Lãng mạn trong văn học là gì

Chương 1: Khái quát chung về văn học lãng mạn Đây là một trong những trào lưu văn hóa lớn nhất ở Âu – Mĩ vào cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX, có ảnh hưởng và có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của văn học toàn thế giới. 1. **Cơ sở hình thành

  1. Cơ sở xã hội** Thời đại của chủ nghĩa lãng mạn là một thời đại đặc biệt giàu biến động (riêng nước Pháp, một trung tâm quan trọng của nền văn học châu Âu, vào đầu thế kỉ đã trả qua hai mươi lăm năm liền cách mạng và chiến tranh liên tiếp). Cuộc đại cách mạng tư sản năm 1789 đánh đổ chế độ phong kiến, thiết lập chế độ tư sản là một bước ngoặt lịch sử vĩ đại, không những đối với nước Pháp, mà còn đối với cả châu Âu. “ Cả thế kỉ XIX diễn ra dưới khẩu hiệu của cách mạng Pháp ” (Lê Nin). Sự sụp đổ của chế độ phong kiến, và sự kiến tạo những quan hệ xã hội mới đã tác động sâu xa đến tư tưởng, tình cảm của mọi tầng lớp xã hội. Một mặt, cách mạng tư sản đã làm dấy lên sự bất mãn của những người đại biểu cho ý thức hệ quý tộc, bất bình trước trật tự xã hội mới, lo sợ trước phong trào quần chúng, hoang mang dao động vì tương lai mờ mịt, luyến tiếc thời oanh liệt nay không còn nữa. Mặt khác, xã hội tư bản ra đời cũng vấp phải sự chống đối của nhiều tầng lớp nhân dân lao động. Không phải họ chống lại lý tưởng của cách mạng, mà chỉ bất bình với những thành quả thực tế của cách mạng. Cách mạng tư sản đã giương cao khẩu hiệu đem lại “tự do – bình đẳng – bác ái” cho con người. Nhưng khi giai cấp tư sản trở thành ông chủ của xã hội mới, họ đã quy định lại nội hàm của những khái niệm này: Ai có tiền người ấy có tự do; không có tiền phải bán sức lao động. Xã hội trở thành một đấu trường khốc liệt, nơi diễn ra những cảnh cá lớn nuốt cá bé. Thương trường là đấu trường, quan hệ giữa người với người là quan hệ tiền nong sòng phẳng đến ghê rợn. “ Phương châm bác ái được thực hiện bằng những sự lừa bịp và đố kị trong cạnh tranh... Thay cho thanh kiếm, đồng tiền đã trở nên đòn bẩy quan trọng nhất của xã hội” (Ăngghen). Tâm lý thời đại dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn là sự vỡ mộng của nhiều tầng lớp nhân dân trước cơ chế xã hội mới. Nếu như chủ nghĩa hiện thực nhìn thẳng vào thực tại với thái độ phê phán; văn học cách mạng nhìn vào thực tại với mong muốn cải tạo thế giới; thì chủ nghĩa lãng mạn khi không bằng lòng với thực tại, đã khát khao vươn tới một xã hội lý tưởng trong mơ ước. Tóm lại: Sự sụp đổ của thể chế phong kiến, sự thắng lợi của quan hệ xã hội tư sản và lòng bất bình của nhiều tầng lớp, giai cấp đối với trật tự xã hội mới là tiền đề lịch sử của nền văn học lãng mạn châu Âu. Pha-ghê, một nhà nghiên cứu văn học Pháp đã viết rằng: “Cơ sở của chủ nghĩa lãng mạn là sự ghê tởm đối với thực tại và nguyện vọng mãnh liệt muốn thoát ra khỏi thực tại đó.” 1. Cơ sở ý thức Chủ nghĩa lãng mạn ra đời còn do sự tác động của chủ nghĩa xã hội không tưởng, mơ ước mang đến một tương lai hạnh phúc, tốt đẹp cho con người. Thêm vào đó, triết học duy tâm cổ điển Đức cũng có mối liên hệ mật thiết với sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn, ngay cả với chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Bởi vì như Mác và Ăngghen đã nói, trong thời đại tư bản “khi mà những mối quan hệ phổ biến đối với nhau giữa các dân tộc đang phát triển, thay thế cho tình trạng cô lập trước kia giữa các dân tộc vẫn tự cung tự cấp” thì “những thành quả tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản). Sự thực thì chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức, tự bản thân nó cũng là một trào lưu lãng mạn trong triết học. Đặc biệt chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Căng đã nâng tâm linh con người lên

thơ không phải là cây đàn Lia bảy dây quy ước, mà là những thớ của con tim đang thổn thức.” Đó là cơ sở cho sự phát triển của một thể loại đặc sắc trong văn học, đó là thơ, đặc biệt là thơ trữ tình. Nếu chủ nghĩa cổ điển đề cao cái ta lỗi thời thì chủ nghĩa lãng mạn đề cao cái tôi cá nhân. Con người có điều kiện bộc lộ vẻ đẹp của riêng mình. Đó chính là một hình thức đề cao con người. Nhưng cái tôi ở đây không phải là cá nhân riêng tư của một người nào, mà là tiếng lòng của cả một thời đại. Cái tôi mang một phẩm chất mới, cái tôi cộng đồng, tập thể. Bởi vậy, tiếng nói của trái tim mới đến được với trái tim và văn học lãng mạn đã trở thành món ăn tinh thần của cả thời đại. V. Huy-gô đã nói: “ Ôi, con người khờ khạo. Anh không biết rằng tôi đang nói về tôi, chính là đang nói về anh đó ”. Ở Việt Nam những năm 1932 – 1945 đã diễn ra một cuộc cách mạng trong thi ca, với sự xuất hiện của phong trào thơ Mới lãng mạn. Thơ Mới được hiểu là thơ đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức. Nội dung đổi mới bao gồm: đổi mới cả tư duy và thi pháp thơ. Thơ Mới là thơ của cái tôi cá nhân cá thể, lần đầu tiên xuất hiện trên thi đàn Việt Nam. Cái tôi có ý thức về sự tồn tại của chính nó. Tinh thần của thơ Mới là ở cái Tôi cá nhân. Thơ Mới đã làm cho cái Tôi bộc lộ hết sức phong phú, hấp dẫn như một bản lĩnh tích cực trong cuộc sống, như một chủ thể sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật. Lần đầu tiên trong lịch sử thi ca Việt Nam, xuất hiện một cái tôi cá thể hóa trong cách cảm thụ tự nhiên và thế giới. Nền văn học trung đại tồn tại và phát triển trong khuôn khổ của ý thức hệ phong kiến chủ yếu là một nền văn học phi ngã. Xã hội phong kiến không chấp nhận con người đề cao cái tôi, đề cao bản ngã. Văn xuôi lãng mạn ra đời đã góp phần đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, nhất là giải phóng người phụ nữ ra khỏi sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Thơ Mới lãng mạn ra đời cũng mang theo một cái tôi cá nhân, một cái tôi cá thể hóa trong cảm thụ thẩm mĩ. Cái tôi trong thơ Mới, ở một chừng mực nào đó, đã nói lên một nhu cầu lớn về mặt giải phóng tình cảm, phát huy bản ngã, tự do cá nhân. Nó làm cho tâm hồn con người được mở rộng, ngày càng phong phú hơn. “Ngày thứ nhất – ai biết đích ngày nào – chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân” (Hoài Thanh – Thi nhân Việt Nam). Lần đầu tiên trong 13 năm trời xuất hiện nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo đến như vậy. Sự giải phóng cái tôi của chủ thể sáng tạo đã làm mở ra một thời kỳ văn học với những bông hoa giàu hương sắc: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Xuân Diệu – nhà thơ “ mới nhất trong các nhà thơ Mới ” (Hoài Thanh) luôn khao khát khẳng định cái Tôi. Với Xuân Diệu, sự tồn tại của cái Tôi được đẩy lên với ý nghĩa tuyệt đối của nó. Thơ Xuân Diệu tràn ngập chữ “tôi”, 25/47 bài trong tập “Thơ thơ” xuất hiện chữ tôi ( tôi buồn, tôi nhớ, tôi sung sướng, tôi không chờ, tôi là con nai,...). Cái tôi được khai thác, biểu hiện ở nhiều cung bậc tình cảm, nhiều trạng thái cảm xúc. Nhà thơ luôn có nhu cầu bộc bạch, phơi trải lòng mình một cách thành thực nhất, táo bạo nhất:

  • Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ Mà vạn vật là muôn đá nam châm
  • Tôi là con chim đến từ núi lạ
  • Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi

.......

Có thể nói sự chân thực, độ nồng nàn của cảm xúc đã tạo nên sức hút riêng, cái duyên riêng của Xuân Diệu đối với bạn trẻ, khiến cho thơ ông được đón nhận một cách nhiệt liệt. Và chính thi sĩ đã tâm sự: “ Tôi gửi tâm hồn tôi cho những người trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng”. Điều tạo nên cái “mới nhất” của Xuân Diệu so với các nhà thơ mới là Xuân Diệu luôn khẳng định cái tôi trong quan hệ gắn bó với cuộc đời trần thế. Thế Lữ nuôi giấc mộng lên tiên, Lưu Trọng Lư ru người đọc nhập vào thế giới mộng mơ, hư ảo, “cảnh không có ở thời nay mà cũng không có ở thời nào” (Hoài Thanh). Đến Xuân Diệu, thi nhân đã gạt bỏ giấc mộng sầu man mác của Lưu Trọng Lư, những nuối tiếc về một thời oanh liệt của Thế Lữ, Huy Thông, Xuân Diệu say sưa khẳng định cái tôi đứng giữa cuộc đời, Xuân Diệu đã xây lầu thơ “trên đất của một tấm lòng trần gian” (Thế Lữ) bằng những vật liệu thực của trần gian. Xuân Diệu là con người của cuộc đời, một người ở giữa muôn người. Quá trình khẳng định cái tôi của thi sĩ diễn ra song song với quá trình khẳng định ý nghĩa của cuộc sống hiện tại. Nói như Hoài Thanh: “Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Thi sĩ là người duy nhất tìm được lối thoát cho cái tôi cá nhân giữa cõi trần ai:

  • Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn Làm dây da quấn quýt cả mình xuân Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất. Những vần thơ rạo rực men say của thi sĩ họ Ngô đã thể hiện được một cách sinh động đặc trưng của văn học lãng mạn. Xuất phát từ khát khao khẳng định cái tôi cá nhân, trong văn học lãng mạn phương Tây xuất hiện cảm hứng ra đi****. Và cảm hứng này cũng tràn vào văn học lãng mạn Việt Nam trong các tác phẩm như: “ Đoạn tuyệt ” (Khái Hưng), “ Giây phút chạnh lòng ” (Thế Lữ), “ Tống biệt hành ” của Thâm Tâm... Tuy cùng khai thác về một chủ đề, nhưng những sáng tác về cảm hứng ra đi đã thể hiện rõ cách ứng xử khác nhau của con người phương Đông và phương Tây. Ở phương Tây, ý thức cá nhân được hình thành từ rất sớm, ngay từ khi mới chào đời những em bé đã ngủ riêng giường với cha mẹ, và lớn lên người phương Tây luôn có óc phiêu lưu mạo hiểm, đi để khẳng định cá tính, để khám phá thế giới. Con người không lệ thuộc quá nhiều vào gia đình. Nhưng ngược lại, con người Việt Nam sống trong hai cộng đồng, nhỏ là gia đình, rộng là làng nước. Cái tôi cá nhân của ta chìm đắm trong cộng đồng như giọt nước hòa vào biển cả. Con người Việt Nam nói riêng và người phương Đông nói chung ý thức cá nhân yếu hơn phương Tây. Những rường mối nghiệt ngã đã thủ tiêu con người cá nhân (vua xử thần chết, thần không chết là bất trung; cha bảo con chết, con không chết là bất hiếu, cha mẹ còn sống con không được đi xa...). Hơn nữa, do người Việt Nam luôn mang nặng trong tim tình yêu quê hương, gia đình, khi đi xa luôn khắc khoải nhớ về nơi chôn rau cắt rốn. Người ly khách trong “ Tống biệt hành ” của Thâm Tâm khao khát ra đi để khẳng định cái tôi, khát vọng lên đường để thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc nhưng trong anh luôn diễn ra sự giằng xé giữa khát vọng lên đường và tình cảm gia đình sâu nặng. Người ra đi được gọi bằng từ “ly khách” trang trọng, mang dáng dấp của những đấng trượng phu thuở xưa, một trang nam nhi mang chí lớn, ôm ấp một sự nghiệp lớn: “Li khách! Li khách! Con đường nhỏ, Chí nhớn chưa về bàn tay không, Thì không bao giờ nói trở lại Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.” Khổ thơ mang âm hưởng trầm hùng, với nhịp điệu dồn dập, từ ngữ rắn rỏi, đặc biệt là một loạt từ ngữ mang ý nghĩa phủ định ( chưa, không, đừng ), đã diễn tả quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn. Gia cảnh nặng nề, đáng lẽ anh phải ở nhà để gánh vác gia đình, mới làm tròn bổn phận. Nhưng anh lại là một

