Các ứng dụng công nghệ trong du lịch trên thế giới

A – LỜI MỞ ĐẦUDu lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân loại. Du lịch ngày càng đa dạng, phong phú và đòi hỏi được thoả mãn ở mức độ cao hơn trước rất nhiều. Đây là một “ngành công nghiệp không khói” đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ, là “con gà đẻ trứng vàng” cho bất cứ quốc gia nào có được nền du lịch phát triển. Ngành du lịch đã, đang và sẽ đem lạ những nguồn thu khổng lồ cho ngân sách quốc gia, nguồn thu này chiếm tỉ trọng không nhỏ trong việc đóng góp vào GNP cho nước nhà. Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng về du lịch rất lớn. Nhận định được điều đó và cơ hội có thể phát triển được du lịch ở Việt Nam, chính phủ Việt Nam coi ngành du lịch là một ngành kinh tế quan trọng cần được quan tâm hàng đầu. Vào nửa cuối của thập niên 90 cùng với sự thay đổi cơ cấu nền kinh tế (chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường nhiều thành phần), hàng loạt chính sách mở cửa được áp dụng thì ngành du lịch Việt Nam cũng thực sự bắt đầu chuyển mình. Thêm vào đó lại được chính phủ ưu tiên bằng những chính sách quan trọng như là ban bố những điều khoản nhằm tạo điều kiện cho du lịch phát triển. Ngoài ra, công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển ngành du lịch nước nhà. Đứng trước sự phát triển đến chóng mặt của các nước tiên tiến trên thế giới, ngành du lịch Việt Nam phải làm gì để theo kịp thời đại. Với đề tài nghiên cứu: “ Sự phát triển của công nghệ và ứng dụng trong kinh doanh du lịch.” Nhóm chúng tôi sẽ cung cấp đến cho các bạn những thông tin tổng hợp nhất về những vấn đề liên quan đến công nghệ, thực trạng ứng dụng công nghệ trong kinh doanh du lịch ở Việt Nam hiện nay và xin đề suất ra một số giải pháp nâng cao ứng dụng công nghệ trong kinh doanh du lịch trong thời gian tới.1B – NỘI DUNG CHÍNHChương 1: Một số vấn đề liên quan đến công nghệ1.1 – Khái niệm công nghệCũng như một số vấn đề khác liên quan đến hiện thực của đời sống xã hội, khó có một cách trả lời nào bao hàm đầy đủ và chính xác về thuật ngữ công nghệ. Phụ thuộc vào quan điểm, mức độ quan tâm người ta có những cách giải đáp khác nhau. Xuất phát từ một số tài liệu khoa học chúng tôi xin đưa ra một số khái niệm về công nghệ.- Công nghệ theo nghĩa chung nhất có thể coi là tập hợp tất cả những hiểu biết của con người vào việc biến đổi cải tạo thế giới nhằm đáp ưng nhu cầu của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội. Công nghệ trong sản xuất là một tập hợp các phương tiện vật chất, các phương pháp, các quy tắc, các kỹ năng được con người sử dụng đẻ tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra một sản phẩm nào đó cần thiết cho xã hội.- Công nghệ được coi như là một bộ môn khoa học ứng dụng, triển khai (trong tương quan với khoa học cơ bản ) trong việc vận dụng các quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tiinh thần ngày càng cao của con người- Công nghệ được hiểu là các phương tiện vật chất ,kỹ thuật hay đó là sự thể hiện cụ thể của tri thức khoa học đã được vật thể hóa thành các công cụ, các phương tiện kỹ thuật cần cho sản xuất và đời sống.- Công nghệ bao gồm các thách thức, các phương pháp, các thủ thuật, các kỹ năng có được dựa trên cơ sở tri thức khoa học và được sử dụng vào sản xuất trong tất cả các ngành sản xuất khác nhau để tạo ra sản phẩm. 1.2 – Các thành phần cơ bản của công nghệ- Trang thiết bị máy móc,cơ sở hạ tầng như nhà xưởng, công cụ đường xá, điện nước, xe cộ, kho tàng…2- Thành phần con người với lao động cơ bắp và lao động trí tuệ bao gồm các kỹ năng, kỹ xảo, tay nghề, năng lực sáng tạo trong tiếp thu và vận dụng kỹ thuật mới, kinh nghiệm nghề nghiệp.- Thành phần thông tin có liên quan đến việc nắm bắt nhanh nhạy, chính xác các bí quyết thành công, các bí mật của công nghệ như các quy trình, các phương pháp, các thiết bị, dữ liệu mới nhất- Thành phần tổ chức thể hiện ở cách bài bố sắp xếp, điều hành, quản lý, tiếp thị, biết sử dụng chính xác phù hợp con người... Các lĩnh vực công nghệ chínhCác lĩnh vực công nghệ chính Khoa học ứng dụngKhảo cổ học · Trí thông minh nhân tạo · Kỹ thuật gốm · Công nghệ máy tính · Điện tử · Năng lượng · Dự trữ năng lượng · Vật lý kỹ thuật · Khoa học kỹ thuật môi trường · Công nghệ môi trường · Khoa học Fisheries · Khoa học vật liệu · Công nghệ micro · Công nghệ nano · Công nghệ hạt nhân · Kỹ thuật quang học · Vật lý hạt · Động vật học Thông tinCông nghệ thông tin · Đồ họa · Công nghệ truyền thông · Nhận dạng giọng nói · Công nghệ nghe nhìn · Phân loại học · Thông tin Công nghiệpXây dựng · Financial engineering · Đánh cá · Công nghệ công nghiệp · Sản xuất · Chế tạo máy · Khai khoáng · Thông tin kinh doanh3 Quân sựĐạn dược · Bom · Kỹ thuật đánh trận · Kỹ thuật quân sự · Công nghệ và thiết bị quân sự · Kỹ thuật thủy quân Dân dụngCông nghệ giáo dục · Dụng cụ gia đình · Công nghệ dân dụng · Công nghệ thực phẩm Kỹ thuậtHàng không · Nông nghiệp · Kiến trúc · Audio · Tự động · Sinh họcl · Sinh hóa · Y sinh · Công nghệ sinh học · Truyền thanh · Tòa nhà văn phòng · Gốm · Hóa học · Xây dựng dân dụng · Máy tính · Xây dựng · Điều khiển · Cryogenic · Điện · Điện tử · Công nghệ kỹ thuật · Kỹ thuật sách tạo · Môi trường · Thực phẩm · Gen · Thủy lực · Công nghiệp · Vật liệu · Cơ khí · Cơ điện · Luyện kim · Khai thác mỏ · Công trình biển · Hệ thống · Hạt nhân · Biển · Ontology · Quang học · Dầu khí · Sóng Radio · Phần mềm · Kết cấu · Mạng lưới · Kỹ thuật viên · May mặc · Mô · Giao thông Y tế An toàn lao độngY sinh học · Tin sinh học · Công nghệ sinh học · Thông tin hóa học · Kỹ thuật phòng cháy · Y tế Công nghệ · Công nghệ dược · Dinh dưỡng · Dược phẩm · Kỹ thuật an toàn · Kỹ thật vệ sinh Vận tảiHàng không · Kỹ thuật hàng không · Kỹ thuật tự động · Kỹ thuật biển · Motor vehicle · Công nghệ vũ trụ1.3 - Các giai đoạn phát triển của công nghệ4- Ở giai đoạn phát triển đẩu tiên (giai đoạn săn bắn và hái lượm ): Đã có hai thành phần đầu tiên của công nghệ: trang thiết bị - công cụ và con người. Con