng giá trị vật chất và tinh thần được lưu trữ và truyền bá ví dụ: Xây nhà phải có những phương pháp dụng cụ sáng tạo ra gọi là văn hoá (trong trường hợp này TDTT bao gồm những môn tập những bài tập mà con người sáng tạo ra như thể dục nhịp điệu, thể dục thể hình, phương pháp tập luyện) được sử dụng trong thi đấu và tập luyện. - TDTT là kết quả của hoạt động. Kết quả của tập luyện TDTT thể hiện ngay trên chính cơ thể con người đó là sức khoẻ, thể chất phát triển, kỷ lục thể thao, phong trào thể thao. Vậy TDTT theo nghĩa hẹp là: Bộ phận hữu cơ của nền văn hoá xã hội ... Theo nghĩa rộng là tổng hoà những giá trị vật chất và tinh thần loài người sáng tạo ra trong lĩnh vực tập luyện. II. NGUỒN GỐC CỦA THỂ DỤC THỂ THAO VÀ CHỨC NĂNG VỐN CÓ. Thể dục thể thao ra đời phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người. Lao động sản xuất là nguồn gốc cơ bản của thể dục thể thao. Nói cách khác, đó là cơ sở sinh tồn của tất cả mọi hoạt động, là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất. Thể dục thể thao được phát sinh trong những điều kiện sinh hoạt vật chất nhất định của xã hội đặc biệt là săn bắt. Trong thời cổ xưa con người sống thành từng bầy lớn sinh sống bằng săn bắt là bộ phận kinh tế sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng chủ yếu nhất của thời đó. Ngay trong quá trình giải quyết những vấn đề thiết thân: Ăn, ở, mặc... của mình. Tất cả mọi hoạt động của con người đều phục vụ săn bắn. Nhờ săn bắt con người kiếm được thức ăn và một số vật phẩm tiêu dùng. Chính vì vậy muốn có được thức ăn và sống được an toàn, họ luôn phải đấu tranh với thiên 6 tai và thú dữ, con người phải biết leo trèo, lội qua suối, bơi qua sông v.v... Nói cách khác săn bắt là cuộc thi giữa con người và con vật về sức nhanh và sức mạnh, sức bền. Thực tế đấu tranh khốc liệt để sinh tồn đó buộc con người phải biết chuẩn bị, dạy và học. Đây chính là điều kiện khách quan đề ra đời TDTD mặt khác do hoạt động tư duy có rất sớm những kinh nghiệm hoạt động của con người được lặp lại nhiều lần trong cuộc sống và dần được tích luỹ lại đã làm cho con người nhận thức được hiện tượng tập luyện, vì họ hiểu rằng chạy nhiều thì chạy càng nhanh, càng dẻo dai hiệu quả của cuộc săn bắt càng tốt hơn. Vì vậy trong quá trình lao động con người nhận thấy việc tập luyện là cần thiết để chuẩn bị cho lao động, để lao động được khoẻ dẻo dai bền bỉ cho nên người ta tập động tác tương tự như ném, leo trèo dần già quá trình lao động và tập luyện con người đã tích luỹ được thêm nhiều hiểu biết để truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đây chính là điều kiện chủ quan của sự ra đời của TDTT. Vậy chức năng vốn có của TDTT là chuẩn bị cho lao động đi trước lao động trong thời kì này TDTT mang tính thực dụng trực tiếp cùng với sự phát triển của loài người đặc biệt là sự phát triển KH- KT ngày càng phát triển nó giảm nhẹ sức lao động của con người, thay vào đó là những máy móc hiện đại tinh vi chủ động, con người chỉ cần điều khiển thì vai trò của TDTT lại mang tính thực dụng gián tiếp nó chuẩn bị thể lực cho con người ngoài ra nó còn nhiều vai trò chức năng khác như thể dục chữa bệnh, thể dục nghề nghiệp, thể dục vệ sinh, TD trong thời gian nhàn rỗi, TD hồi phục làm cho con người có trạng thái thoải mái để bước vào lao động đạt hiệu quả cao. Như vậy TDTT xuất hiện cùng với sự hình thành của xã hội loài người TDTT trở thành biện pháp quan trọng để chuẩn bị cho lao động mà lao động là điều kiện tự nhiên để đảm bảo cho cuộc sống. Xã hội loài người càng phát triển TDTT cũng theo đà đó mà phát triển cho nên TDTT là một hiện tượng xã hội nó thuộc phạm trù vĩnh cửu với ý nghĩa xuất hiện cùng với sự xuất hiện của XH loài người sẽ tiến triển theo quá trình tiến triển của XH sẽ tồn tại mãi mãi như những điều kiện tất yếu của nền sản xuất. 7 III. TÁC DỤNG CỦA TẬP LUYỆN THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI CƠ THỂ Cơ thể con người là một khối thống nhất. Tất cả các hệ thống, cơ quan trong cơ thể có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Khi ta vận động( tập luyện TDTT) thì không những cơ bắp hoạt động mà tim, phổi, hệ thần kinh, hệ bài tiết…đều tăng cường hoạt động và chịu ảnh hưởng rõ rệt. Tập luyện TDTT có tác dụng làm cho các tổ chức cơ quan trong cơ thể thay đổi hình thái và nâng cao năng lực vận động. Hai mặt đó luôn liên qua mật thiết và tác động lẫn nhau ( cấu trúc thay đổi dẫn đến chức năng thay đổi). Hoạt động TDTT là một trong những hoạt động vận động tích cực thực hiện trong những