đau khổ cả lúc đi lẫn lúc nghỉ, ơi ta ơi là ta ơi ”. Ảnh hưởng thuyết siêu nhân của Nitsơ: siêu nhân là phải biết tàn nhẫn, phải biết vượt lên thứ luân lý của tình thương, Bạch thích lên giọng khinh bỉ tình cảm gia đình, những kẻ lên đường bịn rịn, những cuộc tiễn đưa sụt sùi nước mắt. Nhưng thực tế anh ta vẫn rất nặng lòng với gia đình. Đối với cha, anh ta phải thú nhận: “ Lòng thương cha, ai mà không nặng ”. Còn đối với vợ, anh ta tìm cách bới móc mọi khuyết điểm của vợ để có thể li dị, nhưng rồi anh ta lại nhận ra điều đó “thật không xứng đáng một tí nào với cái vẻ ngây thơ, thành thực của vợ chàng”. Như vậy, khác với nhân vật trong văn học phương Tây, họ sẵn sàng thoát ly gia đình để được sống phiêu lưu, mạo hiểm, để khẳng định cái tôi. Nhân vật của Nguyễn Tuân vẫn mang nặng tình cảm của con người Việt Nam, thoát ly gia đình nhưng vẫn nặng lòng với người thân. Đáng trân trọng hơn, họ xê dịch quẩn quanh, lẫn vào thú giang hồ lãng tử, nhưng trong lòng vẫn “ yêu thương mà ngợi ca đất nước muôn vẻ muôn màu của mình ”, và ghi lại những phong cảnh tuyệt đẹp của giang sơn Tổ quốc, trên mỗi bước đường đi qua đều đặt cả tâm hồn mình vào cỏ cây sông nước. Nhân vật của Nguyễn Tuân chính là hình bóng của nhà văn. “ Con người luôn cảm thấy “thiếu quê hương” ấy, thực sự lại gắn bó tha thiết với quê hương mình bằng biết bao sợi dây tình cảm tế nhị. Mà chính vì tha thiết với quê hương nên mới cảm thấy bơ vơ trong hoàn cảnh mất nước và mới có tâm trạng khắc khoải day dứt “thiếu quê hương... Đó là một tấm lòng An Nam hoàn toàn ” (Nguyễn Đăng Mạnh). Sức hấp dẫn, giá trị muôn đời của những trang văn Nguyễn Tuân là ở đó. Qua sự phân tích một số ví dụ ở trên đã cho chúng ta thêm căn cứ để hiểu sâu sắc hơn đặc trưng đầu tiên của chủ nghĩa lãng mạn, đó là đề cao tình cảm của cá nhân con người, hiểu con người là một “tiểu vũ trụ” với sự phong phú, vô bờ bến của tâm hồn và trí tuệ. 2. Nhân vật trung tâm Nhân vật là hình ảnh con người được miêu tả cụ thể trong tác phẩm. Nhân vật luôn là phương tiện để nhà văn phản ánh hiện thực và ký thác tư tưởng tình cảm của mình. Mỗi phương pháp sáng tác lại có kiểu nhân vật đặc trưng. Nếu như chủ nghĩa hiện thực phê phán xây dựng được những nhân vật điển hình sắc nét, thì nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn lại có vẻ đẹp phi thường, độc đáo. 2. Kiểu nhân vật cô độc Kiểu nhân vật đặc trưng của văn học lãng mạn được thai nghén từ sự đấu tranh giữa cá nhân và xã hội. Đó là những người bất mãn với thực tại thối nát của xã hội tư sản. Họ không chấp nhận và chối bỏ xã hội. Ngược lại, xã hội cũng chối từ những con người ấy. Mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội là mâu thuẫn không thể giải quyết. Nhưng họ chỉ là những con người đấu tranh đơn độc, những con người cô độc. Trong cuộc đấu tranh ấy, phần thắng không thuộc về cá nhân. Nhưng những người anh hùng đơn độc ấy vẫn kiên quyết không từ bỏ lý tưởng của mình. Vì vậy họ thường mang vẻ mặt u buồn, không cười. Tiêu biểu cho kiểu nhân vật này là Ăng-giôn-rax trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của Vô. Vẻ đẹp của anh đã được nhà văn lý tưởng hóa cao độ. Theo quan điểm của Huygô, Ăng-giôn-rax là biểu tượng trọn vẹn cho cái cao cả, là lý tưởng của cách mạng. Và để hiển minh điều đó, nhà văn đã thể hiện nhân vật với những nét tuyệt đối và đặc biệt: “Vừa là đao phủ, vừa là thánh tăng, vừa là ánh sáng, vừa là pha lê ”, lại “ cứng như tảng đá ”. Anh mang vẻ đẹp trẻ trung, thần thánh, là mẫu người anh hùng lý tưởng nhưng luôn mang “ vẻ buồn trang nghiêm ” của những người anh hùng đơn độc, khao khát đấu tranh với xã hội tư sản tàn ác để đem lại ấm no cho “những người khốn khổ”. Ăng-giôn-rax là người hy sinh cuối cùng trên chiến lũy với tám phát đạn. Chi tiết đó gợi cho ta liên tưởng đến hình tượng Chúa đóng đinh trên cây thánh giá để chuộc tội cho thiên hạ. Ăng-giôn-rax là biểu tượng cho những con người sẵn sàng hy sinh vì hạnh phúc của mọi người. Điều đặc biệt, những nhân vật này vẫn tự hào và đầy kiêu hãnh, ở họ toát lên vẻ đẹp kiêu kỳ. Nhân vật lãng mạn gắn liền với chữ KIÊU:

Ta là một, là riêng, là thứ nhất Không có chi bè bạn nổi cùng ta ............. Ta bỏ đời mà đời cũng bỏ ta Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thê tuyệt. (Hi Mã lạp sơn – Xuân Diệu) Xuân Diệu – thi sĩ đại diện đầy đủ nhất cho thời đại chữ Tôi đã tự ví mình với đỉnh Himalaya, ngọn núi cao nhất thế giới thật kì vĩ biết bao, nhưng cũng cô độc biết nhường nào! 2. Kiểu nhân vật tướng cướp – nhân vật nổi loạn Trong những tác phẩm văn học lãng mạn còn xuất hiện kiểu nhân vật tướng cướp – nhân vật nổi loạn , nhưng là những tên cướp cao thượng, mang tính lý tưởng: lấy hành động của mình để cưu mang, cứu vớt đời. Đó là những con người thừa “đầu thai nhầm thế kỉ”. Các nhà văn lãng mạn tích cực đều mang thái độ bất mãn sâu sắc với xã hội tư sản. Họ nhận thức được rõ ràng cái xã hội mới đáng lẽ cho phép từng người biểu lộ tài năng của mình và “ tham gia vào sự thay đổi thế giới ”, thì về thực chất lại là “ một xã hội đã bị chắn ngang do sự tàn bạo của đồng tiền, sự tàn bạo này còn khắc nghiệt hơn cả sự tàn bạo của đẳng cấp và của giống nòi xưa kia ”. Nhận thức sáng suốt đó về thực tại không hề thủ tiêu ý chí của nhân vật trung tâm trong chủ nghĩa lãng mạn tích cực. Gắn bó với ước vọng của nhân dân về một xã hội tốt đẹp hơn, hầu hết các nhà lãng mạn tích cực đều đã thể hiện trong tác phẩm của mình “ giấc mơ về hành động thực tế của cá nhân, về chỗ cá nhân có thể thâm nhập vào thế giới và làm thay đổi được nó .” Nhân vật của họ thường là nhân vật phi thường, con người nổi loạn. Họ nổi loạn để tạo ra chỗ đứng của mình, nổi loạn để thế giới phải chú ý tới họ, nổi loạn để chống lại bất công, tiêu diệt cái ác, cho dù là đơn độc. Những con người này thường sống ngoài rìa pháp luật, sống ngoài xã hội, vì vậy đã buồn họ lại càng buồn hơn. Trong kịch của Huygô, chúng ta thường bắt gặp kiểu nhân vật này, mà tiêu biểu là Hecnani trong vở kịch cùng tên. Lần đầu tiên một nhà soạn kịch Pháp đã táo bạo đưa lên sân khấu nhân vật tướng cướp, mà lại là nhân vật chính. Một con người sống ngoài vòng pháp luật, cùng đồng đảng tung hoành khắp xứ, bị triều đình truy lùng mọi nơi. Nhưng đây không phải “tướng cướp” hiểu theo nghĩa thông thường, mà là kẻ “nổi loạn chính trị” có mối thù không đội trời chung với vua Tây Ban Nha. Con người “nổi loạn” ấy có những phẩm chất tốt đẹp, ý chí căm thù sâu sắc, tinh thần kiên cường bất khuất trong đấu tranh, tâm hồn cao thượng trong tình yêu... Những nhân vật này thể hiện thái độ chống đối của nhà văn đối với các chế độ Trung hưng và Quân chủ tư sản. Tuy nhiên, nhà văn chưa nhìn thấy sự thắng lợi tất yếu của các lực lượng dân chủ trong một tương lai không xa, hơn nữa V. Huygô lại chủ trương con đường hoà giải mâu thuẫn thay thế cho đấu tranh cách mạng quyết liệt để tiêu diệt cái ác, và con người phải biết dẹp hằn thù, mở rộng lòng khoan dung, kìm chế dục vọng. Do đó, nhân vật “nổi loạn” của ông thường dừng lại giữa đường khi chưa hoàn thành sự nghiệp (Hecnani) hoặc đi đến kết thúc bi thảm (Ruy Blax trong vở kịch cùng tên...). Đó chính là mặt hạn chế của Vô. Nhưng dẫu sao những nhân vật “nổi loạn” của nhà soạn kịch lãng mạn này vẫn để lại trong lòng người thiện cảm tốt đẹp, bởi gốc rễ nhân đạo sâu sắc trong tâm hồn Vô. Soi vào văn học lãng mạn Việt Nam chúng ta thấy, Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân cũng mang dáng dấp của nhân vật nổi loạn. Huấn Cao thuộc loại nhân vật chân dung – tư tưởng. Đây là một chân dung sắc sảo được xây dựng theo lối lý tưởng hóa của một ngòi bút lãng mạn. Vì vậy, Huấn Cao nổi lên với vẻ đẹp phi thường, khác lạ. Cả tài hoa, thiên lương, lẫn khí phách của ông đều rất phi thường. Huấn Cao là một hào kiệt kiên cường, bất khuất, dám đứng lên chống lại triều đình phong kiến. Việc lớn không thành, ông bị bắt và sắp bị hành hình. Nhưng ông