người là kẻ sáng tạo ra công cụ sản xuất vật chất từ những chất liệu có sẵn trong tự nhiên và cũng là kẻ trực tiếp sử dụng công cụ. Năng lượng cơ bắp của con người trong giai đoạn này được khai thác triệt để- Giai đoạn thứ hai: gắn liền với việc sử dụng rộng rãi công nghệ cơ khí thủ công như cày, bừa, cuốc, xẻng, búa, rìu… Tiến bộ kỹ thuật nổi bật trong giai đoạn này là lĩnh vực động lực: phát triển cối xay nước, cối xay gió, sử dụng sức kéo gia súc, kỹ thuật thủy lợi kỹ thuật sợi, dệt, hàng hải nhờ hệ thống cơ khí thủ công này mà nông nghiệp đã phát triển mạnh: chăn nuôi, trồng trọt, một số ngành thủ công như dệt, đồ gốm, đúc đồng, các ngành hàng hải, thương mại …phát triển mạnh, thị trường bắt đầu hình thành, điển hình là con đường tơ lụa Đông - Tây xuyên qua Tây Tạng, các nhà thám hiểm tìm ra các châu lục mới. Năng lượng chủ yếu mà công nghệ trong giai đoạn này khai thác và sử dụng là năng lượng cơ bắp của con người, sức kéo của gia súc, sức nước, sức gió và đặc biệt là đất đai. Trong sự phát triển của công nghệ trong giai đoạn này đã có sự tham gia của thành phần kỹ thuật – trang thiết bị máy móc (giữ vai trò cốt lõi ), thành phần con người và thành phần thông tin (mới ở trình độ tiêng nói và chữ viết nên còn rất hạn chế ). Thành phần công nghệ cũng đã có nhưng chưa rõ ràng. Đó là một đặc trưng cơ bản của nền sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn văn minh nông nghiệp.- Giai đoạn thứ ba và tứ tư: được bắt đầu từ sự ra đời của động cơ máy hơi nước (cuối thế kỷ XVIII). Đây là giai đoạn thông trị của công nghệ cơ khí máy móc với các nấc thang phát triển cao dần của trình độ công nghệ như cơ khí hóa, điện khí hóa, hóa học hóa, tự động hóa ở trình độ thấp. Nguồn năng lượng chính của sự biến đổi công nghệ trong giai đoạn này chủ yếu là các nguồn tài nguyên thiên nhiên như các loại khoáng sản dầu mỏ, than đá, khí thiên nhiên… Phải qua các quá trình khai thác, chế biến, chế tạo mới sử dụng được. Sự phát triển công nghệ ở giai đoạn này đã 5có mặt đầy đủ bốn thành phần cơ bản: trang thiết bị kỹ thuật, con người, thông tin và tổ chức quản lý.- Giai đoạn thứ năm của sự phát triển công nghệ: được bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX với sự ra đời cuả máy tính điện tử thế hệ mới, máy vi tinh, máy siêu vi tính, và trên cái nền công nghệ đó đã hình thành nên hệ thống công nghệ tự động hóa mới, các công nghệ sinh học, vật liệu mới, vũ trụ, năng lượng… Hệ thống công nghệ thứ năm đã chuyển hướng khai thác năng lượng chủ yếu từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên sang khai thác nguồn năng lượng của chính bản thân con người - trí năng. Trí tuệ của con người giữ vai trò chủ đạo trong nền công nghệ mới này, hay có thể gọi là nền công nghệ trí tuệ hay công nghệ tri thức. Ngày nay cuộc cách mạng thông tin và cách mạng công nghệ đang thâm nhập và hòa quyện với nhau làm một mà đỉnh cao của nó là mạng Internet. 1.4 - Những tác động cuả công nghệ a.Tích cựcTrong ba thế kỷ qua, các dịch chuyển về chất trong sự phát triển của khoa học và công nghệ (KH&CN) đã đưa nền văn minh nhân loại quá độ sang Kỷ nguyên trí tuệ với cốt lõi là nền kinh tế tri thức. Các dịch chuyển này là kết quả của quá trình tích luỹ lâu dài các kiến thức khoa học, của việc tăng quy mô sử dụng kỹ thuật mới và đổi mới công nghệ sản xuất. Trong đó, sự phát triển có tính tiến hoá và các dịch chuyển về chất có tính cách mạng đã cùng tạo điều kiện cho nhau phát triển. Biến đổi tận gốc lực lượng sản xuất của xã hội hiện đại và được thực hiện với vai trò dẫn đường của khoa học trong toàn bộ chu trình: "Khoa học - Công nghệ - Sản xuất - Con người - Môi trường", cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đang tiếp tục diễn ra trong thế kỷ XXI với tốc độ ngày càng cao và với một số đặc điểm lớn sau:* Một là, sự vượt lên trước của khoa học so với kỹ thuật và công nghệ trong quá trình diễn ra đồng thời cuộc cách mạng khoa học và cách mạng công nghệ, đã tạo điều kiện đẩy nhanh tiến bộ công nghệ. Ngược lại, sự tiến bộ đó lại thúc đẩy 6khoa học phát triển nhanh hơn nữa và đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.* Hai là, các yếu tố riêng biệt của quá trình sản xuất được kết hợp hữu cơ với nhau và được kết nối thành một hệ thống liên kết mạng trên quy mô quốc gia và quốc tế (máy điều khiển + máy động lực + máy công cụ + máy vận chuyển + kết nối mạng và liên mạng), tạo điều kiện xuất hiện các hệ thống công nghệ mới về nguyên tắc (cách mạng công nghệ).* Ba là, hầu hết các chức năng lao động dần dần được thay thế từ thấp lên cao (từ lao động chân tay sang lao động trí tuệ) trong quá trình sản xuất dẫn đến sự thay đổi về căn bản vai trò của con người trong sản xuất, từ chỗ bị lệ thuộc và bị trói chặt (quan hệ một chiều) vào quá trình sản xuất tiến lên làm chủ và chi phối lại quá trình sản xuất (quan hệ hai chiều).* Bốn là, tạo một bước ngoặt trong toàn bộ hệ thống lực lượng sản xuất, nâng cao đáng kể năng suất và hiệu quả của nền sản xuất xã hội, cũng như tác động một cách sâu sắc và toàn diện tới các quan hệ kinh tế đối ngoại và mọi lĩnh vực đời sống xã hội khiến phân công lao động xã hội trong phạm vi quốc gia và quốc tế ngày càng mở rộng, quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ. Đây là giai đoạn phát triển tiến bộ của lao động được biến đổi về chất trên cơ sở những tư tưởng mới nhất của KH&CN cũng như quy luật của các hình thái vận động vật chất khác nhau vừa được phát hiệnNhư vậy, trong Thiên niên kỷ thứ ba, từ vị trí đi sau kinh nghiệm ở hai Thiên niên kỷ đầu, KH&CN đã trở thành động lực phát triển hàng đầu ở nhiều quốc gia trên thế giới. Sau khi đưa tư duy con người thâm nhập vào cấp độ thứ tư của vật chất - cấp dưới mức hạt cơ bản, khoa học đã trở thành lực lượng dẫn đường và là lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu hoá. Nền "Khoa học nhỏ" trên quy mô một nước và lục địa, xuất hiện vào nửa sau Thiên niên kỷ thứ hai, bước sang Thiên niên kỷ mới, đã trở thành nền "Khoa học lớn", phát triển cực kỳ mạnh mẽ và trên