Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số tại thái lần và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt

Quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số đang là vấn đề được quan tâm không chỉ trong giới luật học mà còn ảnh hưởng đến giới công nghệ và truyền thông. Môi trường kỹ thuật số đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập ở nước ta hiện nay. Điều này cũng đặt ra vấn đề cấp bách trong công tác quản lý nhà nước về các hoạt động trong lĩnh vực này. Bài viết phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề bảo hộ quyền tác giả của tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số theo quy định của pháp luật quốc tế nói chung và của Việt Nam nói riêng. Trên cơ sở đó, xây dựng và đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Từ khoá: Quyền tác giả; Tác phẩm âm nhạc; Môi trường số; Việt Nam.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số được ghi nhận như một hình thức xâm phạm quyền tác giả ngang nhiên, với sự tham gia của nhiều đối tượng và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các chủ thể liên quan. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số là vấn đề mà pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam rất quan tâm, và đặt ra yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam phù hợp với sự phát triển chung của xã hội hiện đại.

  1. Quy định của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số

1.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số

Thứ nhất, về khái niệm quyền tác giả. Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, khái niệm quyền tác giả đã trở thành một khái niệm phổ biến và được áp dụng thống nhất khi được ghi nhận một cách rõ và ràng ngắn gọn tại khoản 2, Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Trong đó, tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại khoản 1, Điều 13 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019.

Thứ hai, quyền tác giả với tư cách là một bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ ngoài việc mang đầy đủ các đặc trưng của quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả còn mang một số đặc trưng sau:

Một là, đối tượng quyền tác giả luôn mang tính sáng tạo, được bảo hộ không phụ thuộc vào giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Cụ thể, đối tượng quyền tác giả là tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học là thành quả của lao động, sáng tạo bởi trí tuệ của tác giả và được thể hiện dưới hình thức nhất định mà không sao chép từ tác phẩm người khác thì cá nhân tạo ra tác phẩm có quyền tác giả đối với tác phẩm đó.

Hai là, quyền tác giả thiên về bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm. Một tác phẩm được bảo hộ đối với hình thức thể hiện cụ thể của tác phẩm mà không bao gồm việc bảo hộ đối với ý tưởng cũng như nội dung tác giả thể hiện trong tác phẩm đó.

Ba là, hình thức xác lập quyền theo cơ chế bảo hộ tự động. Quyền tác giả được xác lập kể từ khi tác giả sáng tạo ra tác phẩm và thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định mà không cần thông qua trình tự, thủ tục đăng ký xác lập quyền.

Bốn là, quyền tác giả không được bảo hộ một cách tuyệt đối. Đối với tác phẩm đã được bảo hộ, pháp luật sở hữu trí tuệ cho phép cá nhân, tổ chức sử dụng tác phẩm mà không cần phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả trong một số trường hợp cụ thể với điều kiện việc sử dụng đó không nhằm mục đích kinh doanh và không gây phương hại đến quyền tác giả.

Thứ ba, về đối tượng quyền tác giả. Pháp luật sở hữu trí tuệ đã ghi nhận cụ thể về đối tượng được bảo hộ quyền tác giả tại khoản 1, Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 bao gồm ba đối tượng chính được bảo hộ quyền tác giả là tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học. Trong đó, lại được phân ra thành nhiều loại hình tác phẩm cụ thể khác nhau và tác phẩm âm nhạc chính là một trong những loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả tại điểm d, khoản 1, Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019.

Theo quy định tại Điều 10 Nghị định 22/2018/NĐ-CP tác phẩm âm nhạc được hiểu là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nốt nhạc trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có lời hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn. Theo đó, tác phẩm âm nhạc được bảo hộ quyền tác giả dưới hai hình thức: Một là, thể hiện dưới dạng các nốt nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác. Hai là tác phẩm âm nhạc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có lời hoặc không có lời. Từ thời điểm định hình, tác phẩm âm nhạc đã được bảo hộ mà không cần phải thông qua việc trình diễn.

