Trong thời gian qua, trên địa bàn tỉnh Kon Tum đã và đang thực hiện có hiệu quả nhiều chương trình, chính sách dân tộc đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2020 được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định 2085/QĐ-TTg ngày 31/10/2016. Theo đó, mục tiêu của Đề án là tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc nhất về đời sống, sản xuất; từng bước cải thiện và nâng cao điều kiện sống cho hộ dân tộc thiểu số nghèo, hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn. Thực hiện Quyết định số 2085/QĐ-TTg và hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương. Năm 2017, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Đề án thực hiện Quyết định 2085/QĐ-TTg và điều chỉnh bổ sung đề án vào năm 2019 với tổng số lượt hộ có nhu cầu hỗ trợ các nội dung trên địa bàn 9 huyện, 01 thành phố là 21.572 lượt hộ; trong đó: hỗ trợ đất ở 2.394 hộ; hỗ trợ đất sản xuất 795 hộ; hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề 5.992 hộ; hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán 11.188 hộ; hỗ trợ bố trí, sắp xếp ổn định dân cư với tổng số hộ theo Đề án là 509 hộ. Sau 03 năm triển khai thực hiện Đề án, từ nguồn vốn sự nghiệp ngân sách trung ương phân bổ, ngân sách địa phương bố trí trên địa bàn tỉnh đã hỗ trợ cho 7.599 lượt hộ, trong đó hỗ trợ đất ở (sạn tạo nền nhà) 1.660 hộ từ nguồn ngân sách địa phương; hỗ trợ đất sản xuất cho 122 hộ, Hỗ trợ chuyển đổi nghề cho 818 hộ và hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán 4.999 hộ từ nguồn vốn sự nghiệp ngân sách trung ương với tổng kinh phí hỗ trợ các nội dung là 14.325,3 triệu đồng. Để các đối tượng được thụ hưởng có thêm kinh phí, có điều kiện mở rộng phát triển sản xuất, chăn nuôi, mua sắm máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2017-2020 trên địa bàn tỉnh đã tổ chức cho 2.247 lượt hộ vay vốn với kinh phí 87.110 triệu đồng. Người dân mở rộng phát triển chăn nuôi từ nguồn vốn của Đề án Có thể nói, qua 3 năm triển khai thực hiện các nội dung của Đề án theo quyết định 2085/QĐ-TTg đã khẳng định được tính thiết thực, hiệu quả của Đề án; từng bước góp phần tạo điều kiện cho hộ nghèo dân tộc thiểu số, hộ nghèo ở các xã, thôn, làng đặc biệt khó khăn tăng gia phát triển sản xuất; chủ động hơn về nguồn nước trong sinh hoạt, nhất là vào mùa khô từ đó mang lại thu nhập ổn định, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, vươn lên trong cuộc sống, thoát nghèo và hạn chế được tình trạng trông chờ ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của tỉnh. Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn có những tồn tại, hạn chế như: - Công tác tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức của người dân về thực hiện chính sách còn thiếu kỹ năng trong cung cấp thông tin, vận động dẫn đến vẫn còn một số đối tượng chưa hiểu hết được tính ưu việt của chính sách đối với hộ nghèo dân tộc thiểu số và hộ nghèo ở xã, thôn đặc biệt khó khăn nhất là tiếp cận nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi từ Ngân hàng chính sách xã hội. - Số hộ nghèo ở các địa phương có sự thay đổi, biến động theo từng năm, do đó, danh sách đối tượng thụ hưởng được rà soát, phê duyệt Đề án so với thời điểm thực hiện có phần không còn phù hợp đã ảnh hưởng đến đến công tác tổ chức, triển khai thực hiện. - Định mức hỗ trợ một số nội dung còn thấp như: hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán (1,5 triệu đồng/1 hộ), mức hỗ trợ chuyển đổi nghề (5 triệu đồng/1 hộ) trong khi đó nhu cầu của người dân thì nhiều, khác nhau, đối tượng được hỗ trợ thuộc hộ nghèo không có khả năng để góp thêm nên rất khó thực hiện; - Nhu cầu nguồn vốn để thực hiện các nội dung lớn nhưng nguồn vốn Trung ương hỗ trợ phân bổ còn thấp, vì vậy quá trình triển khai thực hiện các nội dung không đồng bộ, chưa đạt kết quả như mục tiêu đề ra. Việc tổ chức lồng ghép thực hiện các chương trình, dự án khác với Đề án còn hạn chế. Việc triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ về đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt trong thời gian qua không chỉ thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, hộ nghèo ở xã, thôn, làng đặc biệt khó khăn mà đây còn là động lực giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững, ổn định đời sống và góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo trong tỉnh. Để thực hiện có hiệu quả việc hỗ trợ các nội dung về đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số trong thời gian tiếp theo cần thực hiện một số giải pháp như: Một là: Tăng cường và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các nội dung, mục đích, ý nghĩa của việc hỗ trợ và vận động Nhân dân phát huy mạnh mẽ nội lực, khơi dậy ý chí tự vươn lên thoát nghèo, tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước. Hai là: Khi ban hành chính sách cần xác định rõ nguồn lực để triển khai thực hiện đảm bảo theo mục tiêu đề ra; đồng thời bố trí kinh phí đủ, kịp thời theo nhu cầu và đồng bộ giữa nguồn vốn hỗ trợ với nguồn vốn vay tín dụng để địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án đã được phê duyệt. Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện, cơ chế thanh, quyết toán để đảm bảo tiến độ đề ra. Ba là: Căn cứ tình hình thực tế của địa phương xác định những nội dung hỗ trợ phù hợp với nhu cầu, điều kiện và khả năng của hộ được thụ hưởng để phát huy hiệu quả nguồn vốn được hỗ trợ; Bốn là: Chủ động nắm bắt kết quả, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng để nắm tình hình triển khai thực hiện, hiệu quả thực tế và mức độ đáp ứng nhu cầu người dân đối với các nội dung được hỗ trợ và kịp thời phát hiện và giải quyết những khó khăn, vướng mắc. Mỹ Hạnh
Chính phủ Việt Nam công nhận 53 nhóm dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam.1 Một số tài liệu khác cho rằng tại Việt Nam có hơn 90 nhóm dân tộc, lên đến gần 10 triệu người, tương đương 10% dân số Việt Nam.2 Phần lớn các dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu vùng xa và có hệ thống tín ngưỡng riêng gắn liền với đất đai. Phụ nữ H’mông đi về từ chợ Bắc Hà. Ảnh do Philip Turner chụp. Được cấp phép theo CC BY-NC 2.0. Kể từ những năm 1980, Chính phủ đã đưa ra một hệ thống chính sách nhằm đoàn kết các dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển đất nước, với hơn 100 văn bản pháp lý được trên 10 cơ quan nhà nước ban hành.3 “Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030” là văn bản thống nhất các chính sách này.4 Kế hoạch thực hiện đề án đã được Chính phủ ban hành vào năm 20205 và Chương trình mục tiêu quốc gia tương ứng hiện đang được soạn thảo. Tuy nhiên, vẫn còn những tranh luận về việc các chính sách này liệu có thể hiện được nhu cầu của người dân tộc thiểu số hay không. Nguồn: Tạo bởi ODV. Được cấp phép theo CC BY-SA 4.0. Hiến pháp Việt Nam công nhận quyền của người dân tộc thiểu số trong “sử dụng ngôn ngữ và chữ viết riêng, giữ gìn bản sắc dân tộc và nuôi dưỡng các phong tục, truyền thống và văn hóa tốt đẹp”. Mỗi người có “quyền tự chọn dân tộc, sử dụng tiếng mẹ đẻ và chọn ngôn ngữ để giao tiếp”. Triết lý chính trong cách tiếp cận của Chính phủ để phát triển các dân tộc thiểu số vẫn không thay đổi kể từ năm 1992: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và phát triển toàn diện”.6 Chính sách hiện nay kêu gọi phát triển chính trị, kinh tế xã hội và văn hóa một cách toàn diện ở khu vực miền núi.7 Các lĩnh vực được ưu tiên bao gồm phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, phát triển nguồn nhân lực và văn hóa và phát triển cộng đồng dựa vào nội lực.8 Về nguyên tắc, cần phải tham vấn ý kiến của người dân tộc thiểu số trong quá trình xây dựng và hoạch định chính sách, nhưng các quy trình này không dễ tiếp cận được đến với tất cả các dân tộc thiểu số. Ủy ban Dân tộc (CEMA)9 đã xác định các mục tiêu cụ thể nhằm đạt được SDGs.10 Tuy nhiên, nghiên cứu11 cho thấy những mục tiêu này khá tham vọng để đạt được. Cuộc điều tra thực trạng tình hình kinh tế xã hội của 53 dân tộc thiểu số Việt Nam 2019 (với kết quả dự kiến vào năm 2020) có thể cung cấp thêm những thông tin cập nhật để đánh giá. CEMA là cơ quan cấp bộ, đầu mối chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về các vấn đề dân tộc ở Việt Nam. CEMA có mạng lưới các đơn vị