quy mô toàn cầu, với sự tham gia hợp tác của một đội ngũ đông đảo và hùng hậu của các cán 7bộ làm công tác nghiên cứu và phát triển, cũng như của các trung tâm nghiên cứu lớn, phòng thí nghiệm lớn, các nhà khoa học có uy tín của nhiều nước trên thế giới. Kể từ cuối thế kỷ XX, quá trình toàn cầu hoá KH&CN còn kéo theo sự thay đổi căn bản về phương thức tổ chức quản lý trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. Trên thực tế, cơ cấu tổ chức quản lý nền sản xuất xã hội từ cấu trúc hình tháp đã chuyển sang cấu trúc hình mạng. Điều đó đã tạo tiền đề chuyển giao nhanh chóng các kết quả nghiên cứu cơ bản vào phát triển công nghệ và hình thành nên các Hệ thống đổi mới công nghệ quốc gia và khu vực.Trong mọi lĩnh vực sản xuất xã hội, đều có thể quan sát thấy những sự luân phiên đặc sắc của các cuộc nhảy vọt và sự phát triển tuần tự trong nhiều lĩnh vực:- Trong ngành năng lượng - từ sử dụng năng lượng nước, cơ bắp, gió, sang than, điện, dầu lửa, rồi năng lượng nguyên tử và trong thế kỷ XXI sẽ là năng lượng nhiệt hạch...- Trong lĩnh vực sản xuất - từ hợp tác lao động giản đơn qua giai đoạn công trường thủ công, rồi tiến lên phương thức sản xuất đại cơ khí với các quy trình sản xuất và công nghệ được cơ giới hoá rồi cơ giới hoá tổng hợp, xuất hiện các hệ thống máy móc, tạo ra các máy tự động, tự động hoá đồng bộ,…- Trong giao thông vận tải - máy và động cơ hơi nước được thay thế bằng động cơ đốt trong và động cơ điêden, tuabin và động cơ phản lực, tàu con thoi,…- Trong sản xuất vật liệu - chuyển từ các nguyên liệu nông nghiệp, các vật liệu xây dựng truyền thống (gỗ, gạch, đá ...), sử dụng kim loại đen (sắt, gang ...) là chủ yếu sang sử dụng các kim loại màu, chất dẻo, bêtông, các vật liệu kết cấu (composite), vật liệu thông minh, vật liệu siêu dẫn,...- Trong công nghệ sản xuất, chế tạo - từ sản xuất thủ công, tiến lên nửa tự động rồi tới công nghệ tự động hoá (tự động hoá thiết kế - chế tạo nhờ sự trợ giúp của máy tính điện tử (CAD/CAM), công nghệ thông tin (tin học, truyền thông và viễn thông vũ trụ ...), công nghệ nano, công nghệ hạt nhân, công nghệ không gian, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ vi điện tử …8Thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của nền sản xuất xã hội, cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đã bảo đảm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng theo hai hướng chủ yếu:- Thay đổi chức năng và vị trí của con người trong sản xuất trên cơ sở dịch chuyển từ nền tảng điện - cơ khí sang nền tảng cơ - điện tử và cơ - vi điện tử; - Chuyển sang sản xuất trên cơ sở các ngành công nghệ cao có tính thân thiện với môi trường.Top 10 thành tựu công nghệ trong 30 năm qua 1. Phẫu thuật nội soiThập kỷ 80 đánh dấu nhiều thành tựu trong ngành giải phẫu. Phẫu thuật hạn chế can thiệp của dao hay kéo hay còn gọi là phẫu thuật nội soi ra đòi năm 1987. Robot phẫu thuật lần đàu tiên cũng được trình làng. Đầu những năm 80 các nhà khoa học tìm ra tia laser dùng để cắt các mô hữu cơ2. Phần mềm văn phòng Phần mềm văn phòng bao gồm chương trình xử lý văn bảng và bảng tính đã tạo ra những khuôn mẫu cho công việc văn phòng, nâng cao tính hiệu quả và khả năng xử lý cho người sử dụng. Phần mềm này ra đời trong những năm 1960 và 1970. Visicalc – chương trình bảng tính đầu tiên được sử dụng vào năm 1979. WordStar cũng xuất hiện năm 1979 và trở thành chương trình xử lý văn bản phổ biến nhất vào đầu thập kỷ 803. Sợi quang học Những nghiên cứu về sợi quang học đã được biết đến từ những năm 1800 nhưng phải đến thập kỷ 70 thì sợi quang mới đủ chất lượng để sử dụng trong các ứng dụng truyền thông.Sợi quang nhanh chóng trở thành vật liệu ưu tiên trong viễn thông và mạng truyền dẫn nhờ khả năng kéo dài ít cần sử dụng mối nối và tốc độ truyền tín hiệu lên đến trên 100 Gigabyte/giây.4. Bộ vi xử lý9Bộ vi xử lý đầu tiên được ứng dụng vào thập kỷ 70 cho máy tính toán. Đến cuối thập kỷ 70 bộ vi xử lý dẫn đường cho sự phát triển của máy vi tính cá nhân. Kể từ đó ,kích cỡ của bộ vi xử lý càng được thu nhỏ trong khi khă năng xử lý càng tăng,và thành tựu công nghệ đó làm thay đổi thế giới.5. Máy chụp cộng hưởng từ (MRI) Năm 1977, nguyên mẫu của máy chụp cộng hưởng từ lần đầu tiên thực hiện việc quét toàn cơ thể người. Tuy nhiên ,phải đến cuối những năm 1990 công nghệ MRI mới trở nên phổ biến, xuất hiện rộng rãi trong các bênh viện và phòng khám.6. Chuỗi AND/ Bản đồ gene ngườiCấu trúc AND được watson và Crick phát hiện ra năm 1953, nhưng phải đến cuối những năm 1970 các nhà khoa học mới tìm hiểu về chuỗi AND phân tử. Đến những năm 1990, chính phủ Mỹ đã lập ra bản đồ gene người. Nỗ lực trong suốt 13 năm sau đó đã được chứng minh bằng thành tựu tìm ra 20.000 - 25.000 gene. Vào năm 2003 chỗi ADN và bản đồ gene người hoàn thành. Kết quả này tạo ra tiến bộ vượt bậc trong nghiên cứu và điều trị các bệnh di truyền.`7. E-maiEmail được phát triển từ những tin nhắn do các lập trình viên gửi cho nhau khi họ sử dụng hệ thống máy tính theo ca ở Viện Công Nghệ Massachusetts vào những năm 1960. Đến cuối những năm 1980, Email vẫn chưa tiếp cận với mọi người và chỉ thông dụng vào cuối những năm 1990. Ngày nay Email là phương tiện truyền thông chính cho doanh nghiệp và cá nhân.8. Điện thoại di động Chiếc điện thoại di động đầu tiên ra thị trường vào những năm 1983, do motorola sản xuất, và nặng hơn 1,1Kg. Ngày nay, nó chỉ nặng khoảng vài chục gr và có chức năng như 1máy vi tinh nó nâng cao tính hiệu quả trong thông tin liên lạc, và hiện đang được triển khai ở những nước mà dịch vụ điện thoại còn chậm phát triển . 