Thứ tư, môi trường kỹ thuật số theo nghĩa phổ quát nhất là chỉ tất cả các tổ hợp các yếu tố bên ngoài, bao trùm một hệ thống kiểu tín hiệu và định dạng dữ liệu dựa trên thuật số, ở dạng nhị phân với đơn vị là các bit, dùng hai ký tự để biểu đạt một giá trị số “0” và “1”, trên cơ sở tổng các lỹ thừa của 2, để định dạng các kiểu tín hiệu và dữ liệu được mô tả bằng các bit. Chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng và tình trạng của nó.[1]

Hiện nay, kỹ thuật số đã trở nên phổ biến và được ứng dụng vào tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đặc biệt trong bối cảnh kỷ nguyên số 4.0 với tác động mạnh mẽ của khoa học, công nghệ với khả năng sẽ làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau.[2] Đây chính là thời kỳ mà khả năng khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên vô hình (tri thức) được đánh giá là năng lực quan trọng nhất có tính quyết định đến sức mạnh của quốc gia.

Thứ năm, về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số. Việc khai thác, sử dụng phải luôn gắn liền với việc bảo hộ. Đặc biệt đối với vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số hiện nay đang rất cần có sự bảo hộ tương xứng và có hiệu quả.

Tiếp cận từ góc độ khoa học có thể đưa ra một cách hiểu về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số là việc Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc xác lập, công nhận và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm âm nhạc do họ sáng tạo ra trên môi trường kỹ thuật số. Trong đó, bao gồm các nội dung về xác lập, công nhận quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc, quản lý, sử dụng, khai thác quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc và bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc chống lại các hành vi xâm phạm trên môi trường kỹ thuật số.

1.2. Một số điều ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số

Thứ nhất, Công ước BERNE về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật

Công ước Berne là Điều ước quốc tế đa phương đầu tiên trong lĩnh vực quyền tác giả được ký ngày 09/09/1886 tại thủ đô Berne của Thụy Sỹ. Công ước được nhiều lần sửa đổi cho phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ trong lĩnh vực này. Đạo luật hiện hành là Đạo luật Paris ngày 24/07/1971 được bổ sung ngày 02/10/1979. Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Công ước Berne từ ngày 26/10/2004. Theo Công ước Berne, quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc là tự động, không cần phải đăng ký, không cần phải viết trong thông báo tác quyền. Công ước Berne cho phép tác giả được hưởng tác quyền suốt đời cộng thêm tối thiểu 50 năm sau đó.

Công ước Berne bảo hộ các loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học trong đó bao gồm tác phẩm âm nhạc kể cả trong môi trường kỹ thuật số với những nguyên tắc cơ bản:

– Nguyên tắc đối xử quốc gia là nguyên tắc bảo hộ tác phẩm có nguồn gốc từ quốc gia thành viên của Công ước tương tự như sự bảo hộ tác phẩm của công dân chính quốc gia mình.

– Nguyên tắc bảo hộ tự động là sự bảo hộ không phụ thuộc vào bất kỳ hình thức, thủ tục nào, đã đăng ký hay chưa đăng ký quyền tác giả.

– Nguyên tắc bảo hộ độc lập là việc hưởng và thực hiện các quyền được độc lập với việc bảo hộ hiện có tại nước xuất xứ của tác phẩm.

Công ước Berne được quản lý bởi Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization, viết tắt là WIPO) từ năm 1967. Gần như tất cả các quốc gia thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tuân thủ hầu hết các điều khoản của công ước này.

Thứ hai, Hiệp định TRIPs (Hiệp định về các khía cạnh liện quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ)

Hiệp định TRIPs được thông qua ngày 15/04/1994 tại Marrakech là hiện thân của các kết quả của vòng đàm phán Uruguay trong khuôn khổ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), trong đó đề cập đến những khía cạnh quyền SHTT liên quan đến thương mại (gọi tắt là Hiệp định TRIPs). Hiệp định TRIPs là những đạo luật liên quan giữa Berne và WTO.