trực thuộc ở hầu hết các tỉnh và các khu vực chiến lược về địa lý hoặc khu vực có dân số người dân tộc thiểu số từ 5.000 người trở lên. CEMA có cơ quan đại diện xuống tới cấp huyện.12 Cơ quan cấp nhà nước yêu cầu có đại diện tối thiểu là người dân tộc. Tuy nhiên, ở cấp xã, phân tích định tính chỉ ra rằng mặc dù có khá nhiều người dân tộc thiểu số tham gia, hầu hết các vị trí chủ chốt đều do người Kinh nắm giữ do trình độ chuyên môn cao hơn. Điều này có thể khiến các dân tộc thiểu số gặp bất lợi về khả năng tiếp cận các nguồn lực có sẵn từ các chính sách và hỗ trợ bên ngoài khác tại các xã hoặc thôn, cũng như hạn chế tiếng nói của họ.13 Chính sách gần đây nhất của Chính phủ dành cho các dân tộc thiểu số, được ban hành năm 2016, là “Quyết định về các chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2020”.14 Ngoài ra, một loạt các Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Giảm nghèo đã được triển khai, trong đó người dân tộc thiểu số là nhóm hưởng lợi chính (Chương trình 13415, Chương trình 135 giai đoạn 116 và giai đoạn 217, Chương trình 30a18 và Chương trình giảm nghèo bền vững 2016-202019). Gần đây, Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới cũng đề cập đến các dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa. Mục tiêu tổng thể của các chính sách này là thúc đẩy giảm nghèo bền vững và thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm dân tộc và các vùng khác nhau của đất nước trong khi bảo vệ và giữ gìn văn hóa và phong tục dân tộc. Các chính sách và chương trình của Chính phủ bao trùm một loạt các chủ đề:
Những hỗ trợ này đã mang đến một số cải thiện về mức sống ở các vùng dân tộc thiểu số, đáng chú ý về: kết nối giao thông, tiếp cận các dịch vụ công cộng (giáo dục và y tế), điều kiện nhà ở và tiếp cận các tiện ích công cộng (điện, nước sạch). Tuy nhiên, không có nhiều tiến bộ trong hỗ trợ sản xuất, nâng cao năng lực, phát triển văn hóa, phát huy tiếng nói và tăng sự tham gia của người dân tộc thiểu số vào phát triển cộng đồng.20 Chẳng hạn, văn hóa và lịch sử dân tộc Kinh vẫn chiếm ưu thế trong sách giáo khoa chính thống, các sách này chỉ được in bằng tiếng Việt.21 Các dự án xây dựng đập quy mô lớn và nông nghiệp hàng hóa gây ra tác động đáng kể đến hệ sinh thái rừng cùng với việc phân bổ lại đất đai đã đẩy người dân tộc thiểu số từ lối sống dựa vào rừng sang định canh nông nghiệp và sản xuất nông lâm nghiệp. Cách tiếp cận trong việc phân bổ đất đã bỏ qua tầm quan trọng của rừng cộng đồng trong thực thành tôn giáo và truyền thống của người dân tộc thiểu số.22 Các tổ chức tài trợ, cũng như Chính phủ, đã bày tỏ quan ngại về các chương trình này như: được thực hiện từ trên xuống,23 không dựa trên sự hiểu biết đầy đủ về văn hóa và tôn giáo dân tộc thiểu số,24 được xây dựng mà không có sự tham khảo ý kiến đầy đủ với các đại diện dân tộc thiểu số,25 chồng chéo về nội dung,26 thực hiện không đầy đủ và thiếu hiệu quả. Các nhà phê bình khác cho rằng các chương trình mang tính trợ cấp này không giúp cho các dân tộc thiểu số có quyền tự quyết.27,28 Vẫn còn khoảng cách lớn về thu nhập và cơ hội giữa các dân tộc thiểu số và đa số người Kinh, đây là mục tiêu mà Chính phủ nhắm đến để giải quyết.29 Nguồn: Ngân hàng thế giới. 2019. “Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội của dân tộc thiểu số ở Việt Nam”. Đối với các dân tộc thiểu số, các chương trình này có thể có gây ảnh hưởng đến thực tế hàng ngày. Đại dịch COVID-19 đã làm rõ nét những hệ quả này. Ví dụ, sự phụ thuộc lớn vào sản xuất nông nghiệp và ít khả năng tiếp cận các lợi ích chính sách sẽ hạn chế khả năng phục hồi của các cộng đồng dân tộc thiểu số sau những cú sốc. Đại dịch đã khiến thương mại nông nghiệp chậm lại 30và việc làm phi chính thức biến mất,31 dẫn đến tình trạng mất an ninh lương thực và nghèo đói đột ngột sẽ gây khó khăn cho người dân tộc thiểu số. Ngoài ra, khoảng cách số giữa nhóm dân tộc thiểu số và nhóm dân tộc đa số đang bị khuếch đại lên do sự phụ thuộc lớn của Chính phủ vào Internet và các công cụ kỹ thuật số để duy trì công việc, kinh doanh và giáo dục, cùng các biện pháp khác để ứng phó với COVID-19. |