9. Máy tính xách tay10IBM đưa ra thuật ngữ PC (Personal Compute- Máy tính cá nhân )khi công ty này giới thiệu sản phẩm máy tính IBM 5150 vào những năm 1981. Thuật ngữ này hướng đến mục tiêu của IBM là đưa máy tính đến tay mỗi cá nhân. Cũng năm 1981, Osborne 1 là máy tính xách tay đầu tiên xuất hiện trên thị trường nặng trên 9Kg. Trong 2 thập kỷ tiếp theo, máy tính cá nhân và máy tính xách tay dần trở nên nhỏ hơn, tiến bộ, nhanh hơn và đa dụng hơn với cả công việc kinh doanh và việc nhà.10. Internet, băng thông và trang webInternet được gọi là mạng lưới của các mạng lưới. Đây là cơ sở dữ liệu của các kết nối máy tính cho phép chúng ta dùng mạng liên kết trên toàn thế giới để gửi email, chia sẻ tập tin và tìm kiếm thông tin về bất cứ chủ đề nào bằng cách gõ vài từ khóa trên một công cụ tìm kiếm. Cơ sở dữ liệu của internet được hình thành trước năm 1979 và hoàn thành việc chuyển đổi cách thức vào cuối những năm 90. b.Tiêu cực- Một trong những hậu quả tiêu cực nhất mà cuộc cách mạng khoa học công nghệ đem lại có thể nói là về cơ bản đã tàn phá môi trường sinh thái. Bằng vũ khí khoa học, công nghệ, kỹ thuật trong tay con người đã chinh phục thiên nhiên bằng bất cứ giá nào để mang lại lợi ích nhiều nhất, nhanh nhất cho con người và cho xã hội, bất chấp những quy luật tồn tại và phát triển của tự nhiên. Và cái gì phải đến cũng đến, ở khắp nơi từ mặt đất, tầng khí quyển, tầng ozon, từ đồng bằng đến rừng núi, từ sông ngòi ao hồ đến biển cả… tự nhiên đang “trả thù” con người. Đó là nạn cạn kiệt các nguồn tài nguyên như đất, nước các loại khoáng sản mà cuộc khunhr hoảng dầu hỏa vào những năm 70 của thế kỷ XX và vào năm 2000 là một trong những hiện tượng tiêu cực điển hình. Nạn ô nhiễm môi trường sinh thái lại càng khủng khiếp hơn mà nguyên nhân gây ra là bởi các chất thải độc hại của nền sản xuất xã hội, bởi việc lạm dụng các hóa chất trong sản xuất nông nghiệp, bởi năng lượng hạt nhân, bởi các loại vũ khí chiến tranh (chất độc hoá học, vi trùng…)- Trong thời đại công nghệ thông tin, an ninh quốc gia trở nên mong manh, dễ tổn thương hơn bao giờ hết trước sự tấn công của vũ khí thông tin. Vũ khí thông tin 11được hiểu là những sản phẩm phần mềm của công nghệ thông tin - thực chất là những virus máy tính mang tính phá hoại và bằng nhiều con đường thâm nhập vào máy tính đối phương. Với việc nối mạng Internet toàn cầu vũ khí thông tin đã tạo nên mối đe dọa nguy hiểm, trực tiếp cho nền an ninh quân sự của tất cả các quốc gia.- Công nhệ thông tin cũng đang can thiệp sâu sắc vào an ninh xã hội của từng quốc gia và cả quyền tự do cá nhân. Thông qua mạng lưới truyền thông hiện đại, qua mạng máy tính toàn cầu, các nước có công nghệ thông tin tiên tiến, tiến hành việc thẩm thấu văn hóa, tuyên truyền chế độ xã hội, lối sống thực dụng, không lành mạnh… hoặc tuyên truyền những lập trường đối địch gây nhiễu loạn đối với hệ thống tin tức chính trị, xã hội của quốc gia đối lập, gây nên xung đột dân tộc, sắc tộc,tôn giáo, kích động những hoạt động chính trị phá hoại của quần chúng, khơi dậy những mâu thuẫn xã hội, từ đò tạo ra những đe dọa an ninh xã hội của nước đó.- Cùng với sự phát triển vệ tinh và công nghệ vũ trụ, lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời của mỗi nước luôn bị đặt trước sự xâm lược hữu hình hay vô hình từ các nước có công nghệ thông tin phát triển.- Sự bùng nổ Internet còn kèm theo nỗi lo không kiểm soát được trước thực trạng máy tính bị lợi dụng và trở thành công cụ đắc lực có các hoạt động phạm pháp như rửa tiền điện tử, buôn bán ma túy,…- Công nghệ sinh học đang là một trong những công nghệ chiếm ưu thế nhất hiện nay trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, việc sử dụng công nghệ sinh học đã và đang mang đến cho con người cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Con người đã lạm dụng các loại thuốc phòng trừ dịch hại, phun, rải thuốc bừa bãi không cần quan tâm đến thời gian cũng như chủng loại thuốc. Kết quả là gây ô nhiễm môi trường, gây hại cho cây trồng, vật nuôi, đe dọa sự sống, sức khỏe của con người. - Với công nghệ gen loài người đang đứng trước nguy cơ của cái gọi là vũ khí gen hay bom sắc tộc mà theo nhiều người nó còn đáng sợ hơn cả vũ khí hóa học thậm chí cả vũ khí hạt nhân. Bằng công nghệ gen, người ta có thể tạo ra loại vi rut nguy hiểm tấn công vào một nhóm sắc tộc nhất định nào đó, một dân tộc nào đó 12đang là đối thủ tấn công đẻ gây ra những căn bệnh nguy hiểm cho riêng dân tộc, sắc tộc đó. Cùng với đó con người đang bị đe dọa bởi nạn xâm lược sinh học, đó là hiện tượng lan tràn khắp thế giới các cây, con ngoại lai mang mầm bệnh nguy hiểm,các vi khuẩn,sâu bọ co hại theo cái đà toàn cầu hóa.Ngoài ra một số công nghệ khác như công nghệ hạt nhân nguyên tử, công nghệ vũ trụ, công nghệ vật liệu mới đã và đang, mang lại cho con người nhiều lợi ích mới nhưng đồng thời cũng biết bao tai họa đang chờ đợi phía trước mà con người chưa thể biết trước được. Như vậy những hậu quả tiêu cực và những thách thức của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ còn rất nhiều, những gì nêu trên chỉ là những ví dụ cụ thể trong một số công nghệ điển hình hiện nay. Chương 2: Thực trạng ứng dụng công nghệ trong kinh doanh du lịch 2.1 - Thực trạng ứng dụng công nghệ trong kinh doanh du lịch nước taỞ nước ta hiện nay theo đánh giá của Bộ Khoa học Công nghệ và môi trường trong những năm gần đây thì trình độ công nghệ nước ta còn ở trình độ thấp và lạc hậu so với khu vực và thế giới. So với các nước công nghệ tiên tiến nhất hiện nay, công nghệ của Việt Nam khoảng 50 đến 100 năm. Xét về trang thiết bị kỹ thuật của nước ta so với mức tiên tiến trung bình lạc hậu từ 2 - 3 thế hệ, hoặc từ 5 - 6 thế hệ tùy theo từng lĩnh vực chuyên ngành. Hệ số cơ giới hóa trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp của Việt Nam chỉ đạt 50% so với thế giới, tức là còn ở giai đoạn đầu của cơ giới hóa, tỷ lệ tự động hóa không đáng kể, nhiều khâu lao động trong công nghiệp vẫn còn thủ công. Còn trong sản xuất nông nghiệp số người tham gia rất lớn với khoảng 70% lao động cả nước nhưng cho đến nay chủ yếu vẫn là lao động thủ công và bán cơ giới, vẫn sử dụng những công cụ thô sơ như cày bừa, liềm hái, cuốc, thuổng… Đặc biệt ở vùng sâu vùng xa. Tuy công nghệ của ta về cơ bản còn lạc hậu nhưng hệ số đổi mới công nghệ của ta lại quá chậm chạp, trung bình hàng năm chỉ đạt từ 8 - 10% nghĩa là phải mất hơn một thập niên ta mới thay được một thế hệ 13trang thiết bị máy