văn, người đọc không thể nào quên câu nói cuối cùng của ông với Cô-det và Mariuyt: “ Trên đời này chỉ có một điều ấy thôi, đó là yêu thương nhau ”. Mặc dù quan niệm của tác giả có phần ảo tưởng: dùng tình thương để cảm hóa thế giới tàn ác, nhưng Giăng-Văn-Giăng vẫn là hình tượng nhân vật phi thường trong trái tim và khát vọng cứu vớt nhân loại khổ đau. Vì vậy, thiên tiểu thuyết đẹp như một “ bài thơ về lương tâm con n gười”. Chính khát vọng vươn tới cái phi thường, cái cao cả đã tạo nên sự tài hoa trong ngòi bút và tầm vóc vĩ đại của một nhà “nhân đạo từ trong cốt tủy”, cây đại thụ của chủ nghĩa lãng mạn Pháp đã toả bóng gần khắp thế kỷ XIX – V-gô. 4. Nghệ thuật tương phản Theo nhận xét của các nhà phê bình, thì nghệ thuật lãng mạn có khả năng dung nạp rộng rãi các thủ pháp nghệ thuật đặc thù như tương phản, cường điệu, trữ tình ngoại đề, sự đối lập giữa cái trác việt (sublime) và cái thô kệch (grotesque)... Trong đó, một trong những thủ pháp đem lại hiệu quả nghệ thuật cao nhất cho những tác phẩm văn học lãng mạn chính là nghệ thuật tương phản với những cấp độ đa dạng. “Tinh thần lãng mạn chính là sự nối kết liên tục các yếu tố đối kháng nhau: Tự nhiên và nghệ thuât, thơ ca và văn xuôi, sự nghiêm túc và thú vui, kỷ niệm và dự cảm, tư tưởng trừu tượng và những cảm giác sống động, sự sống và cái chết... hòa lẫn với nhau một cách mật thiết trong thể loại lãng mạn” (A Sleigel). 4. Tương phản trong xây dựng hình tượng nhân vật 4.1. Tương phản trong một nhân vật Dưới ngòi bút của các tác giả lãng mạn, nhân vật nhiều khi là sự thống nhất hài hòa của nhiều mặt đối lập: giữa ngoại hình và phẩm chất, giữa quá khứ và hiện tại,... Chúng ta không thể không kể đến nhân vật Huấn Cao trong “ Chữ người tử tù ” của Nguyễn Tuân, đó là sự kết hợp giữa một nghệ sĩ tài hoa và một anh hùng “ bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất ”. Hay Ka-di-mô-đô trong “ Nhà thờ đức bà Pari” có vẻ bề ngoài vô cùng xấu xí, nhưng tâm hồn lại cao đẹp, thánh thiện... Trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ”, V-gô đã triệt để khai thác vẻ đẹp của nghệ thuật tương phản. Với bút pháp này, nhà văn đã tạo ra kiểu nhân vật đặc trưng – nhân vật kép, nhân vật phức hợp. Giăng-Văn-Giăng vừa là một người tù khổ sai, vừa là một vị thánh, điều này đã biến “Những người khốn khổ” trở thành bản anh hùng ca của lương tâm con người. Bởi tác phẩm đã bộc lộ quá trình con người đi từ bóng tối ra ánh sáng, đấu tranh với chính mình để vươn tới sự hoàn thiện. Qua đó, V. Huy-gô đã nhắn gửi tới người đọc triết lý nhân sinh sâu sắc: muốn cứu đời, cứu người trước hết phải vượt qua được cái ác trong chính bản thân mình. 4.1. Tương phản giữa hai nhân vật Trong nhiều tác phẩm lãng mạn, luôn có sự song hành của hai nhân vật đối lập nhau, qua đó tư tưởng của tác giả được bộc lộ sắc nét. Chắc hẳn chúng ta không thể quên cặp nhân vật xung đột nhau gay gắt là Giăng-Văn-Giăng và Gia-ve trong “ Những người khốn khổ ”, một người tiêu biểu cho những con người khốn cùng, còn người kia đại diện cho quyền lực của xã hội tư bản. Một người là thánh nhân luôn tìm cách bênh vực bao kiếp đời bé nhỏ, còn kẻ kia là tên mật thám chó săn luôn rình rập để bắt bớ, hành hạ những mảnh đời yếu đuối... Hay trong “ Chữ người tử tù ” của Nguyễn Tuân, bút pháp tương phản đã góp phần tạo nên tình huống truyện độc đáo, đầy oái oăm và bi kịch: cuộc kì ngộ của hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục. Trên bình diện chính trị xã hội, họ là những kẻ đối địch, có địa vị hoàn toàn đối lập với nhau. Một người là tên “đại nghịch”, cầm đầu cuộc nổi loạn chống lại triều đình, nay bị bắt giam, đang chờ ngày ra pháp truờng để chịu tội. Còn người kia lại đại diện cho bộ máy cai trị trong xã hội đương thời, có nhiệm vụ quản thúc, hành hạ tử tù của triều đình. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, cả hai nhân vật này đều là những con người có tâm hồn nghệ sĩ, họ là tri âm, tri kỉ với nhau. Một người có tài viết chữ đẹp – một nhà thư pháp nổi tiếng, người kia suốt đời ngưỡng mộ cái tài ấy, bất

chấp cả sự an nguy về tính mạng của mình và gia đình mình, miễn là có chữ của Huấn Cao để thỏa lòng mong ước. Ở một khía cạnh khác, tình huống này còn là sự đối mặt giữa hai kiểu nhà tù, hai kiểu tù nhân. Huấn Cao – một người hoàn toàn tự do về nhân cách nhưng đã mất mọi quyền, kể cả quyền sống. Quản ngục hoàn toàn tự do về thân thể, nhưng lại bị cầm tù về nhân cách. Hoàn toàn có thể coi đây là cuộc gặp gỡ giữa một tử tù Huấn Cao và người bị cầm tù chung thân ngay trong môi trường sống của mình. Chọn tình huống này, nhà văn đã đặt quản ngục vào một sự lựa chọn có tính xung đột: hoặc làm tròn bổn phận của một ông quan thì phải chà đạp lên tấc lòng tri kỉ, hoặc muốn trọn đạo tri kỉ thì phải phản lại bổn phận của một viên quan, bất chấp phép tắc nhà tù, và những quy định của luật pháp triều đình. Quản ngục hành động theo hướng nào, tư tưởng của truyện sẽ nghiêng theo hướng ấy. Theo cách thứ nhất, chiến thắng sẽ thuộc về sự tầm thường, đê tiện, độc ác. Theo cách hai, thì cái đẹp sẽ chiến thắng. Liệu quản ngục có dám thủy chung với tấc lòng tri kỉ, có dám coi thường bổng lộc và sự an toàn tính mạng của cá nhân và gia đình mình hay không? Quản ngục có thể thoát khỏi cái nhà tù vô hình vẫn cầm tù nhân cách của mình hay không? Có dám sống đúng là mình hay không? Tình huống truyện có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc tiếp tục theo dõi câu chuyện. Như vậy, nghệ thuật tương phản có vai trò quan trọng trong việc tạo tình huống và khắc họa chân dung nhân vật. 4.1. Tương phản giữa nhân vật và hoàn cảnh Trong các tác phẩm văn học, con người không chỉ là “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, mà chân dung nhân vật còn hiện lên sinh động trong mối quan hệ với môi trường xung quanh. Đến với văn xuôi lãng mạn, hẳn chúng ta đều đặc biệt ấn tượng với sự thù địch giữa nhân vật và hoàn cảnh. Đọc “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, đôi khi chúng ta chỉ chú ý tới nhân vật trung tâm – Huấn Cao mà lãng quên nhân vật quản ngục. Bởi vậy, nhiều người đã không nhận ra rằng quản ngục cũng là hình tượng mà nhà văn đã dồn rất nhiều tâm huyết để khắc họa. Quản ngục là nhân vật nghiêng về chân dung và được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn. Ở nhân vật này, có sự tương phản giữa cái tâm trong sáng với môi trường sống bẩn thỉu, và cái nghề thất đức. Quản ngục phải sống trong một môi trường đầy oái oăm, trớ trêu – nơi mà “ người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc ”. Nguyễn Tuân đã nhận xét: “ Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điển tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt ”. Tuy nhiên, vượt lên trên hoàn cảnh, quản ngục vẫn là một người có tâm điển tốt, tiềm ẩn những phẩm chất đáng quý, “ là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Ông đã dám sống đẹp, dám làm chính mình và luôn hiện lên là một người tri kỉ với Huấn Cao. Là một người có sở thích cao quý. Mong mỏi suốt đời của quản ngục là “ một ngày kia được treo ở nhà riêng của mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Vẻ đẹp của quản ngục hiện lên ở thái độ sùng kính Huấn Cao, qua hành vi chắp tay vái người tù một cái, nghẹn ngào nói trong nước mắt: “ Kẻ mê muội này xin bái lĩnh “. Có cái cúi đầu làm cho con người ta trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con người trở nên đê tiện. Nhưng cũng có cái cúi đầu làm cho con người ta trở nên cao cả hơn, sang trọng hơn. Đó là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Viên quản ngục vái lạy Huấn Cao gợi chúng ta liên tưởng tới cái cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai: “ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa “. Như vậy, những dẫn chứng sinh động đã phân tích ở trên cho chúng ta thấy, nghệ thuật tương phản có ý nghĩa to lớn trong việc khắc họa sinh động hình tượng nhân vật của các nhà văn lãng mạn. 4. Tương phản trong nghệ thuật dựng cảnh Trong tác phẩm, hình tượng con người luôn hiện lên sinh động trên một nền cảnh nào đó. Vì vậy, việc xây dựng bối cảnh cho sự xuất hiện của nhân vật đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn và thành