Hiệp định TRIPs đề cập đến những vấn đề khác nhau, trong đó có quyền tác giả bao hàm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc kể cả trong môi trường kỹ thuật số. Theo đó, Hiệp định TRIPs khẳng định phạm vi bảo hộ quyền tác giả bao gồm sự thể hiện, và không bao gồm các ý đồ, trình tự, phương pháp tính hoặc các khái niệm toán học[3]. Tương tự như Công ước Berne, sự bảo hộ mà Hiệp định TRIPs nhằm hướng tới chỉ là sự sáng tạo ở hình thức thể hiện, chứ không phải ở bản thân ý tưởng. Một ý tưởng giống nhau nhưng được thể hiện bằng những cách khác nhau hoàn toàn có thể làm phát sinh quyền tác giả[4].

Trở thành thành viên của WTO, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs) của WTO ngay sau khi gia nhập.

Thứ ba, Hiệp ước WIPO về quyền tác giả (WIPO Copyright Treaty – WCT)

Hiệp ước WIPO về quyền tác giả và quyền kề cận thông qua ngày 20/12/1996 tại Geneva có hiệu lực từ ngày 06/03/2002. Hiệp ước gồm 25 điều, đến tháng 03/2010 có 88 quốc gia tham gia và Việt Nam chưa tham gia Hiệp ước này. Trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm tác phẩm âm nhạc, hiệp ước WIPO lưu ý hai vấn đề: Không phân biệt cách thức và hình thức thể hiện chúng và phạm vi bảo hộ quyền tác giả được dành cho tác phẩm đã dược thể hiện chứ không dành cho bản thân ý tưởng, thủ tục, phương thức hoạt động hoặc các khái niệm toán học (Điều 2). Điều này hoàn toàn phù hợp với các quy định của Công ước Berne và Hiệp định TRIPs.

Hiệp ước WIPO còn đề cập đến một số quyền như quyền phân phối, quyền cho thuê, quyền truyền đạt tới công chúng là quyền “cho phép truyền đạt tới công chúng tác phẩm của họ, bằng vô tuyến hay hữu tuyến, kể cả việc đưa tác phẩm của họ tới công chúng theo cách thức mà những thành viên trong xã hội có thể tiếp cận các tác phẩm đó tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn”(Điều 8).

  1. Thực trạng của vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số

2.1. Thực trạng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số

Bên cạnh các quy định pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trong pháp luật sở hữu trí tuệ, hiện nay đã có thêm các quy định khá đầy đủ tại các văn bản quy định pháp luật chuyên ngành thông tin và truyền thông mới ra đời đã giúp hoạt động bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trên môi trường kỹ thuật số được phát triển và dễ dàng áp dụng hơn:

Tại khoản 16, Điều 2 Nghị định số 132/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông phải phối hợp và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.

Tại khoản 3, Điều 6 Luật công nghệ thông tin năm 2006 đã quy định cấm việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động công nghệ thông tin.

Tại Điều 24 Nghị định 72/2013/NĐ-CP có quy định về nghĩa vụ phải thực hiện đúng quy định pháp luật sở hữu trí tuệ liên quan đến việc cung cấp và sử dụng thông tin của tổ chức, doanh nghiệp thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp.

Hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền tác giả được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả và ngày càng trở lên phổ biến hơn. Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Từ năm 2006 đến hết năm 2015 Cục bản quyền tác giả đã cấp 43.321 Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, tốc độ tăng tưởng hàng năm đạt khoảng 6%.[5] Trong đó, năm 2015 đã cấp 5.608 giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, năm 2016 đã cấp 7.128 Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan.[6] Năm 2017 đã cấp 6.606 giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả[7], đến 6 tháng đầu năm 2019 đã cấp 3.410 giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, tăng 18.4% so với cùng kỳ năm 2018.[8] Hoạt động đăng ký quyền tác giả ngày càng trở lên phổ biến sẽ giúp cho các tác giả có thể dễ dàng trong việc chứng quyền tác giả khi yêu cầu xử lý các hành vi xâm phạm quyền.