móc mới. Trong khi nhiều nước trong khu vực tốc độ đổi mới công nhệ nhanh gấp đôi. Với tốc độ đổi mới công nghệ như thế này thì khoảng cách lạc hậu của công nghệ nước ta so với các nước trong khu vực càng ngày càng xa hơn. Đây là điều báo động rất đáng lo ngại. Không chỉ tốc độ đổi mới công nghệ chậm mà cả hệ số sử dụng các trang thiết bị máy móc ở nước ta hiện nay cũng còn rất thấp chỉ mới đạt khoảng 25 - 30%. Mức tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm còn quá lớn (thường gấp 1,5 - 2 lần so với thế giới ) vì vậy giá thành sản phẩm cao, sức cạnh tranh kém. Đặc điểm nổi bật của sự phát triển hiện nay ở nước ta là tính phức tạp , đan xen, chắp vá. Trong một số lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, kinh doanh chúng ta nhập một số trang thiết bị hiện đại không thua kém gì nhiều nước trong khu vực, như trong lĩnh vực bưu chính viễn thông chúng ta đã có những bước tiến khá dài. Trong khi đó chúng ta vẫn còn sử dụng rộng rãi, phổ biến các công cụ thô sơ lạc hậu đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.Nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay đông đảo về số lượng, trẻ trung nhưng còn nhiều hạn chế về chất lượng và số người được đào tạo trong các ngành nghề sản xuất còn rất thấp, lại tập trung ở các thành phố lớn gây nên tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu lao động có kỹ thuật có tay nghề cao. Với tư cách là một yếu tố của công nghệ hiện đại, nguồn lực con người ở nước ta còn rất dồi dào, có tiềm năng lớn nếu biết khai thác và phát huy thì đây là một thế mạnh của Việt Nam. Để trở thành một ngành kinh tế quan trọng không chỉ cần có tài nguyên du lịch mà cần vận dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến vào lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên việc ứng dụng công nghệ vào trong kinh doanh du lịch ở nước ta còn rất nhiều hạn chế. Theo một cuộc điều tra của phòng Thương mại và Công nghệ Việt Nam phối hợp với dự án nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam công bố cuối tháng 4 vừa qua, tình hình ứng dụng công nghệ thông tin ở các doanh nghiệp du lịch Việt Nam rất mờ nhạt. Cuộc khảo sát được tiến hành bằng cách gửi câu hỏi đến 1500 Doanh nghiệp du lịch như khách sạn, nhà hàng, doanh nghiệp lữ hành trên cả nước, trong 14đó có 225 doanh nghiệp được khảo sát sâu bằng phỏng vấn trực tiếp. Kết quả là có 90% doanh nghiệp du lịch sử dụng phần cứng như máy tính, máy in, fax nhưng bất ngờ nhất là có chưa đến 25% doanh nghiệp du lịch sử dụng các phần mềm trong quản lý. Phần lớn các doanh nghiệp du lịch có ứng dụng thông tin trong quản lý, điều hành đều là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các khách sạn hạng sao ở các thành phố lớn. Các công cụ tiện ích như email, internet được các doanh nghiệp sử dụng rất hạn chế. Họ cũng chưa xem trang web là công cụ hữu ích để tiếp thị hình ảnh của mình, và cũng có trang web họ cũng chưa sử dụng để làm công cụ đặt phòng, đặt tour nên số lượng đơn hàng qua hàng rất ít. Qua các cuộc phỏng vấn ta thấy các nhà quản lý doanh nghiệp có quy mô nhỏ khá hài lòng với hệ thống sổ sách ghi chép thủ công và chưa suy nghĩ một cách nghiêm túc cho việc đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý. Các doanh nghiệp được phỏng vấn đều cho rằng trở ngại trong ứng dụng công nghệ thông tin là vấn đề tài chính. - Việc sử dụng phần cứng: Hơn 90% doanh nghiệp đầu tư phần cứng, các phần cứng được sử dụng phổ biến nhất là máy tính (cả loại để bàn hay xách tay), máy in, máy fax và các thiết bị mạng nội bộ, tổng đài điện thoại …số lượng trung bình tương ứng là 14 máy tính, 5 máy in, 2 máy fax cho mỗi doanh nghiệp. Ngạc nhiên hơn là có doanh nghiệp vẫn chưa có máy fax hay tổng đài điện thoại.- Việc sử dụng phần mềm: tương tự như phần cứng, khảo sát chỉ ra rằng tình trạng sử dụng phần mềm ở các doanh nghiệp còn rất sơ khai, chưa đến 25% các đơn vị sử dụng phần mềm quản lý như quản lý tiền sảnh và quản lý nhà hàng. Các phần mềm được sử dụng phổ biến nhất là các phần mềm văn phòng của Microsoft -79%, sau đó là sử dụng các ứng dụng Internet cơ bản như lướt ưeb hay thư điện tử -70%. Các công cụ quản lý phổ biến như phần mềm kế toán - 60% hay phần mềm quản lý cước điện thoại -62%.Theo Hiệp hội Du lịch Việt Nam, mức độ sẵn sàng cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin của ngành du lịch hiện đứng thứ tám trong 26 bộ, ngành 15trên cả nước. Điều này cho thấy nhận thức của các doanh nghiệp du lịch trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động kinh doanh là tương đối cao. Theo thống kê, đến nay 100 % doanh nghiệp đều đã trang bị máy tính, nối mạng Internet và ứng dụng những phần mềm chuyên dụng như quản trị văn phòng, tài chính…Tuy nhiên, đi sâu vào thực tế ứng dụng thì vẫn còn nhiều bất cập và chưa thật sự chuyên nghiệp để có thể tận dụng được ưu thế của công nghệ thông tin. Theo điều tra của VCCI, hiện trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành du lịch vẫn còn ở mức sơ khai. Cả nước hiện có gần 6.000 khách sạn và cơ sở lưu trú lớn nhỏ, nhưng chỉ có khoảng 300 đơn vị sử dụng dịch vụ đặt phòng qua mạng. Đa số doanh nghiệp đều có trang web nhưng chưa tận dụng được các chức năng thương mại của nó để giao dịch với khách hàng, nhận đặt phòng, thanh toán qua mạng..., thậm chí nhiều doanh nghiệp chưa biết cách quảng bá trang web của mình như thế nào cho có hiệu quả.Trong khi các “đại gia” khách sạn, khu nghỉ dưỡng (resort) liên doanh hoặc các hãng lữ hành lớn thực sự bắt tay vào triển khai công nghệ thông tin một cách đồng bộ với hệ thống hiện đại, đạt chuẩn quốc tế và đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư thiếu tính chuyên nghiệp, chủ yếu đầu tư cho phần cứng. Phần mềm mới chỉ ở mức soạn thảo văn bản, gửi và nhận e-mail. Các chương trình quản lý thì chỉ quanh quẩn ở việc quản lý nhà hàng,quản lý sảnh, quản lý tour ; chỉ có 17-25 % các doanh nghiệp có doanh thu dưới 10 tỷ đồng/năm và 42-45 % các doanh nghiệp có doanh thu trên 10 tỷ đồng/năm là có sử dụng các sản phẩm phần mềm vào quản lý các nghiệp vụ đơn giản.