một vị khách quan trọng. Trong phòng ăn của giám mục lúc đó, nhà văn đã để hai đồ vật bên cạnh nhau: bộ đồ ăn bằng bạc và hai cây đèn. Đây là hai chi tiết đối lập nhau về ý nghĩa. Nếu như bộ đồ ăn bằng bạc tượng trưng cho giá trị vật chất, thì hai cây đèn lại tượng trưng cho ánh sáng, cho giá trị tinh thần cao quý, có ý nghĩa khai tâm cho con người. Nhưng Giăng-Văn-Giăng chỉ lấy cắp đi bộ đồ ăn bằng bạc. Bởi vì, anh ta lúc đó chưa được khai tâm, chưa được cảm hóa, nên theo tiếng gọi của bản năng, anh chỉ nghĩ đến những giá trị vật chất có thể đảm bảo cho sự sinh tồn của anh ta. Sau khi bị bắt và buộc phải quay lại nhà thờ để đối chất, giám mục Mi-ri-en đã tặng anh hai cây đèn. Đây là biểu tượng cho ánh sáng của tình yêu thương đã cảm hóa Giăng-Văn-Giăng, soi đường cho anh trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, hai chi tiết tương phản này đã thể hiện được cuộc đấu tranh giữa bản năng, dục vọng và cái cao cả, hoàn thiện trong tâm hồn con người. Không chỉ trong tiểu thuyết, mà với truyện ngắn lãng mạn, các nhà văn luôn rất dụng công khi xây dựng những chi tiết “cô đúc”, “mang nhiều ẩn ý”. Đến với “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, người đọc đặc biệt ấn tượng với hai chi tiết tương phản là bóng tối và ánh sáng. Bóng tối là chi tiết nghệ thuật đầy ám ảnh đè nặng lên cảnh vật và con người. Bóng tối đến với tiếng trống thu không, với những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, với dãy tre làng trước mặt đen lại. Ánh sáng của ban ngày vẫn còn nhưng yếu thế. Bóng tối mới xuất hiện nhưng bắt đầu lấn át ánh sáng. Rồi từng bước từng bước bóng tối đậm dần, ngập dần, lan tràn và ngự trị cả phố huyện: Các đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối... Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối ngập tràn đôi mắt Liên, chị đã quen lắm với đêm tối. Mọi hoạt động của con nguời đều bắt đầu từ chiều tối tới tận đêm khuya. Không dưới 30 lần hình ảnh bóng tối xuất hiện, bóng tối như một cái gì hãi hùng đang xâm lấn, luồn lách vào mọi cảnh vật, bủa vây mọi con người. Nó tạo nên không gian đen đặc cho bức tranh phố huyện. Bóng tối trở thành nỗi ám ảnh về một cuộc sống tối tăm, bế tắc, ngao ngán. Đối lập với bóng tối tràn lan, đậm đặc là hình ảnh ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt, được miêu tả rất khe khắt, hiếm hoi và đơn độc, chỉ là những khe sáng, hột sáng, quầng sáng, vệt sáng, chấm lửa ,... không đủ để soi sáng không gian, mà còn tô đậm thêm bóng đêm đậm đặc, mênh mông của phố huyện. Nếu ánh sáng, âm thanh là biểu tượng của sự sống, thì bóng tối, sự tịch mịch là biểu tượng của hư vô, của cái chết. Cuộc sống hiện tại của chị em Liên là phố huyện ngập chìm trong đêm tối, nghĩa là sự sống đang hụt hơi, hấp hối như một miền đời quên lãng, một vùng đất chết, thiếu vắng sự sống. Như vậy, hai chi tiết đối lập này đã góp phần thể hiện được sâu sắc thông điệp của Thạch Lam: hãy đem đến cho con người một cuộc sống khác, hãy đem đến cho hai đứa trẻ một tương lai khác, hãy cứu lấy những đứa trẻ, cứu lấy mảnh đất phố huyện, cứu lấy sự sống trên thế giới này. Con người có thể vô danh nhưng không thể sống vô nghĩa. 4. Tương phản giữa những tư tưởng Trong những tác phẩm lãng mạn, đôi khi nhà văn đã sử dụng nghệ thuật tương phản để tạo ra một cuộc tranh luận ngầm, từ đó khẳng định tư tưởng, quan điểm của mình. “Những người khốn khổ” của V-gô là một tiểu thuyết luận đề. Tác phẩm là cuộc tranh luận về “những người khốn khổ”, tranh luận về giá trị, nhân phẩm của họ. Tiểu thuyết là sự xung đột giữa hai quan điểm đối lập nhau. Một là quan điểm chính thống, quan điểm của xã hội tư sản được phát ngôn qua hình tượng nhân vật Gia-ve. Họ coi “những người khốn khổ” là “bùn”, là bụi” làm bẩn xã hội, phải truy quét, xua đuổi một cách say sưa, nhiệt tình, mẫn cán. Còn quan điểm của tác giả, được gửi gắm thông qua hình tượng Giăng-Văn-Giăng: luôn bênh vực cho “những người khốn khổ”, bảo vệ giá trị người, nhân phẩm của họ; và ở đâu có bất hạnh, ở đó có một vị thánh. Quan niệm tiến bộ, tích cực đó của V. Huy-gô phát triển lên đỉnh cao khi nhà văn xây dựng nên chiến lũy Xanh-dơ-ni. “Những người khốn khổ” ở Pari đã lên chiến lũy đấu tranh để đòi một cuộc sống ấm no. Chiến lũy đã tập hợp tất cả “những người khốn khổ”, nhưng lại rất có tổ chức (chứ không phải