Hiện nay, nước ta đã có một tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc đó là Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (VCPMC). Hoạt động bảo hộ của tổ chức ngày càng hiệu quả khi năm 2018, Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam đã kiểm tra và phát hiện hành vi xâm phạm quyền, thu thập tài liệu và chứng cứ vi phạm, lập vi bằng, gửi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu xử lý xâm phạm quyền tác giả ở nhiều lĩnh vực đến các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, tung tâm đã gửi cảnh báo, báo cáo vi phạm về quyền tác giả với với nhiều website, ứng dụng (app) nhạc, các bản ghi (link) vi phạm quyền tác giả. Năm 2019, đã có trên 2.000 link vi phạm bị tháo dỡ.[9] Một trong các vụ việc tiêu biểu là vi phạm của Công ty Cổ phần Sky Music đã vi phạm quyền tác giả trên 90% tác phẩm của gần 700 tác giả âm nhạc trong nước, quốc tế do Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam bảo hộ. Trước diễn biến phức tạp về lĩnh vực này, Hội nghị Ban Chấp hành Hội nhạc sỹ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 03/NQ-HNS về việc bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam của Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam. Bên cạnh đó, trong năm 2019 trung tâm đã thu được 133.574.344.418 đồng tiền sử dụng quyền tác giả âm nhạc, đã chi trả cho các tác giả số tiền 68.345.692.878 đồng, số lượng hội viên trung tâm đã đạt 4.259 tác giả tham gia.[10]

Vấn đề phổ biến pháp luật về quyền tác giả được thực hiện có hiệu quả và ý thức của người dân ngày càng được nâng cao. Trung tâm bảo hộ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam đã có sự phối hợp với các Sở ban ngành thực hiện việc tuyên truyền pháp luật về quyền tác giả đến các quận, huyện, thị xã, thành phố, phối hợp tuyên truyền quy định về quyền tác giả đến các tác giả, hội viên do Hội Nhạc sỹ, Hội Âm nhạc, Hội Văn học Nghệ thuật tổ chức. Hiểu biết về pháp luật nhiều hơn, ý thức người dân trong việc sử dụng tác phẩm âm nhạc trên môi trường internet cũng ngày càng được nâng cao. Người dân tự phát hiện ra hành vi sai phạm, lan truyền và báo cáo, người dùng tự giác trích dẫn nguồn và thông tin tác giả một cách đầy đủ…

Những người quản lý các trang mạng cũng ngày càng nâng cao trách nhiệm trong bảo vệ quyền tác giả tác phẩm âm nhạc trên mạng internet. Những trang mạng cũng đã lần lượt có các chức năng thông báo về bảo vệ quyền tác giả, có các chức năng tố cáo hành vi xâm phạm khi người dùng phát hiện có sự xâm phạm quyền tác giả. Điển hình có thể kể đến các trang mạng xã hội hàng đầu như: Youtobe, Facebook,…

2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân

Một là, Về mặt pháp luật

Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa hoàn thiện và tham gia các điều ước quốc tế còn hạn chế.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có hệ thống những quy định thể hiện rõ quan điểm bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số trong đó bao gồm cả tác phẩm âm nhạc. Các hiện tượng vi phạm xảy ra càng tăng lên bởi một phần hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có quy chuẩn xác định về vi phạm trong lĩnh vực này. Hiện tượng “cover nhạc” có phải là “đạo nhạc” hay không vẫn không có điều luật giải thích, thống nhất về các định nghĩa trên. Trên các trang mạng xã hội như Facebook, Youtobe, Tiktok,… mỗi ngày xuất hiện hàng nghìn lượt thu âm các bài hát từ giới trẻ và được đăng tải khá phổ biến nhưng không thể xác định được liệu đó có phải hành vi vi phạm bản quyền tác giả hay không. Đồng thời, các quy định về biện pháp bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc vẫn chưa thực sự phù hợp với môi trường kỹ thuật số như:

  • Các biện pháp khẩn cấp tạm thời hiện nay như thu giữ, kê biên, niêm phong, cấm thay đổi hiện trạng, cấm di chuyển, cấm chuyển dịch quyền sở hữu… chỉ phù hợp với thế giới vật chất. Trong môi trường kỹ thuật số, các hành vi xâm phạm chủ yếu diễn ra trên mạng internet và sao lưu, phát tán đĩa CD, mà các biện pháp khẩn cấp tạm thời rất khó có thể áp dụng được.
  • Các hành vi xâm phạm quyền tác giả bị xử lý hình sự chỉ bao gồm hành vi sao chép tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình hoặc phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, ghi hình mà không có sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Còn các hành vi xâm phạm như cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật, thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử vẫn chưa được quy định.
  • Mức xử phạt hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền tác giả trên môi trường internet vẫn chưa cao, không tương xứng với các khoản lợi bất chính thu được của người vi phạm. Cụ thể, trong Nghị định 131/2013/NĐ-CP đối với hành vi xâm phạm sự toàn vẹn của tác phẩm chỉ bị phạt từ 3.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, xâm phạm quyền phân phối tác phẩm chỉ bị xử phạt từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng, xâm phạm quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng chỉ bị phạt từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng…