điều kiện phức tạp của thế giới tự nhiên. Phương tiện hoạt động TDTT gồm có các bài tập thể chất, các điều kiện tự nhiên như: ánh sáng, không khí, nước, bức xạ mặt trời… và các yêu cầu về vệ sinh, chính vì vậy mà tập luyện TDTT có tác động và ảnh hưởng tốt đối với thể người tập. Tập luyện TDTT là phương pháp phòng bệnh tích cực, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể, chống bệnh tật, tạo điều kiện cho cơ thể phát triển tự nhiên, cân đối, tăng cường sức khoẻ và kéo dài tuổi thọ. Nâng cao năng lực hoạt động của cơ thể, góp phần rèn luyện những phẩm chất đạo đức - ý chí cần thiết cho con người, phát triển toàn diện các tố chất vận động: sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ mềm dẻo và sự khéo léo. Tập luyện TDTT sẽ góp phần khắc phục sửa chữa được một số khuyết tật của cơ thể và những hiệu quả tiêu cực của hoạt động lao động và học tập gây ra (chữa các bệnh cong vẹo cột sống, bẹt bàn chân), phòng chống bệnh nghề nghiệp và góp phần quan trọng vào việc điều trị, hồi phục tích cực các cơ quan vận động và một số bệnh lý khác. Thông qua hoạt động TDTT một cách có hệ thống sẽ nâng cao được khả năng trao đổi chất trong cơ thể, góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ, giúp cơ thể phát triển tự nhiên cân đối hài hoà về thể chất, nâng cao được cường độ hoạt động, khả năng thăng bằng, độ linh hoạt, khả năng phân tích - tổng hợp của hệ thần kinh, từ đó nâng cao năng lực thích ứng của cơ thể đối với những 8 thay đổi của thời tiết, khí hậu và hoàn cảnh, tạo điều kiện thích nghi với môi trường sống. Ngoài ra TDTT còn giúp cho người tập có được tinh thần sảng khoái, nâng cao năng lực trí tuệ giảm stress. Do vậy, tập luyện TDTT thường xuyên có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng cuộc sống cũng như năng lực công tác, lao động, học tập của con người, làm thay đổi theo hướng tích cực và và nâng cao khả năng làm viêc của các hệ thống cơ quan trong cơ thể, nhờ đó có thể tao ra những phẩm chất, khả năng mà bẩm sinh di truyền không có được: như làm việc trong môi trường chân không của cá nhà du hành vũ trụ, điều kiện áp suất cao như thợ lặn. Nhưng một điều cần chú ý là những tác động của GDTC phải trong giới hạn cho phép nhất định. Trong những nhân tố về đặc điểm hình thái chức năng của cơ thể có những nhân tố ít chịu ảnh hưởng của tập luyện mà chịu sự chi phối của bẩm sinh và di truyền, đó là những đặc điểm “bảo thủ” của cơ thể. Như đối với phụ nữ tập luyện TDTT có thể làm cho vòng eo nhỏ lại nhưng lại không thể làm cho vòng ngực lớn ra. Tiền đề vật chất cho sự phát triển thể chất là bẩm sinh di truyền còn xu hướng, tốc độ phát triển lại chịu ảnh hưởng lớn của các điều kiện sinh hoạt, vật chất, chế dộ sống, chế độ lao động, học tập và nghỉ ngơi đặc biệt là quá trình giáo dục. IV. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC THỂ CHẤT. IV .1. Mục đích: Mục đích của giáo dục hay nói đúng hơn là mục đích mà con người và xã hội đề ra cho mình trong lĩnh vực giáo dục. Mục đích là sự dự báo kết quả của hoạt động cần đạt được, mục đích giáo dục là sự phản ánh những nhu cầu khách quan của xã hội, không thể đặt ra mục đích một cách tuỳ tiện. Một trong những nhân tố khách quan cơ bản của mục đích GDTC là những yêu cầu của nền sản xuất xã hội đối với sức khoẻ, thể chất và trình độ thể lực của con người. Chức năng vốn có của GDTC là chuẩn bị cho lao động nó tồn tại vĩnh hằng cùng với lao động, chính nền sản xuất lớn XHCN đòi hỏi con người phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Các Mác nói "Đến một giai đoạn nào đó trong xã hội tất yếu nảy sinh vấn đề thay thế những công nhân chỉ 9 đơn giản thực hiện chức năng lao động bằng những cá nhân phát triển toàn diện". Chính những người sáng tạo ra chủ nghĩa Mác đã nhận ra nhu cầu khách quan về con người phát triển toàn diện có từ thời cổ xưa trong kho tàng trí tuệ của loài người. Nguyên nhân khách quan thứ hai quyết định mục đích của giáo dục thể chất là những yêu cầu củng cố quốc phòng của đất nước, trong bất kỳ tình thế nào mỗi quốc gia đều phải thực hiện chức năng quốc phòng (qua năm thời kỳ nô lệ - CNCS) đều có quân sự trong TDTT. Một trong những thành phần quan trọng nhất tạo nên sức mạnh quân sự là trình độ chuẩn bị thể lực cho chiến sỹ. Phương tiện kỹ thuật hiện đại đòi hỏi quân sự phải tiếp thu và sử dụng chúng có hiệu quả trong các tình huống chiến đấu, yêu cầu tối đa về hoạt động thể lực và tinh thần. Mục đích của giáo dục thể chất XHCN là sự phản ánh nhu cầu cụ thể của xã hội có cội