Cấp dương ly hôn khi mang thai bao nhiêu năm 2024

Theo Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về quyền ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:

"1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được."

Căn cứ theo quy định trên, bạn có quyền đơn phương gửi đơn yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn của mình.

Hồ sơ xin ly hôn đơn phương cần có: Đơn xin ly hôn đơn phương, Xác minh nơi cư trú, căn cước công dân, bản chính Giấy đăng ký kết hôn, giấy tờ chứng minh tài sản ( nếu có yêu cầu chia tài sản), bản sao giấy khai sinh của con

Thủ tục ly hôn thực hiện:

Gửi hồ sơ trên đến Tòa án nơi bị đơn cư trú

Cơ sở pháp lý theo khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ:

"1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

  1. Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;

Thứ hai: Điều kiện giành quyền nuôi con

Căn cứ vào điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:

“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Con dưới 3 tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác. Con bạn trên 3 tuổi thì Toà án sẽ xem xét dựa trên các tiêu chí vì lợi ích tốt nhất của con, điều kiện về chỗ ở, học tập, chăm sóc con tốt nhất.

Thạc sỹ - Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, Hà Nội.

Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ [email protected] (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ)

Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên trong trường hợp không sống chung với con. Đây là quy định tại Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con chưa thành niên khi vợ, chồng ly hôn nhằm chia sẻ trách nhiệm của cha mẹ trong việc chăm sóc nuôi dưỡng con; đảm bảo cho con được hưởng mọi quyền lợi tốt nhất. Việc tranh chấp về cấp mức cấp dưỡng nuôi con khá phổ biến trong các vụ án ly hôn mà Toà án địa phương hiện nay đang thụ lý giải quyết.

1. Quy định của pháp luật hiện nay về mức cấp dưỡng nuôi con

Theo quy định tại Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì mức cấp dưỡng nuôi con trong vụ án ly hôn được xác định căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.

Theo quy định tại khoản 20 Điều 3 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định: “Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình”. Tuy nhiên, hiện nay Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 không có quy định và TANDTC cũng chưa có hướng dẫn cụ thể về “thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng”.

Trước đây Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định như sau: “Khả năng thực tế của người có nghĩa cấp là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó”. Còn "Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp dưỡng".

Như vậy, vấn đề đặt ra là mức cấp dưỡng tối thiểu mà Toà án xem xét quyết định buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải cấp dưỡng cho con là bao nhiêu thì hiện nay cũng chưa có hướng dẫn. Thực tiễn giải quyết các vụ án hôn nhân có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con tại các Tòa án hiện tại thường vận dụng quy định tại khoản 2, phần III của Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC, cụ thể là “Toà án phải xem xét đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người phải đóng góp phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người nuôi dưỡng con. Trong đó mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới 1/2 (một phần hai) mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con” để làm căn cứ giải quyết.

Tại Điều 6 của dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn một số vấn đề về giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình(**) có hướng dẫn như sau: “Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng ít nhất bằng 2/3 mức lương cơ sở và không được thấp hơn 30% mức thu nhập bình quân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trong 06 tháng liền kề