Mặt khác, hiện nay khi các Điều ước quốc tế có các quy định quan trọng trong lĩnh vực quyền tác giả, liên quan đến bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số như Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả,… thì Việt Nam lại chưa phải là thành viên của Hiệp ước này.

Thứ hai, xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc và xác định các chế tài áp dụng.

Hiện nay, các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc được quy định tại Điều 28 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019. Tuy nhiên, điều luật này chỉ mang tính liệt kê các hành vi vi phạm quyền tác giả, dẫn đến việc quy định thiếu, quy định một cách chung chung rất khó để áp dụng khi có một hành vi vi phạm xảy ra trong môi trường kỹ thuật số. Hơn nữa, việc xác định chủ thể vi phạm lại càng khó khăn hơn khi trên môi trường internet rộng lớn, xác định cụ thể ai là người trực tiếp sao chép, phân phối, chủ sở hữu các trang web xâm phạm… Từ đó, khó khăn trong việc xác định hậu quả của hành vi xâm phạm, cũng như tìm ra cách thức phù hợp để ngăn chặn hành vi xâm phạm ấy.

Thứ ba, bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong  môi trường kỹ thuật số.

Việc xác định thiệt hại thực tế trong mọi lĩnh vực cũng như trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói riêng luôn là vấn đề gặp nhiều khó khăn trên thực tế. Rất khó để kiểm soát được số lượng người truy cập trong trường hợp tác phẩm được sao chép trái phép từ một trang web (website) nào, sau đó được các cá nhân khác tiếp tục chia sẻ lên các trang mạng xã hội hay các website khác. Ngoài ra, cơ sở để đánh giá về mức giảm sút thu nhập, lợi nhuận đối với chủ sở hữu tác phẩm âm nhạc cũng đặc biệt khó khăn. Vì việc sử dụng tác phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, tâm lý của công chúng, khả năng thẩm thấu nghệ thuật,…

Thứ tư, xác định Tòa án có thẩm quyền.

Hiện nay, tại nhiều quốc gia, tòa án không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả trong môi trường Internet, nếu chủ sở hữu website đạt tại nước ngoài và không có chi nhánh, văn phòng đại diện hay tài sản ở quốc gia sở tại. Chính vì thế, khi chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc khởi kiện phải khởi kiện tại tòa án nước ngoài.

Hai là, Về mặt thực tiễn

Thứ nhất, từ phía cơ quan quản lý quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trên môi trường internet.

Lực lượng thanh tra mỏng, công tác thanh tra, kiểm tra chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, mới chỉ dường lại ở bước xử lý sự vụ, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý.[11] Cơ quan quản lý chưa thống nhất trong việc quản lý quyền tác giả trên môi trường internet khi bị phân tán thành hai Bộ là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Thông tin và Truyền thông dẫn đến sự phối hợp trong quản lý còn chưa cao.

Thứ hai, từ phía tác giả.

Hiện nay, các tác giả vẫn chưa thực sự hiểu biết cụ thể về các biện pháp bảo hộ cũng như không quyết tâm ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trên môi trường internet, thậm chí một bộ phận các tác giả cũng mong muốn tác phẩm âm nhạc của mình bị sao chép, phân phối tác phẩm để nhanh chóng được nổi tiếng, một bộ phận các tác giả lại tự cho rằng mình không đủ sức để tự mình thực hiện việc bảo hộ quyền tác giả trên môi trường internet rộng lớn. Không chỉ thế, khi xảy ra hành vi xâm phạm, tác giả còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc chứng minh quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trên internet. Trong khi các đối tượng vi phạm quyền tác giả lại bất chấp pháp luật, đạo đức xâm hại nghiêm trọng đến quyền tác giả của tác phẩm âm nhạc.