nguồn từ lao động, song điều đó không có nghĩa giáo dục thể chất chỉ hoàn toàn nhằm tới sức khoẻ thoả mãn nhu cầu thực dụng xã hội. Mục đích của giáo dục thể chất và mục đích của giáo dục nói chung trong chế độ XHCN phải là sự phản ánh nguyên tắc cao nhất của CNCS "tất cả vì con người". Tính nhân đạo cao cả của thực tiễn giáo dục XHCN còn thể hiện ở chỗ lần đầu tiên trên cơ sở thực tế xoá bỏ mâu thuẫn giữa chức năng xã hội thực dụng của giáo dục và đáp ứng đầy đủ lợi ích phát triển toàn diện cân đối của mọi thành viên trong xã hội. Mục đích của GDTC trong các trường đại học là góp phần thực hiện nục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và văn hoá xã hội, phát triển hài hoà, cường tráng, đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghề nghiệp và có khả năng tiếp cận với thực tiễn lao động sản xuất… của nền kinh tế thị trường. Mục đích của GDTC đựơc cụ thể hoá trong 3 nhóm nhiệm vụ IV.2. NHIỆM VỤ. IV.2.1. Nhóm nhiệm vụ giáo dục thể chất theo nghĩa hẹp. 10 " Giáo dục cơ thể" củng cố và tăng cường sức khoẻ phát triển toàn diện cân đối, hình thái chức năng cơ thể, phát triển toàn diện các tố chất vận động và khả năng hoạt động thể lực. - Nhóm nhiệm vụ này được đảm bảo phát triển toàn diện các tố chất nhanh, mạnh, bền, khéo léo, chúng là nhân tố tổng hợp chủ yếu của khả năng vận động, giáo dục các tố chất thể lực và còn có ý nghĩa sức khoẻ. Chính sức khoẻ lại quy định tự nhiên hoàn thiện hình thái chức năng cơ thể thông qua vận động có hệ thống "Không có gì làm, kiệt quệ và huỷ hoại cơ thể bằng sự thiếu vận động kéo dài" Arixtôt. Đồng thời nhiệm vụ giáo dục sức khoẻ trong giáo dục thể chất cũng được giải quyết tương đối độc lập đó là dùng các thủ pháp tôi luyện cơ thể nâng cao khả năng thích nghi trước những biến đổi đột ngột của thời tiết . Ví Dụ: Tập làm quen với nước lạnh, tạo ra sức khoẻ một cách trực tiếp và đảm bảo yêu cầu vệ sinh trong sinh hoạt. - Hoàn thiện thể hình. Trong hệ thống giáo dục thể chất XHCN nhiệm vụ hoàn thiện thể hình không có nghĩa độc lập. Về việc hoàn thiện thể hình chỉ đúng đắn chừng nào nó không trở thành mục đích duy nhất, mà phải phục vụ cho yêu cầu phát triển toàn diện thể lực phẩm chất và năng lực con người, trong một số trường hợp việc hoàn thiện hình thể có ý nghĩa phòng chữa bệnh và chỉnh hình. IV.2.2. Nhiệm vụ giáo dưỡng thể chất: Hình thành và hoàn thiện kỹ năng kỹ xảo, quan trọng trong cuộc sống kể cả kỹ xảo thực dụng trực tiếp và thể thao, trang bị kiến thức chuyên môn. Nhiệm vụ giáo dưỡng được đặt ra bởi khả năng vận động của con người được bộc lộ trong các kỹ năng vận động, nói cách khác muốn có trình độ chuẩn bị thể lực chỉ phát triển các tố chất vận động thì chưa đủ. Nội dung cụ thể của việc giáo dưỡng ở các giai đoạn khác nhau trong quá trình giáo dục thể chất nhiều năm phụ thuộc vào kinh nghiệm vận động mà con 11 người đã tiếp thu được và lôgíc chuyển tiếp từ kỹ năng, kỹ xảo đơn giản đến kỹ xảo phức tạp còn năng khiếu cá nhân phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động và nhiều nhân tố khác. Quy tắc chung là chuyển dần từ giáo dưỡng chung rộng rãi sang hoàn thiện sâu kỹ năng, kỹ xảo vận động. Giáo dưỡng chung, đi, chạy, nhảy, leo trèo các bài tập đơn giản chuyển từ kỹ năng cơ bản đã là các kỹ năng, kỹ xảo thể thao. Một nội dung quan trọng của giáo dưỡng thể chất là trang bị những kiến thức chuyên môn cũng như thường xuyên bổ sung vận dụng chúng trong thực tiễn. Đó là những kiến thức làm tiền đề cho việc tiếp thu kỹ xảo (sự hiểu biết kỹ thuật, những kiến thức về vệ sinh tập luyện, phương pháp tập luyện thi đấu, những ý kiến về ý nghĩa xã hội của GDTC). IV.2.3. Nh iệm vụ hình thành nhân cách con người Đây là quá trình hình thành nhân cách cho con người, nhiệm vụ giáo dục Chủ nghĩa Cộng sản. Rõ ràng những nhiệm vụ phức tạp để hình thành nhân cách hoàn chỉnh chỉ được giải quyết trong điều kiện thống nhất hữu cơ các mặt giáo dục riêng biệt với giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức dường như xuyên suốt toàn bộ thực tiễn giáo dục xã hội, xuyên suốt các mặt giáo dục và hình thức giáo dục. Bởi vì hiệu quả cuối cùng của bất kỳ mặt giáo dục nào cũng phụ thuộc chủ yếu vào giải quyết toàn diện nhiệm vụ hình thành lý tưởng tiêu chuẩn đạo đức, thói quen đạo đức. Tính giai cấp của giáo dục chính là hình thành nhân cách đặc trưng cho chế độ xã hội. Giáo dục đạo đức dường như xuyên suốt toàn bộ quá trình giáo dục xã hội, xuyên suốt bất kỳ bộ phận, khía cạnh, hình thức nào của thực tiễn đó. Bởi vì đạo đức là một