Ông Phạm Quang Hải, Giám đốc Công ty Du lịch Hội An, đơn vị chủ sở hữu hai khu nghỉ dưỡng lớn tại Hội An là Life Resort và Riverside Resort, cho biết việc ứng dụng công nghệ thông tin đã mang lại những kết quả đáng kể : việc quản lý thông tin nhanh chóng và chính xác hơn rất nhiều, đồng thời hiệu quả tiếp thị cũng tăng cao. “Trước đây, chúng tôi phải tiếp cận với khách hàng để quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình, công việc này tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc. Giờ thì 16thông qua trang web, khách hàng sẽ có đầy đủ thông tin về dịch vụ cũng như những chương trình khuyến mãi, đồng thời có thể đặt phòng, thanh toán...,”Tuy nhiên, theo ông Hải, không phải doanh nghiệp nào cũng phát huy được công dụng của trang web. Trên thực tế, có nhiều trang web chỉ để “trang trí”, còn việc ứng dụng CNTT chủ yếu là gửi và nhận e-mail. Ông Hải nhận xét, để đạt được hiệu quả như mong đợi, khi ứng dụng công nghệ thông tin các doanh nghiệp nên chọn những chương trình phù hợp, không nên chọn một chương trình dành cho khách sạn năm sao để áp dụng cho khách sạn chỉ có 20 phòng hoặc ngược lại.Hiện nay, quảng cáo trên mạng được xem như là một xu hướng phát triển mới. Internet ngày càng “chiếm lĩnh” nhiều thời gian của người tiêu dùng hơn, tương đương với thời gian ngồi trước màn ảnh truyền hình. Thế nhưng, ngân sách quảng cáo trực tuyến còn rất thấp so với quảng cáo trên truyền hình. Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa nhận thức được hiệu quả của quảng cáo trực tuyến khi muốn đưa sản phẩm của mình ra thị trường thế giới.Qua nghiên cứu, cho biết một chuyến tham gia triển lãm ở Mỹ để giới thiệu sản phẩm có thể mất đến 10.000 đô-la nhưng quảng cáo trên mạng chỉ tốn khoảng 0,29 - 0,5 đô-la thông qua các công cụ tìm kiếm trên Internet. “Không phải là không có lý khi giới chuyên môn đánh giá công cụ tìm kiếm trên mạng đã vượt qua lời tư vấn của bạn bè, của gia dình và cả đại lý lữ hành để trở thành nguồn thông tin đáng tin cậy, giúp người sử dụng đưa ra quyết định lựa chọn địa điểm du lịch,”. Vậy, đã đến lúc các nhà quản trị doanh nghiệp nên có một chiến lược công nghệ thông tin để quảng bá tên tuổi của mình ra thế giới.”Trong khi đó, ông Nguyễn Phú Đức, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam, cho rằng để việc ứng dụng công nghệ thông tin đạt hiệu quả, ngoài việc kết nối với khách hàng, các doanh nghiệp phải có sự liên kết với nhau và với cả các cơ quan quản lý. “Nếu chưa có khả năng tự quảng bá, các doanh nghiệp nên tận dụng trang web của Tổng cục Du lịch, Hiệp hội Du lịch Việt Nam (hiện dịch vụ này được sử dụng miễn phí). Như thế vừa tiết kiệm chi phí vừa có hiệu quả,”.172.2 - Hiệu quả thu hút khách du lịch qua mạng internetTrong thời đại thông tin điện tử, muốn đến một điểm du lịch nào đó, cách tiếp cận nhanh nhất, sinh động nhất của khách du lịch là thông qua mạng internet. Nắm bắt được điều này, nhiều điểm du lịch, công ty du lịch đã chú trọng đầu tư vào việc quảng bá hình ảnh của mình qua mạng internet dưới nhiều hình thức và thể loại phong phú. Thị trường khách du lịch nước ngoài đang đến VN ngày càng nhiều và họ tiếp cận với thông tin du lịch bằng cách nào? Thống kê của Tổ chức du lịch thế giới cho thấy: khoảng 78% du khách Mỹ (79 triệu người) sử dụng Internet để tìm kiếm thông tin về các điểm đến, tour du lịch...; trong số đó 82% số người tìm kiếm thông tin về du lịch qua mạng đã quyết định đặt tour qua mạng. Tại Pháp có tới hơn 50% số khách du lịch lựa chọn và đặt tour quang mạng Internet.... Còn với châu Á, tổ chức du lịch thế giới cũng đưa ra dự báo: Trung Quốc sẽ trở thành thị trường du lịch lớn nhất thế giới với hơn 10% số lượt khách du lịch được hỗ trợ từ Internet. Trong khi đó, thị trường du khách Trung Quốc vào VN luôn đứng đầu trong vài ba năm trở lại đây; đáng chú ý là lượng khách chi trả cao đang tăng. Nhiều người có thói quen khi muốn cùng gia đình hay một nhóm bạn đi du lịch, xác định địa điểm thường lên mạng tìm kiếm thông tin, so sánh giá cả các tour du lịch rồi mới quyết định đặt chỗ, đặt phòng. Theo đánh giá của Vụ Thương mại điện tử (Bộ Công Thương), các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đang vượt lên trên các doanh nghiệp sản xuất trong việc triển khai ứng dụng thương mại điện tử. Đặc biệt năng động là những công ty hoạt động trong lĩnh vực thương mại, du lịch. Website của các công ty thuộc lĩnh vực dịch vụ chiếm đến 82% số trang web có tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử. Các sản phẩm dịch vụ cung cấp trên website khá đa dạng và đang hướng phát triển mạnh tới loại hình dịch vụ trực tuyến. Theo tính toán, việc mua bán được thực hiện qua Internet sẽ tiết kiệm được 10 đến 50% chi phí mua sắm và 50 đến 96% thời gian. 18Đây chính là lý do hấp dẫn để các hãng lữ hành tập trung khai thác triệt để Internet. Tuy nhiên, đối với hầu hết khách hàng nước ngoài sẽ chỉ đặt tour tại những công ty có thương hiệu lớn, có dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ thông tin tốt cho khách hàng. Vì vậy, trong tương lai khách VN cũng sẽ như vậy nên vấn đề củng cố niềm tin đối với khách hàng vào dịch vụ là điều rất cần thiết. Các công ty du lịch VN cũng nhận thấy tiềm năng to lớn từ việc ứng dụng Internet đem lại nên đã tích cực đầu tư. Bên cạnh đó, các địa phương có thắng cảnh du lịch cũng nhanh chóng bắt kịp xu thế này và ra một loạt các cổng điện tử giới thiệu như tại Huế, Đà Nẵng, Quảng Ninh... Theo đánh giá của những người quản trị mạng, nhiều vị khách ở bên trời Tây đã “lướt” vào những trang web này và còn đề nghị hướng dẫn qua email. Được biết, thời gian gần đây một số công ty du lịch lớn như Saigontouris, Vietravel... không chỉ lập web để quảng bá mà đã bước đầu triển khai phương thức kinh doanh trực tuyến như đặt tour, đặt phòng. Nhiều công ty còn đưa ra các trang web du lịch theo mùa; tư vấn miễn phí; các thông tin khuyến mại thu hút rất đông lượt người truy cập. Điển hình như trang dulichhe.com