Thứ ba, từ phía người quản lý các trang web.

Người cung cấp dịch vụ trên internet không phải hoạt động đều hiệu quả, chính hoạt động chưa có lãi khiến họ phải tìm cách bù đắp chi phí trong đó có việc trốn tránh nghĩa vụ trả phí bản quyền cho chủ sở hữu lại là một trong những cách thức hạn chế tối đa chi phí. Không chỉ thế, các nguồn cung cấp dịch vụ nghe nhạc miễn phí trên internet hiện nay rất nhiều như Zing MP3, nhaccuatui, Nhac.vn, Keeng… Nhưng lại chưa hề có cơ chế kiểm soát, việc người dùng vào nghe, chia sẻ và tải về sử dụng rất dễ dàng dẫn đến đặt ra một vấn đề đó là trách nhiệm từ phía người quản lý các website này khi có các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc xảy ra.

Thứ tư, từ phía người sử dụng.

Hiện nay, pháp luật về sở hữu trí tuệ đã được phổ biến rộng rãi hơn so với trước đây, nhưng phần lớn người tham gia sử dụng internet lại có kiến thức pháp luật rất hạn chế, eo hẹp về lĩnh vực này. Xuất phát từ việc không được tuyên truyền đúng đắn, cũng như chưa có biện pháp xử lý răn đe về các hành vi vi phạm nên nhận thức và ý thức của người sử dụng internet về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc rất thấp. Người dùng vẫn nghĩ mình chỉ cần nêu tên tác giả khi sử dụng hoặc sử dụng không nhằm mục đích thương mại là sẽ không xâm phạm quyền tác giả và khi tác giả lên tiếng, mặc nhiên những người đăng tải cho rằng điều đó là việc làm không trái quy định pháp luật.

Người dùng vẫn còn tâm lý sử dụng miễn phí chứ không có thói quen trả tiền khi sử dụng các tác phẩm âm nhạc. Mỗi người sử dụng internet bằng một click chuột, chúng ta dễ dàng tải xuống những bản nhạc, video, các bản ghi âm ghi hình của các nghệ sĩ nổi tiếng bởi các website không có bản quyền mà không cần phải trả phí cho một lần tải. Điều đó hình thành nhận thức chung, hình thành thói quen sử dụng và nó trở thành tâm lý khó bỏ của người sử dụng internet.

  1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số

Việc còn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế trong bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số đang là điều rất đáng quan tâm không chỉ riêng đối với các nhà làm luật hay các tác giả mà cả toàn xã hội. Để hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung và vấn đề bảo hộ quyền tác giả của tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số nói riêng, cần phải thực hiện các vấn đề sau:

Thứ nhất, pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số cần phải được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế nước ta hiện nay trên hai khía cạnh quyền tác giả và môi trường kỹ thuật số. Đồng thời, rà soát lại các quy định có liên quan và hướng dẫn thi hành cụ thể, chi tiết về lĩnh vực này.

Thứ hai, với thực trạng xâm phạm bản quyền trong môi trường kỹ thuật số ở nước ta hiện nay và học hỏi kinh nghiệm của pháp luật quốc tế trong việc giải quyết vấn đề này để đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế triệt để các hành vi vi phạm trên thực tế ở nước ta, cụ thể:

Về biện pháp hình sự: Cần phải bổ sung vào pháp luật hình sự những điều khoản quy định các hành vi xâm phạm quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số bao gồm cả tác phẩm âm nhạc như cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện, cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử, sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê các thiết bị làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật và đặt ra các chế tài tương ứng đối với mỗi hành vi vi phạm này bằng các mức phạt nghiêm khắc nhằm mang tính răn đe.

Về biện pháp dân sự: Cần phải quy định đầy đủ hơn các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể áp dụng trong môi trường kỹ thuật số, có thể đặt ra yêu cầu bồi thường thiệt hại tương ứng với thiệt hại thực tế xảy ra. Cần có văn bản hướng dẫn chi tiết trong việc quy định trách nhiệm của các nhà cung ứng dịch vụ internet, từ đó tạo điều kiện dễ dàng cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm cơ sở để xử lý vi phạm.

