Cố đô Huế được xây dựng từ thời nào

Di sản thế giới là di chỉ hay di tích của một quốc gia như rừg, dãy núi, hồ, sa mạc, toà nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố… do các nước có tham gia Công ước di sản thế giới đề cử cho chương trình quốc tế Di sản thế giới, được công nhận và quản lý bởi UNESCO. Trong đó, quần thế di tích Cố đô Huế ( năm 1993) là những di tích lịch sử- văn hoá do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế ngày xưa ( Nay thuộc phạm vi của thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế- Việt Nam)

Di sản văn hoá Cố đô Huế

- Kinh thành Huế
Được khởi công xây dựng từ năm 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Các di tích trong kinh thành bao gồm: Kỳ Đài ( Hay còn gọi là Cột cờ nằm chính giữa mặt anm của kinh thành Huế thuộc phạm vi pháo đài nam Chánh cũng là nơi treo cờ của triều đình ngày xưa; Trường Quốc Tử Giám; Điện Long An là nơi nghỉ của vua sau khi tiến hành lễ Tịch điền (cày ruộng) mỗi đầu xuân. Đây cũng là nơi vua Thiệu Trị thường hay lui tới, nghỉ ngơi, đọc sách, làm thơ, ngâm vịnh; Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế giúp người tham quan một cái nhìn tổng thể về cuộc sống cung đình Huế; Đình Phú Xuân; Hồ Tịnh Tâm là một di tích cảnh quan được kiến tạo dưới triều Nguyễn; Tàng thư lâu; Viện Cơ Mật - Tam Tòa; Đàn Xã Tắc; Cửu vị thần công thần.


- Hoàng thành Huế Nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành- nơi giành cho vua và hoàng gia.

Các di tích trong Hoàng Thành bao gồm: Ngọ Môn là cổng chính phía nam của Hoàng thành Huế được xây dựng vào năm Minh Mạng 14 (1833). Ngọ Môn có nghĩa đen là Cổng giữa trưa hay Cổng xoay về hướng Ngọ, là cổng lớn nhất trong 4 cổng chính của Hoàng thành Huế; Điện Thái Hoà là cung điện nằm trong khu vực Đại Nội của kinh thành Huế; Triệu Tổ Miếu còn gọi là Triệu Miếu, được xây dựng năm Gia Long thứ 3 (1804). Miếu này nằm ở phía bắc của Thái Miếu trong hoàng thành Huế, là miếu thờ Nguyễn Kim, thân sinh của chúa Tiên Nguyễn Hoàng; Hưng Tổ Miếu là ngôi miếu thờ cha mẹ vua Gia Long, vị trí ở tây nam Hoàng thành Huế (cách Thế Miếu chừng 50 mét về phía Bắc); Thế Tổ Miếu gọi là Thế Miếu tọa lạc ở góc tây nam bên trong Hoàng thành Huế, là nơi thờ các vị vua triều Nguyễn. Đây là nơi triều đình đến cúng tế các vị vua quá cố, nữ giới trong triều (kể cả hoàng hậu) không được đến tham dự các cuộc lễ này; Cung Diên Thọ tên ban đầu là cung Trường Thọ, các tên khác là Từ Thọ, Gia Thọ, Ninh Thọ; được bắt đầu xây dựng năm 1803 để làm nơi sinh hoạt của Hoàng Thái Hậu của triều Nguyễn.


-Tử Cấm Thành
Tử Cấm Thành nguyên gọi là Cung Thành là vòng tường thành thứ 3 của Kinh đô Huế, giới hạn khu vực làm việc, ăn ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia. Các di tích trong Tử cấm thành bao gồm: Điện Kiến Trung; Điện Cần Chánh; Thái Bình Lâu; Duyệt Thị Đường

Quần thể di tích cố đô Huế là một trong những di sản văn hoá phi vật thể của nước ta đã được UNESCO công nhận. Đây là địa điểm du lịch hấp dẫn thu hút rất nhiều khách tham quan, du lịch trong và ngoài nước.

(Nguồn tham khảo: //vi.wikipedia.org)

Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lý phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hòa với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh, cồn Hến…

Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mỹ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hóa, vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế…

Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai cung, bến thuyền Cung đình, Trấn Bình đài, Trấn Hải thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn miếu, Võ miếu, Hải Vân quan,…

Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ Bắc của sông Hương, quay mặt về hướng Nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc, xung quanh có 10 cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước…

Đại nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:

- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim thủy (hào), tường bao bọc và 10 cây cầu.

- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ môn đến điện Thái Hòa, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc Khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần Đại khánh tiết của các Vua nhà Nguyễn.

- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, Thế miếu, điện Phụng tiên.

- Khu vực ăn ở của Hoàng thái hậu và Thái Hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).

- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.

- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: là nơi học tập và chơi đùa của các Hoàng tử khi chưa xuất phủ.

- Khu vực Tử Cấm Thành: là chốn cung cấm, dành riêng cho Vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.

Ngọ môn: là cổng chính phía Nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.

Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối ‘‘trùng thiềm điệp ốc’’, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn...

Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hoá. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:

- Lăng Minh Mạng (Hiếu lăng): trên núi Cẩm Khê, xã Hương Thọ, đựợc xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: tẩm điện, Tam tài sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt...;

- Lăng Tự Đức (Khiêm lăng): ở xã Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La thành và các cổng, Chí Khiêm đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh Hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm...

Đàn Nam Giao: ở phía Nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1807. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390m, chiều rộng 265m, gồm các hạng mục: Đàn tế, Trai cung, Thần trù, Thần khố...

Văn Miếu: ở bờ Bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500m về phía Tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng Nam, bao gồm các hạng mục: Văn miếu, Đông vu, Tây vu và dãy nhà bia.

Hổ Quyền: ở địa phận xã Thủy Biều, xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.

Bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị và mang tầm vóc quốc tế, trong khu vực Cố đô Huế còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị, tiêu biểu như đồ gốm, sứ, tác phẩm nghệ thuật…Ngoài ra, Cố đô Huế còn là một trung tâm văn hóa chứa đựng nhiều di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc, bao gồm sinh hoạt văn hóa cung đình, lễ hội cung đình, âm nhạc và vũ đạo cung đình, cùng các ngành nghề thủ công truyền thống...

Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/08/2009).

Cảnh Toàn (Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, tư liệu Cục Di sản văn hóa)

Video liên quan

Chủ đề