thành viên xã hội, để điều chỉnh hành vi của con người Để điều chỉnh hành vi của con người mỗi chế độ xã hội đặt ra những chuẩn mực quy định thái độ của con người đối với bản thân, bạn bè, gia đình, tập thể, quốc gia. Trong quá trình giáo dục thể chất chúng ta cũng phải giải quyết nhiệm vụ này, đối với trí dục cũng vậy nhất là những môn xã hội học văn học. 12 Bên cạnh việc giáo dục đạo đức, chúng ta cần tiến hành giáo dục ý chí. Ý chí là khả năng của con người tập trung sức mạnh tinh thần để khắc phục những khó khăn trong quá trình hoạt động và trong quá trình sống. Chỉ có những người có ý chí, có bản lĩnh mới vượt qua được trở ngại trên đường đạt tới mục đích. Trong hành vi của con người gọi là hành động ý chí khác hành động bản năng, trong hoạt động con người bao giờ cũng đặt cho mình một cái đích đạt tới. Muốn đạt được mục đích đó đòi hỏi phải có ý chí. Những biểu hiện của ý chí trong một con người thường thấy cương quyết, tự tin, kiên trì, nhẫn nại, dũng cảm. Trong quá trình giáo dục thể chất phải kết hợp những nét về giáo dục ý chí. Đây không phải là nhiệm vụ đặc trưng nhưng nhất thiết phải làm vì đây là nhiệm vụ xuyên suốt toàn bộ hệ thống giáo dục Cộng sản Chủ nghĩa. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Phân tích khái niệm GDTC? 2. Phát triển thể chất là gì? 3. Sự phát triển thể chất của con người tuân theo những quy luật nào? 4. Phân tích khái niệm TDTT? 5. Trình bày nguồn gốc của TDTT? 6. Tác dụng của việc tập luyện TDTT đối với cơ thể 7. Trình bày mục đích và các nhiệm vụ của GDTC? 13 Bài 2 CÁC PHƯƠNG TIỆN - PHƯƠNG PHÁP VÀ CÁC NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC THỂ CHẤT A. MỤC TIÊU - Phân tích được bài tập thể chất là phương tiện chuyên môn cơ bản của giáo dục thể chất. - Trình bày được các nhân tố tác động hợp lý tới hiệu quả của bài tập thể chất và đặc điểm các nhân tố môi trường tự nhiên và điều kiện vệ sinh. - Trình bày được lượng vận động và quãng nghỉ là yếu tố thành phần cơ bản của giáo dục thể chất. - Mô tả được cáu trúc buổi tập thể dục thể thao. B. NỘI DUNG I. CÁC PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC THỂ CHẤT Để đạt mục đích giáo dục thể chất người ta sử dụng tổng hợp các phương tiện khác nhau kể cả các phương tiện chung cho quá trình sư phạm. Các phương tiện giáo dục giáo dục thể chất được sử dụng để tác động đến các đối tượng tập luyện nhằm đạt được những mục đích của giáo dục thể chất. Chúng bao gồm các bài tập thể dục thể thao, các nhân tố môi trường tự nhiên, điều kiện vệ sinh. Trong đó bài tập thể chất là phương tiện chuyên môn cơ bản của GDTC. I.1. BÀI TẬP THỂ CHẤT LÀ PHƯƠNG TIỆN CHUYÊN MÔN CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC THỂ CHẤT. I.1.1. Khái niệm bài tập thể chất: Bài tập thể chất là những hành vi vận động của con người, được lựa chọn để giải quyết các nhiệm vụ của giáo dục thể chất. Trong cuộc sống con người thực hiện những hành động vận động như lao động, vui chơi, sinh hoạt, giao tiếp. Thông qua hoạt động con người biểu thị nhu cầu cảm xúc và thái độ tích cực đối với thế giới bên ngoài. Song không phải tất cả những hành động đó đều gọi là bài tập thể chất. Đặc điểm quan 14 trọng nhất của bài tập thể chất là sự phù hợp giữa hình thức và nội dung của bài tập thể chất. Ví dụ: Những hình thức vận động cơ bản của con người như đi, chạy, nhảy v.v... có thể trở thành bài tập thể chất khi chúng có hình thức hợp lý theo quan điểm giáo dục thể chất và tạo ra được các quá trình biến đổi chức năng của cơ thể ở mức độ cần thiết, phù hợp với yêu cầu giữ gìn sức khoẻ, nâng cao các tố chất thể lực, hoàn thiện các kỹ năng vận động v.v... Như vậy bất kỳ động tác nào của lao động và đời sống cũng có thể được cải biến để trở thành phương tiện giáo dục thể chất. Như vậy bài tập thể chất nhất thiết không phải là những môn thể thao. Dấu hiệu đặc trưng của bài tập thể chất là sự lặp đi lặp lại động tác, chỉ có lặp lại nhiều lần một hành động vận động nào đó mới có thể hình thành kỹ năng kỹ xảo, hoặc làm phát triển tố chất thể lực. I.1.2. Nguồn gốc bài tập thể chất: Các công trình nghiên cứu lịch sử cho thấy bài tập thể chất đã xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người trong quá trình lao động. Nhân tố quan trọng nhất làm nảy sinh BTTC là điều kiện sống vật chất và hoạt động của con người mà trước nhất là lao động, các bài tập thể chất đầu tiên có liên hệ trực tiếp với các động tác lao động ngoài lao động các hoạt động quân sự, nghệ thuật, tôn giáo v.v... cũng ảnh hưởng tới sự phát triển