Về biện pháp hành chính: Cần phải có những mức xử phạt hành chính phù hợp với khoản lợi bất chính mà tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền thu về để tăng sức răn đe đối với các hành vi xâm phạm.

Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm những đối tượng có hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc. Tiếp tục tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực trình độ chuyên môn trong việc thực thi các biện pháp bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Thứ tư, nâng cao ý thức tự bảo vệ của chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm của mình. Mỗi tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả phải có các giải pháp kỹ thuật để tự bảo vệ quyền của mình, phối hợp, hỗ trợ các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cùng đấu tranh chống lại các hành vi xâm phạm cũng có thể ủy quyền cho Trung tâm Bảo vệ Quyền tác giả Âm nhạc Việt Nam (VCPMC) thay thế mình thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền, đồng thời kịp thời xử lý các hành vi xâm phạm bởi tính chất lan truyền với tốc độ nhanh chóng trong môi trường kỹ thuật số như hiện nay.

Thứ năm, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cá nhân, doanh nghiệp về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường internet, cũng như nâng cao ý thức của người sử dụng internet hiện nay.

Thứ sáu, đẩy mạnh hợp tác Quốc tế trong việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số và tăng cường tham gia các Điều ước quốc tế trong lĩnh vực này.

KẾT LUẬN

Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số ở Việt Nam vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ. Qua đó có thể thấy rằng, để đem lại hiệu quả trong việc bảo hộ quyền tác giả thì vấn đề cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và người sử dụng tác phẩm được đặt lên hàng đầu. Pháp luật cần phải có cơ chế bảo hộ thích hợp để một mặt khuyến khích tác giả trong các sáng tạo của mình, mặt khác tạo điều kiện cho người sử dụng tiếp cận tác phẩm một cách hợp pháp góp phần xây dựng một xã hội ổn định, văn hóa.

Với những nội dung trên, nhóm tác giả hi vọng đề tài “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số” sẽ góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về bảo hộ quyền tác giả nói chung và bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

Bài trao đổi của sinh viên Nguyễn Thị Huệ & Nguyễn Đức Thịnh – Đại học Luật Huế tại

Hội thảo Khoa học Sinh viên “Sinh viên với pháp luật dân sự trong bối cảnh kỷ nguyên số 4.0″

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

[1] Nguyễn Thị Quế Anh, “Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013.

[2] Klaus Schwab (2016), “The fourth industrial revolution”.

[3] Điều 9.2 Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) 1995.

[4] Giáo trình Pháp luật sở hữu trí tuệ, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2019, trang 425.

[5] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Báo cáo số 184/BC-BVHTTDL về Tổng kết mười năm thi hành Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan, Hà Nội, 2016.

[6] Thống kê Chi tiêu số liệu cơ bản ngành văn hóa, thể thao và du lịch của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch năm 2015 và năm 2016.

[7] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thông tin thống kê bản quyền tác giả trong năm 2017, đăng 06/02/2018, https://bvhttdl.gov.vn/ban-quyen-tac-gia-620490.htm

[8] Theo bài viết “6 tháng đầu năm, cấp hơn 3.140 giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả”, đăng 11/07/2019, https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/6-thang-dau-nam-cap-hon-3410-giay-chung-nhan-dang-ky-quyen-tac-gia-528157.html

[9] Thông tấn xã Việt Nam, “Đã có trên 2.000 link vi phạm bản quyền tác giả âm nhạc bị tháo dỡ”, http://m.tinnhanhchungkhoan.vn/da-co-tren-2-000-link-vi-pham-quyen-tac-gia-am-nhac-bi-thao-go-post202815.html, đăng ngày 19/12/2018.

[10] Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2019 trung tâm bảo hộ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, Hà Nội, 08/01/2020.

[11] Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông, https://www.mic.gov.vn/Upload/TinTuc/Chuyen_muc_Tieng_Viet/Thanh_tra___Kiem_tra/baochi-07112016.doc, 07/11/2016.