của Saigontourist trong mùa hè qua thu hút hơn triệu lượt người truy cập; đối tượng truy cập chủ yếu là nhân viên văn phòng tuổi từ 25 đến 40. Theo khảo sát, các trang web của các công ty du lịch hiện tập trung vào việc quảng bá, giới thiệu tour, danh lam thắng cảnh và ngôn ngữ chủ yếu bằng tiếng Việt. Mặc dù vậy, chưa có công ty nào lập trang tiếng Anh một cách chuyên nghiệp nên khách quốc tế rất khó tiếp cận các sản phẩm du lịch VN và đó cũng là lý do hầu hết các công ty du lịch VN đang chỉ là đại lý nhận khách cho các hãng du lịch nước ngoài. Lãnh đạo các công ty du lịch đều khẳng định: kinh doanh du lịch qua Internet sẽ ngày càng phát triển ở VN. 19Một thực tế là những người dùng Internet ngày càng nhiều và chủ yếu tại các thành phố lớn và phần đông là những nhân viên văn phòng, đây là những vị khách tiềm năng có khả năng chi trả cao và rất hay tìm kiếm thông tin từ mạng. 2.3 - Những lợi ích đáng kể mà công nghệ thông tin mang lai cho ngành du lịchNgành du lịch, việc ứng dụng công nghệ thông tin có thể đem lại những tác động tích cực như : ∗ Tự động hóa một số quá trình kinh doanh chung có ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống như kế toán, lập kế hoạch quản lý hành chính∗ Cho phép doanh nghiệp có thể tác động tương tác trong nội bộ, với khách hàng và nhà cung ứng bên ngoài nhanh hơn rẻ hơn chính xác hơn.∗ Đem đến cơ hội tái cơ cấu lại một số quy trình quản lý trong doanh nghiệp và do vậy, cải thiện được tính hiệu quả tổ chức.∗ Vượt ra ngoài công cụ thư điện tử, CNTT còn tự động hóa các giao dịch các thành phần tham gia bằng cách cung cấp các giao dịch trực tuyến mở rộng tối đa thị trường và phát triển dịch vụ của doanh nghiệp.Mặc dù có thể đem lại những lợi ích như vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành du lịch mới ở mức các cơ bản , chủ yếu là tự phát, đầu tư nhỏ lẻ, không đồng bộ nên không phát huy được hiệu quả* Kinh doanh lưu trúCuối tháng Bảy vừa qua, khách sạn năm sao Saigon Sheraton đã chính thức đưa vào sử dụng dịch vụ tiện ích Link@Sheraton với sự hợp tác của Microsoft. Với hệ thống máy tính được tích hợp công nghệ Microsoft Wi - Fi đa chức năng với thiết bị Ethernet và Webcam, Link@Sheraton cho phép khách hàng truy cập thông tin, tán gẫu (chat) hay làm việc với dải băng thông rộng lên đến 6Mb.20“Chúng tôi mong muốn mang đến cho khách hàng những điều kiện sống và làm việc như chính tại nhà của họ trong suốt thời gian họ lưu trú tại khách sạn,” ông Dietmar Kielnhofer, Tổng quản lý Saigon Sheraton, cho biết.Trước đó không lâu, Duxton Saigon, một khách sạn cao cấp khác ở Tp.HCM, cũng đã giới thiệu trang blog của mình. Với tên gọi “Trái tim của Sài Gòn”, blog này cung cấp cho khách hàng những thông tin về hoạt động của khách sạn như bán hàng, khuyến mại cùng những thông tin về Tp.HCM.Sheraton và Duxton chỉ là hai trong nhiều khách sạn và khu nghỉ dưỡng cao cấp ở Tp.HCM cũng như trên cả nước thời gian gần đây đã đầu tư mạnh cho công nghệ thông tin, chủ yếu là những tiện ích Internet trong khách sạn và dịch vụ đặt phòng trực tuyến.Theo ông Tim Russell, Giám đốc kinh doanh và tiếp thị của Duxton Saigon, ngoài việc phục vụ khách hàng chu đáo hơn, các tiện ích Internet còn đem lại những lợi ích to lớn cho khách sạn, từ hoạt động tiếp thị cho đến việc xây dựng thương hiệu và giao tiếp với khách hàng.Ông Stuart Murphy, Giám đốc điều hành các khu nghỉ dưỡng của Life Resort Việt Nam, cũng cho biết sau mỗi lần nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin, thành quả mà Life Resort Việt Nam đạt được là giảm thiểu mức thiệt hại do việc hủy phòng mà không báo trước của khách gây ra.Albert Kaindlbauer, Tổng quản lý của khách sạn Renaissance Riverside, cũng có ý kiến tương tự khi cho biết đã có một sự chuyển biến lớn trong cách đặt phòng ở khách sạn này. “Các cuộc điện thoại hay fax ngày càng ít đi và giao dịch trực tuyến ngày một nhiều hơn,” ông nói.Với khoản đầu tư 20.000 Đô la Mỹ mỗi năm cho các hoạt động công nghệ thông tin, Victoria Hotels & Resorts, hiện đang quản lý năm khách sạn và khu nghỉ dưỡng ở Việt Nam và một khách sạn ở Campuchia, cho thấy trong những năm qua, công nghệ thông tin đã góp một phần quan trọng vào sự thành công trong kinh doanh cũng như tiếp thị hình ảnh những nơi này.21“Chúng tôi đang trong quá trình hoàn thành hệ thống đặt phòng trực tuyến, cho phép khách hàng xác nhận việc đặt phòng trên trang web www.victorihotels.asia,” Alex Hysbergue, Giám đốc công nghệ thông tin của Victoria Hotels & Resorts, cho biết.* Kinh doanh lữ hànhGiống như khách sạn, các công ty lữ hành cũng đang cạnh tranh nhau thông qua việc phát triển hệ thống bán tour trực tiếp qua mạng và các dịch vụ tiện ích khác.Theo thông tin từ Công ty Du lịch Vietravel, trong năm 2007, công ty đã đầu tư khoảng 4 tỷ đồng cho các dự án công nghệ thông tin dài hạn. Một trong số đó là tiếp tục nâng cấp trang web www.travel.com..vn, mạng bán tour trực tuyến, để tạo nên một diện mạo mới: trực quan, năng động và thân thiện hơn. Tại trang web này du khách có thể tham khảo thông tin về tour, tuyến, chương trình khuyến mại, điểm du lịch, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa trong và ngoài nước..Ông Trần Đoàn Thế Duy, Giám đốc Trung tâm E-tour của Vietravel, cho biết: “Không cần phải đến trụ sở hay chi nhánh công ty, du khách vẫn có thể đặt, mua tour và tham khảo thông tin trực tuyến tại trang web này một cách nhanh chóng”.Thế nên khi mới hoạt động được 30 ngày, www.travel.com.vn đã thu hút được 10..000 phiếu đặt tour trực tuyến và gần 500 lượt khách đi tour. Và chỉ sau gần sáu tháng, trang web này đã có hơn 400.000 lượt truy cập. Hiện tại, trung bình mỗi ngày www.travel.com.vn có trên dưới 10.000 lượt truy cập.Hiện nay, Vietravel cũng đang chuẩn bị hệ thống cơ sở dữ liệu để xây dựng hệ thống E-office – được xem như là một văn phòng trực tuyến, nhân viên chỉ cần đăng nhập và khai thác dữ liệu cần thiết từ bất kỳ nơi nào để phục vụ cho công việc.Một doanh nghiệp lữ hành khác cũng đang rất thành công với việc kinh doanh thông qua hệ thống mạng trực tuyến là Công ty Dịch vụ lữ hành Saigontourist. Công ty đã chính thức đưa vào hoạt động trang web www.dulichkhuyenmai.com từ quý 1 năm ngoái. Trang web này tập hợp những thông tin khuyến mại mới nhất về các tour du lịch trong và ngoài nước, việc thuê xe, việc mua vé máy bay...22Du khách cũng có thể tham khảo các nội dung tư vấn về du lịch hoặc gửi câu hỏi yêu cầu tư vấn trong vòng 24 giờ, cập nhật thông tin, sự kiện du lịch hằng ngày trong mục Đọc báo du lịch... Saigontourist hiện đang vận hành bốn trang web du lịch chuyên mục: www..dulichtet.com, www.dulichhe.com, www.dulichkhuyenmai.com, www.dulichthudong.com, thu hút gần hai triệu lượt người truy cập mỗi năm.Khi blog trở thành cơn sốt, Saigontourist cũng chớp thời cơ tung ra blog du lịch miễn phí www.blogdulich.com. Chưa đầy một tháng sau, cách tiếp thị này đã thu hút gần 200 người đăng ký làm blogger thành viên, với hơn 100 bài viết, thu hút 12.689 lượt truy cập.Các trang web du lịch sử dụng công nghệ E-tour ngày càng nở rộ, nhiều trang trở nên phổ biến như www.dulichvn.org.vn, www.hanoitourist-travel.com, www.vietnamtourist.com.vn, www.hotels84.com, www.webdulich.com2.4 - Những hạn chế và khó khăn đối với ngành du lịch của nước ta trong lĩnh vực công nghệ thông tinBên cạnh đó, một số khách sạn đã tiếp cận với tiếp thị du lịch trực tuyến qua các cổng thông tin du lịch như www.worldhotel-link.com, www.hotels.com.vn...Tuy nhiên, theo các doanh nghiệp và quan chức ngành du lịch, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực này dù đã được quan tâm và cải thiện một cách đáng kể nhưng vẫn chưa mang tính đồng bộ, mức độ đầu tư chưa tương xứng với quy mô, phần lớn chỉ mới đạt ở mức cơ bản.Có thể nói rằng, hiện nay ngoài Vietravel và Saigontourist có các trang web bán tour trực tuyến là thực sự có ích, các doanh nghiệp khác dường như vẫn đang loay hoay với bài toán công nghệ và tiền vốn.Trang web của Fiditour cũng là một trang web có nội dung khá phong phú, nhưng tốc độ truy cập rất chậm, trong khi trang web của Công ty Carnival cập nhật 23rất nhanh các chương trình tour mới nhưng ngoài hình ảnh, chi tiết chương trình tour, giá cả... trang web này chưa được khai thác hết tiềm năng. Bên cạnh đó có một vấn đề chung mà tất cả các web này gặp phải, kể cả của Vietravel và Saigontourist, là không có phiên bản tiếng Anh hoặc nếu có thì rất sơ sài nên khó thu hút được du khách nước ngoài..Các doanh nghiệp và nhà quản lý khách sạn cũng cho rằng việc ứng dụng công nghệ thông tin ở các khách sạn, khu nghỉ dưỡng vẫn chưa xứng tầm. Tim Russell cho biết việc ứng dụng công nghệ thông tin ở các khách sạn Việt Nam rất “nghèo” so với thế giới. “Ở các khách sạn cao cấp trên thế giới, bình quân 30% lượng đặt phòng đến từ mạng trực tuyến; trong khi ở Việt Nam con số này thậm chí chưa đạt 5%,” ông nói. Việt Nam “ngôn ngữ công nghệ thông tin” là rất lạc hậu, hầu hết các giải pháp công nghệ đang phổ biến trên thế giới đều không được khai thác hết công năng, thì khả năng hoàn vốn đầu tư là rất thấp; hơn nữa, sự lạc hậu này còn đồng nghĩa với nguy cơ về an ninh mạng. Một mối lo khác của việc ứng dụng công nghệ thông tin của DN Việt Nam là tỷ lệ vi phạm bản quyền. Theo IDG, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm tại Việt Nam đã giảm từ 92% năm 2003 xuống còn 88% vào năm 2006. Chính phủ Việt Nam cũng đã thể hiện sự quyết tâm thực hiện các cam kết quốc tế khi gia nhập WTO thông qua việc ban hành Luật sở hữu trí tuệ từ tháng 7.2006 và Luật CNTT có hiệu lực từ tháng 1.2007, ký kết nhiều thỏa thuận về việc trang bị phần mềm bản quyền cho các cơ quan quản lý nhà nước. Nhiều đơn vị, tổ chức Việt Nam đã bắt đầu trang bị phần mềm bản quyền để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, không phải hầu hết các doanh nghiệp đều hiểu rõ phương thức hợp thức hóa bản quyền phần mềm.24Chương 3: Giải pháp nâng cao ứng dụng công nghệ trong kinh doanh du lịch 3.1 - Ứng dụng những thành tựu công nghệ vào trong kinh doanh du lịch - Trước tiên để tăng khả năng ứng dụng công nghệ trong kinh doanh du lịch thì phải ứng dụng công nghệ vào lĩnh vực kinh doanh du lịch đã rồi mới từng bước tăng khả năng ứng dụng. Khoa học công nghệ phát triển đã cho ra đời nhiều trang thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại. Các công nghệ hiện đại được ứng dụng rộng rãi trong các ngành nghề kinh doanh và mang lại hiệu quả rất cao.. Ngành du lịch cũng cần vận dụng các công nghệ hiện đại để phát triển. Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ ngành du lịch như đồng ý cho Tổng cục du lịch xây dựng hệ thống thông tin và Trung tâm thông tin du lịch quốc gia, triển khai 3 đề án điều tra về năng lực của các cơ sở lưu trú, mức độ chi tiêu của các du khach khi đến Việt Nam và tác động cụ thể của ngành du lịch đến nền kinh tế- Xây dựng một website hiệu quả: Tạo ra một trang web không chỉ đơn giản là giới thiệu về công ty mà còn cung cấp một lượng thông tin thích đáng cho người truy cập, cung cấp một cổng vào ngay lập tức cho khách hàng và các đối tác tiêm năng. Việc sử dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh sẽ góp phần rất lớn trong việc giảm chi phí quản lý và quảng bá hình ảnh du lịchTheo các nhà nghiên cứu về thương mại điện tử, một website hiệu quả phải hội tụ đủ các yếu tố: xác định yếu tố chiến lược, khách hàng mục tiêu và lợi ích khác biệt, kết hợp được mô hình kimh doanh trên mạng với kinh doanh truyền thống, cung cấp thông tin hữu ích, chính xác, phù hợp và cập nhật thường xuyên, hình thức thiết kế mang tính mỹ thuật cao và hỗ trợ quảng bá thương hiệu, dễ sử dụng, kết hợp được yếu tố nội dung và thương mại, thu hút lưu lượng giao dịch cao và được ghé thăm thường xuyên, tính tương tác cao, xử lý thông tin và đáp ứng nhanh yêu cầu của người xem qua email, có chức năng phong phú, giao dịch và thanh toán trực tuyến, công bố chính sách thương mại, giá cả, dịch vụ rõ ràng, an toàn,bảo mật và thích ứng với các điều kiện khác nhau. Khi đã xây dựng được một website các doanh 25