bài tập thể chất, các bài tập nảy sinh và đáp ứng nhu cầu lao động được gọi là bài tập tự nhiên. Nhưng xã hội loài người ngày càng phát triển những bài tập tự nhiên mất dần tính thực dụnh trực tiếp, người ta sáng tạo ra những bài tập không có những động tác giống tự nhiên, (do sản xuất ngày càng phát triển sự hiện đại của máy móc) sự gián tiếp nhiều cho nên BTTC mất dần tính thực dụng trực tiếp dần dần các bài tập tự nhiên được thay thế bằng các bài tập phân tích. Đó là các bài tập được sáng tạo để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và chữa bệnh. Ví dụ: Các bài tập thể dục vệ sinh buổi sáng, những bài tập thể dục thể hình , các bài tập thể dục dụng cụ... 15 - Sự khác biệt giữa bài tập thể chất và lao động chân tay. Giống nhau: Đều là sự vận động của cơ bắp với những cơ chế biến đổi về sinh cơ, sinh lý, sinh hoá... tương tự nhau. Nhưng không thể coi hai hiện tượng đó có cùng một bản chất mà giữa chúng có sự khác biệt cơ bản. Bài tập thể chất Lao động chân tay BTTC tác động vào con người LĐCT tác động vào tự nhiên Mục đích: Tăng cường sức khoẻ Mục đích: Tạo ra của cải vật chất - chữa bệnh nghề nghiệp - Gây bệnh nghề nghiệp - Tạo ra những tố chất thể lực mới - Phát minh ra những phương pháp mà bẩm sinh di truyền không có được để cải tạo tự nhiên. Lao động là quá trình con người tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên bắt tự nhiên đáp ứng nhu cầu của mình, qua lao động con người cải tạo chính bản thân mình. Song sự tác động đó chỉ mang tính tự phát. Trong sản xuất hiện đại lao động chân tay được giảm nhẹ sẽ làm thu hẹp vận động thể lực và kết quả là hạn chế sự phát triển thể chất của con người. Trong khi đó bài tập thể chất tác động tới cơ thể theo quy luật của quá trình giáo dục nhờ bài tập thể chất ta có thể định hướng tác động con người để phát triển thể chất và tinh thần của họ. Như vậy TDTT và lao động chân tay có mỗi quan hệ hữu cơ với nhau được thể hiện ỏ chỗ. TDTT sau khi được hình thành trên cơ sở lao động đã trở thành một hoạt động không thể thay thế được của công việc chuẩn bị cho lao động. để nghiên cứu sâu hơn về bản chất của bài tập thể chất chúng ta cần phân tích nội dung và hình thức của BTTC. I.1.3. Nội dung và hình thức của bài tập thể chất: - Nội dung: Là các tác động cấu thành bài tập và các quá trình cơ bản diễn ra trong cơ thể phản ánh tác động của BTTC đối với người tập. Mỗi bài tập khác nhau có nội dung khác nhau, quá trình sinh lý diễn ra cũng khác nhau. Những quá trình 16 này rất đa dạng và phức tạp chúng có thể được xem xét theo các quan điểm tâm lý học, sinh lý học, sinh hoá, sinh cơ v.v... Dưới góc độ tâm lý, BTTC là các động tác tự ý đó là những động tác được điều khiển bằng trí tuệ và ý chí khác với động tác “vô ý thức”, tức là các động tác phản xạ không điều kiện. Việc thực hiện bài tập thể chất bao giờ cũng nhằm đạt được hiệu quả cụ thể nói cách khác mỗi bài tập thể chất đều có mục đích tự giác. Để đạt được mục đích con người phải tư duy tích cực, xác định phương hướng hành động đáng giá điều kiện hành động và điều khiển động tác nỗ lực ý chí. Như vậy về mặt tâm lý nội dung của bài tập thể chất là quá trình nhận thức cảm xúc và ý chí. Xét về mặt sinh lý học, BTTC là sự chuyển cơ thể sang một mức hoạt động chức năng cao hơn so với trạng thái không hoạt động. Những biến đổi sinh lý trong vận động sẽ kích thích quá trình hồi phục và thích nghi sau đó. VD: Thông khí phổi tăng hơn 30 lần, hấp thụ ôxy tăng 20 lần, lưu lượng phút của máu tăng đến 10 lần hoặc hơn, tương ứng với quá trình đó các quá trình đồng hoá và dị hoá cũng tăng lên. Nhờ đó BTTC trở thành một nhân tố mạnh mẽ làm tăng cường khả năng chức phận và hoàn thiện cấu trúc cơ thể. Khi xem xét nội dung BTTC theo quan điểm sư phạm thì điều quan trọng không hẳn chỉ là những biến đổi sinh lý, sinh hoá diễn ra trong cơ thể, mà chủ yếu là những khả năng do bài tập tạo ra để phát triển hợp lý năng lực con người, cùng với việc hình thành kỹ xảo nhất định. Về mặt sư phạm tác động của bài tập thể chất không chỉ hạn chế về mặt trong phạm vi sinh học mà còn tác động đến tâm lý, ý thức hành vi con người. - Hình thức của bài tập thể chất: Hình thức của bài tập phụ thuộc vào đặc điểm nội dung của nó trong triết học hình thức được hiểu là phương thức tồn tại của nội dung, là kết cấu của nội dung cho nên hình thức BTTC là kết cấu bên trong và bên ngoài của nó. - Cấu trúc bên trong của bài tập thể chất. 17 Là mỗi liên hệ qua lại tương hỗ phối hợp và tác động lẫn nhau giữa quá trình sinh lý diễn ra trong cơ thể khi tập luyện. VD: Các quá trình phối hợp thần kinh cơ, sự phối hợp qua lại giữa chức năng vận động và thực vật, tương quan giữa khả năng yếm khí và ái khí trong chạy sẽ khác trong đẩy tạ. - Cấu trúc bên ngoài của bài tập thể chất: Biểu hiện mỗi quan hệ không gian, thời gian và dùng sức tức là hình dáng động tác có thể nhìn thấy được. Mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của bài tập thể chất. hình thức và nội dung của bài tập thể chất có mỗi liên hệ hữu cơ với nhau. Trong đó nội dung là mặt quyết định, nội dung đi trước và để đạt được mục đích trong một bài tập nào đó thì phải thay đổi nội dung, sau đó hình thức mới thay đổi sau cho phù hợp. Mặt khác hình thức cũng ảnh hưởng tới nội dung, hình thức bài tập không phù hợp sẽ cản trở việc thực hiện nội dung. VD: Người có kỹ thuật chạy sẽ đạt kết quả cao hơn người không có kỹ thuật. Vì vậy hình thức phù hợp sẽ tạo điều kiện thực hiện nội dung. Trong thực tế có những bài tập có nội dung khác nhau nhưng lại có hình thức tương tự nhau (như chạy và đi bộ). Đồng thời có những bài tập có nội dung giống nhau nhưng hình thức lại khác (nhau như chạy bơi cùng một cường độ sinh lý). I.2. CÁC NHÂN TỐ XÁC ĐỊNH SỰ TÁC ĐỘNG HỢP LÝ CỦA BÀI TẬP THỂ CHẤT. Tuỳ theo nội dung và hình thức mà mỗi bài tập thể chất đều gây tác động nhất định đến cơ thể con người. Vì cơ thể con người là khối thống nhất hoàn chỉnh, bất cứ một tác động nào cũng gây nên sự biến đổi trong cơ thể cho nên trong quá trình tập luyện nếu không dựa trên những quy luật GDTC thì sẽ mang lại tác hại đối với cơ thể. Cho nên trong quá trình tập luyện TDTT để đạt được hiệu quả tốt nhất, ngoài 18 việc lựa chọ được các phương tiện và phương pháp tập luyện hợp lý thì người tập cần phải chú ý đến các nhân sau đây. - Bản thân bài tập. Các bài tập khác nhau về cấu trúc, lượng vận động, về độ phức tạp và độ mới lạ sẽ gây ra những phản ứng khác nhau trong cơ thể người tập. VD: Bài tập bơi khác bài tập đi bộ, những bài tập khác nhau dẫn đến phản ứng cơ thể cũng khác nhau. - Đặc điểm cá nhân người tập. Lứa tuổi, giới tính, trạng thái sức khoẻ, trình độ tập luyện... Cùng một bài tập, đối tượng khác nhau dẫn đến phản ứng cơ thể cũng khác nhau hoặc cùng một lượng vận động trạng thái sức khoẻ khác nhau cũng khác nhau. - Điều kiện bên ngoài Như thời tiết, địa điểm, điều kiện vệ sinh phòng tập, chất lượng dụng cụ tập luyện -Phương pháp tập luyện. Tập phương pháp khác nhau dẫn đến phản ứng cơ thể cũng khác nhau. Ví dụ phương pháp đồng đều khác phương pháp lặp lại với quãng nghỉ ngắn. Như vậy, để có được hiệu quả định trước của việc sử dụng bài tập, người tập phải trả lời được câu hỏi: Ai tập? tập cái gì? tập ở đâu? tập như thế nào? I.3. Ý NGHĨA PHƯƠNG TIỆN CỦA CÁC NHÂN TỐ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ CÁC NHÂN TỐ VỆ SINH. I.3.1. Các nhân tố của môi trường tự nhiên Các nhân tố của môi trường tự nhiên như ánh sáng mặt trời, không khí và nước, cũng là những phương tiện không kém phần quan trọng để củng cố sức khoẻ, tôi luyện cơ thể và nâng cao khả năng hoạt động thể lực của con người, trong quá trình giáo dục thể chất các nhân tố của môi trường tự nhiên được sử dụng theo hai hướng. 19 - Bổ sung tăng cường và hợp lý hoá tác động của bài tập thể chất như luyện tập trong điều kiện giàu ôxy bãi biển, tập dưới ánh nắng, tập trong điều kiện thời tiết đồi núi. - Sử dụng như một phương tiện độc lập để tôi luyên cơ thể, củng cố sức khoẻ (tôi luyện là dùng những thủ pháp để nâng cao khả năng thích nghi của cơ thể). Một trong những kết quả cơ bản của việc sử dụng hợp lý các nhân tố môi trường tự nhiên trong quá trình giáo dục thể chất là tôi luyện cơ thể tức là nâng cao tính ổn định của cơ thể trước những thay đổi đột ngột của thời tiết. Tôi luyện cơ thể trong phạm vi khả năng thích nghi cho phép sẽ có tác dụng củng cố sức khoẻ và tăng cường khả năng hoạt động của thể lực của con người. Để tôi luyện cần tôi luyện từ lứa tuổi nhỏ. Cơ thể cần sử dụng các phương tiện có tác động trái ngược nhau đối với cơ thể như có thể dùng nước nóng lạnh. I.3.2. Các nhân tố vệ sinh Cũng có ý nghĩa như một nhân tố bổ sung của GDTC việc tuân thủ các quy tắc vệ sinh trong quá trình giáo dục thể chất ở mức đáng kể quyết định hiệu quả của bài tập thể chất. Điều quan trọng ở đây là phải đảm bảo những yêu cầu vệ sinh của chế độ lượng vận động và quãng nghỉ. Vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường tập luyện, dụng cụ, trang phục cũng như điều kiện thúc đẩy quá trình hồi phục sau buổi tập, phòng bệnh và củng cố sức khoẻ. Mặc dù môi trường tự nhiên và các điều kiện vệ sinh không phải là phương tiện chính của giáo dục thể chất nhưng nó là các nhân tố bổ sung để làm tăng hiệu quả của quá trình tập luyện và thi đấu. II. CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT II.1. CƠ SỞ CẤU TRÚC CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT II.1.1. Lượng vận động và quãng nghỉ là yếu tố thành phần cơ bản của phương pháp giáo dục thể chất. Một trong những cơ sở quan trọng nhất của tất cả các phương pháp giáo dục thể chất là phương pháp điều chỉnh lượng vận động và trật tự kết hợp lượng vận động với nghỉ ngơi. 20 II.1.1.1. Khái niệm lượng vận động: Lượng vận động trong các bài tập thể lực là mức độ tác động của chúng tới cơ thể người tập. Nói cách khác thuật ngữ lượng vận động được dùng để chỉ sự định lượng tác động của các bài tập thể lực. Lượng vận động dẫn đến những diễn biến chức năng trong cơ thể như các trạng thái trước vận động, bắt đầu vận động, ổn định, mệt mỏi. Sự tiêu hao năng lượng trong vận động cũng như mệt mỏi nói chung chính là nguyên nhân tạo nên sự hoàn thiện cơ thể bằng vận động. Mệt mỏi sau vận động không mất đi hoàn toàn mà để lại những “dấu vết”. Quá trình tích luỹ những “dấu vết”, những biến đổi thích nghi đó sẽ làm phát triển trình độ tập luyện. Như vậy, lượng vận động dẫn tới mệt mỏi và tiếp đó là hồi phục thích nghi. Hiệu quả của lượng vận động tỉ lệ thuận với khối lượng và cường độ của nó nếu coi bài tập là một nhân tố tác động thì khái niệm khối lượng vận động là độ dài thời gian tác động là tổng số lần vận động thể lực đã được thực hiện và nhiều thông số khác. Cường độ vận động là sự tác động vào cơ thể của bài tập vào mỗi thời điểm cụ thể, là mức căng thẳng chức năng, là trị số một lần gắng sức… Lượng vận động chung của một số bài tập hay của cả buổi tập nói chung được xác định thông qua cường độ và khối lượng trong mỗi bài tập. Trong thực tế, người ta thường đánh giá tổng khối lượng vận động theo các thông số riêng lẻ bên ngoài tuỳ theo đặc điểm bài tập. Ví dụ, khối lượng là tổng số công và VĐV sinh ra trong suốt buổi tập, 1 tuần, 1 tháng, 1 năm, tổng số dộ dài, tổng số thời gian, số lần lặp lại vv.. Cường độ: Được đánh giá bằng mức độ căng thẳng về mặt sinh lý sinh hoá thực tế người ta tình bằng tốc độ trung bình. Ví dụ, tỉ lệ giữa kilômét chạy với tốc độ cần thiết trên tổng số kilômét đã vượt qua trong buổi tập. Các chỉ số tối đa của khối lượng và cường độ có liên quan tỷ lệ nghịch với nhau lượng vận động có cường độ tối đa chỉ có thể kéo dài một số dây hoặc ít hơn, ngược lại lượng vận động có khối lượng tối đa chỉ có thể thực hiện với cường độ thấp. Vì cường độ bài tập càng cao thì khối lượng càng nhỏ và ngược 21 lại. Trong những bài tập có cường độ trung bình thì khối lượng vận động có thể đạt tới những trị số lớn. Người ta phân biệt lượng vận động bên trong và lượng vận động bên ngoài - Lượng vận động bên trong: Là mức độ biến đổi sinh lý sinh hoá trong cơ thể khi thực hện bài tập. Trong điều kiện nhất định thì lượng vận động bên ngoài và lượng vận động bên trong tương ứng với nhau. Cường độ và khối lượng vận động càng lớn thì mức độ biến đổi sinh lý, sinh hoá trong cơ thể càng mạnh và ngược lại. Khi cơ thể ở những trạng thái khác nhau thì quan hệ giữa lượng vận động bên trong và lượng vận động bên ngoài cũng đổi khác. VD: Khi sử dụng một lượng vận động bên ngoài có hệ thống trong cơ thể đã diễn ra những biến đổi thích nghi khi có lượng vận động không còn gây nên những phản ứng mạnh mẽ như trước nữa. Hoặc cơ thể ở những trạng thái khác nhau thì cùng một lượng vận động sẽ dẫn đến những phản ứng trả lời khác nhau. - Lượng vận động bên ngoài: Có thể xác định bằng những thông số vận động theo các hệ số đo lường như thời gian, độ dài, trọng lượng các vật. Lượng vận động bên ngoài dễ xác định nhưng chỉ một cách tương đối VD: Quan sát bằng cảm giác chủ quan mệt hay không mệt, sắc thái, màu da hay bắt mạch. Lượng vận động bên trong phải thông qua các phương pháp kiểm tra y học. VD: Xác định sự tiêu hao năng lượng, phân tích máu v.v... Lập kế hoạch và điều chỉnh lượng vận động là nội dung cơ bản trong xây dựng phương pháp giáo dục thể chất, song nếu chỉ dừng ở đó thì chưa đủ, hiệu quả tập luyện còn phụ thuộc vào trật tự kết hợp một cách koa học giữa lượng vận động và nghỉ ngơi tích cực có tác dụng thúc đẩy nhanh quá trình hồi phục sau vận động, thông thường người ta kết hợp hai hình thức nghỉ ngơi với nhau. Ví dụ, giữa các lần tập nghỉ ngơi thụ động, giữa các loạt tập nghỉ tích cực. Thời gian quãng nghỉ trong các phương pháp khác nhau được xác định tuỳ theo mục đích của buổi tập và các quy luật của quá trình hồi phục. 22 II.1.1.2. Các quãng nghỉ trong phương pháp giáo dục thể chất Căn cứ vào mức độ hồi phục sau vận động mà người ta phân biệt 3 quãng nghỉ: Quãng nghỉ đầy đủ, quãng nghỉ ngắn, quãng nghỉ vượt mức. - Quãng nghỉ đầy đủ: Là quãng nghỉ đảm bảo, cho lượng vận động tiếp theo được thực hiện vào thời điểm khả năng vận động thể lực đã hồi phục tới mức ban đầu, nhờ vậy khi lặp lại các chức năng không bị căng thẳng. - Quãng nghỉ vượt mức: Là quãng nghỉ đảm bảo cho lượng vận động lặp lại được tiến hành vào thời điểm diễn ra pha hồi phục vượt mức. Tức là dường như xẩy ra trên nền nâng cao năng lực hoạt động, trên nền hiệu quả lưu lại từ buổi tập trước. - Quãng nghỉ ngắn: Là quãng nghỉ mà trong đó lượng vận động được lặp lại vào thời điểm các chức năng riêng lẻ hoặc toàn bộ cơ thể chưa kịp hồi phục đầy đủ. Với quãng nghỉ này lượng vận động bên trong ngày càng tăng lên. II.2. Cấu trúc buổi tập TDTT Dựa trên quy luật diễn biến khả năng hoạt động thể lực trong phạm vi buổi tập và đặc biệt tổ chức hoạt động người tập, người ta chia buổi tập thành 3 phần: Chuẩn bị, cơ bản, kết thúc - Phần chuẩn bị: Việc tổ chức cho một buổi tập cần phải chuẩn bị về dụng cụ sân bãi đầy đủ sạch sẽ cho buổi tập. Phần này cơ thể chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động gồm gồm khởi động chung và khởi động chuyên môn để chuẩn bị cho những nhóm cơ chính chịu lượng vận động của giờ học. Cấu trúc của phần chuẩn bị phải phù hợp với phần cơ bản phần này chiếm từ 10- 15% thời gian của buổi tập. - Phần cơ bản: Phần cơ bản được dành để giải quyết các nhiệm vụ phức tạp nhất của buổi tập. Tuỳ thuộc nội dung cụ thể, phần cơ bản có thể chia thành nhiều phần nhỏ. Đây là phần chủ yếu của buổi tập được tiến hành khi năng lực hoạt động đạt giá trị cao nhất. Phần này gải quyết những nhiệm vụ khó khăn khác nhau 23 của buổi tập như thực hiện những động tác mới, động tác phức tạp được bố trí ngay vào đầu của phần cơ bản. Khi tập những động tác mới người tập cần nắm vững quy luật hình thành và tiếp thu động tác. Giáo dục các tố chất thể lực cần tiến hành giáo dục sức nhanh, sức mạnh, sức bền hoặc sức mạnh, sức nhanh, sức bền. Trong các buổi tập thể thao, giai đoạn khả năng hoạt động thể lực tối ưu được dành cho phát triển sức mạnh và sức mạnh tốc độ. Thông thường phần này chiếm 70 - 80% thời gian buổi tập. - Phần kết thúc: Được tiến hành vào lúc năng lực hoạt động đã giảm xuống dần dần. Tổ chức thu gọn dụng cụ tập luyện. Để thúc đẩy nhanh quá trình hồi phục trong phần kết thúc người ta sử dụng các bài tập nhẹ nhàng như đi bộ, các động tác đơn giản, các động tác vũ đạo, nghỉ ngơi tích cực để đưa cơ thể về trạng thái bình thường. Phần này thời gian chiếm 5 - 10%. Bài 3 24 CÁC NGUYÊN TẮC VỀ PHƯƠNG PHÁP TẬP LUYỆN TDTT A. MỤC TIÊU - Kể tên được các nguyên tắc - Phân tích đặc điểm các nguyên tắc B. NỘI DUNG Những nguyên lý chung nhất để xác định toàn bộ phương hướng và tổ chức hoạt động trong giáo dục thể chất là ba nguyên tắc chung. Ngoài ra còn có những nguyên tắc về phương pháp giáo dục thể chất. Đó là những nguyên lý, cơ sở khoa học - thực tiễn, dùng để xác định những yêu cầu cơ bản về cấu tạo, nội dung, phương pháp tổ chức quá trình giáo dục thể chất nhằm đạt được hiệu quả mong muốn. Các nguyên tắc nghiên cứu dưới đây một mặt phản ánh quy luật của quá trình sư phạm mặt khác phản ánh quy luật đặc thù của giáo dục thể chất. Hệ thống nguyên tắc bao gồm năm nguyên tắc. III.1. NGUYÊN TẮC TỰ GIÁC TÍCH CỰC : Nguyên tắc tự giác tích cực phản ánh quy luật tâm lý hoạt động. Hiệu quả của quá trình tập luyện TDTT phụ thuộc rất nhiều vào tinh thần thái độ bản thân người tập việc hiểu được bản chất các nhiệm vụ cũng như tích cực thực hiện chúng sẽ rút ngắn thời thực hiện bài tập, tạo điều kiện sử dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo vào cuộc sống. Nội dung của nguyên tắc thể hiện ở yêu cầu sau. Xây dựng thái độ tự giác và hứng thú đối với mục đích chung và nhiệm vụ cụ thể của từng buổi tập. Tiền đề cần thiết của thái độ này là động cơ tham gia hoạt động đó. Các nhà tâm lý học Mác Xít cho rằng con người hoạt động là do động cơ tâm lý thúc đẩy. Động cơ hoạt động chi phối thúc đẩy con người hoạt động suy cho cùng là nhu cầu Mác nói: “Trước nhất con người phải có ăn ở mặc. Không có nhu cầu sống thì không lao động, nhu cầu thấp thì trình độ thấp”. 25 |