là những kẻ vô tổ chức như cái nhìn đầy khinh miệt của tư sản dành cho họ), đặc biệt họ sẵn sàng chiến đấu và hy sinh hết mình vì lý tưởng. Đứng đầu là người anh hùng mang vẻ đẹp trẻ trung, thần thánh Ăng-giôn-rax. Rồi cậu bé Ga-vơ-rốt lên chiến lũy với một niềm tin ngây thơ nhưng rất thiết thực: để cho cái giỏ của các bà, các cô đầy bánh mì hơn... V-gô đã nhận thức được quần chúng chính là động lực của lịch sử. Tư tưởng này đã tạo nên tầm vóc vĩ đại cho nhà văn và giá trị lớn lao cho tác phẩm của ông, và chính tác giả khi hoàn thành xong bộ tiểu thuyết đồ sộ này đã nói: “ Quyển truyện này là một trái núi ”. Trong lời tựa cho tiểu thuyết “Những người khốn khổ”, V. Huy- gô đã viết: “Khi pháp luật và phong hóa còn đầy đọa con người, còn dựng nên những địa ngục ở giữa xã hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng thêm lên thiên mệnh; khi ba vấn đề lớn của thời đại là sự sa đọa của đàn ông vì bán sức lao động, và sự trụy lạc của đàn bà vì đói khát, sự cằn cỗi của trẻ thơ vì tối tăm chưa được giải quyết; khi ở một số nơi đời sống còn ngạt thở, nói khác đi và trên quan điểm rộng hơn, khi trên mặt đất dốt nát và đói khổ còn tồn tại thì những quyển sách như loại này còn có thể có ích”. Với quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” như vậy, tác phẩm của V-gô đã có ảnh hưởng lớn trong công cuộc đấu tranh chung của loài người chống áp bức và bóc lột.


Khái quát lại chúng ta thấy, với chủ nghĩa lãng mạn, văn học nhân loại đã tiến một bước rất dài với những thành tựu rực rỡ trên tất cả các thể loại. Chủ nghĩa lãng mạn đã tạo ra một thời kỳ thơ Mới, phá vỡ tất cả các khuôn khổ của thơ cũ, với hình thức thơ tự do, có khả năng lớn trong việc biểu đạt tình cảm của con người, tư duy của thời đại. Cùng với thơ, kịch cũng có sự cách tân táo bạo, phá vỡ quy tắc tam duy nhất của chủ nghĩa cổ điển; kịch có thể chứa đựng một dung lượng hiện thực lớn hơn, không còn là câu chuyện của một ngày, mà của một thời đại, một thế kỷ. Đặc biệt, tiểu thuyết đạt tới trình độ mẫu mực, cổ điển cả về nội dung và hình thức, với hai tiểu loại: tiểu thuyết đời tư và tiểu thuyết lịch sử. Phê bình cũng trở thành một bộ môn khoa học, thúc đẩy văn học phát triển. Cùng với những thành tựu về thể loại, thế kỷ XIX đã diễn ra một cuộc cách mạng về ngôn ngữ, ngôn ngữ phong phú, giàu nhạc điệu, gợi hình, gợi cảm. Nhờ sức mạnh của ngôn ngữ, mà cây đại thụ của văn học lãng mạn, V-gô đã tạo ra sức mạnh mới cho ngôn từ, “ tôi gây một cơn bão táp dưới đáy lọ mực ”, dâng hiến cho đời những kiệt tác bất hủ.

Chương III: Hướng dẫn học sinh thực hành làm văn về đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn Như chúng ta đã biết văn học lãng mạn Việt Nam xuất hiện như một trào lưu trong thời kì 1932

  • 1945, bắt đầu với nhóm Tự lực văn đoàn và phong trào thơ Mới. Nhưng để phục vụ thiết thực cho việc giảng dạy của giáo viên và luyện tập của học sinh, trong phần bài tập vận dụng này, chúng tôi chỉ gợi ý những đề bài liên quan trực tiếp tới các tác giả, tác phẩm được học và đọc thêm trong chương trình THPT. Phương châm là chúng tôi sẽ soi sáng những đặc trưng chung của chủ nghĩa lãng mạn vào từng tác giả và tác phẩm cụ thể, như vậy, sẽ giúp cho các em vừa nắm vững kiến thức lý luận khái quát, vừa hiểu sâu sắc hơn tác phẩm; và quan trọng nhất là hình thành cho học sinh kỹ năng đọc-hiểu và làm văn một cách khoa học nhất.
    1. Đề bài về các tác giả, tác phẩm thơ Mới Đặc trưng quan trọng nhất của chủ nghĩa lãng mạn là đề cao tình cảm của cá nhân con người, khẳng định cái tôi cá nhân. Do được giải phóng cá tính và khao khát được khẳng định, nên cái tôi của mỗi nhà thơ lại ngân rung một điệu tâm hồn riêng: Xuân Diệu, thi sĩ của niềm yêu đời, ham sống và
  • Giới thiệu vấn đề cần nghị luận, dẫn dắt vào nhận định (trích nguyên văn), phạm vi tư liệu.
    1. Thân bài
  • Bước 1: Giải thích nhận định: Đây đều là nhận định của các nhà phê bình, nghiên cứu về nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật, hồn cốt riêng của mỗi nhà thơ kết tinh trong thi phẩm của họ. Vì vậy, học sinh cần vận dụng kiến thức lý luận về đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn, phong cách nghệ thuật của mỗi thi sĩ.... để giải thích; rút ra vấn đề cần nghị luận.
  • Bước 2: Chứng minh: Chọn những thi phẩm tiêu biểu của tác giả, phân tích định hướng để làm sáng tỏ vấn đề.
  • Bước 3: Bình luận:
  • Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận.
  • Đưa ra phản đề (nếu có).
  • Mở rộng, nâng cao vấn đề.
    1. Kết bài
  • Khẳng định lại vấn đề. 1. Ví dụ 1.3. Đề bài 1: Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan viết: “ Với những nguồn cảm hứng mới: yêu đương và tuổi xuân, dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời thấm thía ” (Nhà văn hiện đại quyển 3). Qua việc phân tích các thi phẩm: “Vội vàng”, “Thơ duyên”, “Đây mùa thu tới” hãy làm sáng tỏ. 1.3.1. Xác định đề
  • Kiểu bài: Phân tích định hướng để làm sáng tỏ một nhận định về tác giả văn học.
  • Vấn đề cần nghị luận: Thơ Xuân Diệu bộc lộ lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt, thể hiện ở: cảm hứng, đề tài, cảm xúc, giọng điệu -> Phong cách thơ Xuân Diệu.
  • Thao tác: giải thích, chứng minh, bình luận,...
  • Phạm vi tư liệu: Những hiểu biết về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách nghệ thuật Xuân Diệu; những thi phẩm “Vội vàng”, “Thơ duyên”, “Đây mùa thu tới” 1.3.1. Lập dàn ý
    1. Mở bài
  • Giới thiệu vấn đề cần nghị luận, dẫn dắt vào nhận định (trích nguyên văn), phạm vi tư liệu.
    1. Thân bài
  • Giải thích
  • Ý kiến của Vũ Ngọc Phan đã khái quát lên nét đặc trưng của hồn thơ Xuân Diệu: lòng yêu đời, ham sống và khát khao giao cảm mãnh liệt.
  • Khi Xuân Diệu xuất hiện trên thi đàn, “thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”. Xuất phát từ nhu cầu khát khao được giao cảm, thơ ông đã trở thành nhịp cầu của những tâm hồn đồng điệu.
  • Tiếng thơ yêu đời này đã làm rung động đến trái tim của tuổi trẻ. Thi sĩ đã từng tâm sự: “Tôi gửi hồn tôi cho những người trẻ tuổi và đặc biệt là trẻ lòng”. Trên văn đàn già cỗi bao nhiêu năm, thơ Xuân Diệu đã đáp ứng được thị hiếu thẩm mĩ của lớp thanh niên và được họ hưởng ứng nhiệt liệt. Khi Xuân Diệu mới xuất hiện, đã không ít người chê ông tây quá, nhưng thi sĩ đã tự tin mà khẳng định rằng: “Đã có thanh niên hoan nghênh tôi”.
  • Lòng yêu đời thấm thía của Xuân Diệu thể hiện ở hai nguồn đề tài xuyên suốt: yêu đương và mùa xuân:
  • Văn học trung đại là nền văn học phi ngã, các tác giả trung đại quan niệm: “Thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo”, làm thơ viết văn là để nói chí tỏ lòng. Xuân Diệu “ nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ

mới ” (Hoài Thanh) với khao khát bộc lộ cái tôi cá nhân và phơi trải lòng mình, đã viết rất nồng nàn về tình yêu, thứ tình cảm nhân bản và riêng tư nhất của con người.

  • Một năm bắt đầu từ mùa xuân, mùa tươi trẻ nhất, thiên nhiên và đất trời xanh non, biếc rờn sự sống. Cuộc đời lại bắt đầu từ tuổi trẻ, mùa xuân của đời người, nên Xuân Diệu viết rất nhiều, rất hay về mùa xuân. Xuân trong thơ ông luôn tràn trề nhựa sống, rực rỡ sắc màu, rộn rã âm thanh, và đặc biệt tình tứ, làm đắm say lòng người. Với Xuân Diệu, xuân không chỉ là xuân của đất trời, mà còn là xuân trong lòng người, và tình xuân luôn dạt dào lai láng: “Tình không tuổi và xuân không ngày tháng”. Xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ và tình yêu: “Xuân của đất trời nay mới đến. Trong tôi xuân đến đã lâu rồi. Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi. Trong vườn thơm ngát của hồn tôi”. -> Với một hồn thơ yêu đời, ham sống, Xuân Diệu đã thổi vào thơ mới một luồng gió nồng nàn ít có trong thơ ca truyền thống.
  • Lòng yêu đời, khát giao giao cảm của Xuân Diệu thể hiện ở hai dạng cảm xúc: vui và buồn. Xuân Diệu là thi sĩ lãng mạn, chủ nghĩa lãng mạn hướng người ta tới một thế giới lý tưởng, đòi hỏi sự hoàn mĩ, tuyệt đích. Nhưng trong tâm thế của một người dân mất nước không có tự do, cuộc sống của tầng lớp trí thức tù túng, ngột ngạt, nhạt nhẽo, cho nên khát vọng được sống hết mình, tận hiến, tận hưởng cuộc đời của thi sĩ không thực hiện được, đáp lại sự nồng nhiệt của ông chỉ là thái độ dửng dưng, nhạt nhẽo của người đời. Xuân Diệu không tìm được mối giao hòa, giao cảm với cuộc đời. Vì vậy trong thế giới nghệ thuật của ông, mùa xuân và bình minh thường đi kèm với chiều thu tàn và những đêm trăng lạnh, sự nồng nàn đi liền với cảm giác cô đơn, bơ vơ. “Thơ Xuân Diệu buồn ngay giữa những điệu ấm nóng tươi vui” (Hoài Thanh). Và dù vui hay buồn thì cũng đều là biểu hiện của cùng một cái tôi thiết tha yêu đời Xuân Diệu. => Tóm lại: Vũ Ngọc Phan đã khái quát lên những nét chính của phong cách thơ Xuân Diệu: Thơ Xuân Diệu bộc lộ lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt, thể hiện ở: cảm hứng, đề tài, cảm xúc, giọng điệu.
  • Chứng minh
  • Phân tích định hướng ba thi phẩm “Vội vàng”, “Thơ duyên”, “Đây mùa thu tới” để làm sáng tỏ nhận định. Lưu ý: Phân tích phải theo đúng đặc trưng của thể loại thơ trữ tình (chú ý vào các phương diện: cấu tứ, hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu, nhạc điệu, khoảng trống, khoảng trắng trong thơ...); đúng phong cách thời đại thơ Mới; đúng đặc trưng của phương pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa; đúng phong cách tác giả...
  • Bình luận
  • Đây là một nhận định đúng đắn, đã khái quát lên được những nét đặc sắc của hồn thơ Xuân Diệu.
  • Chính những nét đặc sắc này đã tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo và sức hấp dẫn riêng của những vần thơ Xuân Diệu.
  • Thơ Xuân Diệu đã khơi dậy trong ta tình yêu cuộc sống, khát vọng sống mãnh liệt, sống có ý nghĩa trong từng khoảnh khắc -> Chức năng giáo dục của văn học.
  • Bàn về yêu cầu đối với nhà văn và độc giả.
    1. Kết bài
  • Khẳng định lại vấn đề. 1.3. Đề bài 2: Nhận xét về bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính có ý kiến cho rằng: “ Giá trị của bài thơ không chỉ ở việc tác giả diễn tả khá mới mẻ cái tôi tha thiết, chân thành, khao khát yêu

-> Tiểu kết: Nguyễn Bính đã bày tỏ một cách mộc mạc, hồn nhiên cái tôi cá nhân. Qua đó, chúng ta cũng cảm nhận được dấu ấn tâm hồn của cả một thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư sản, với đời sống tâm hồn phong phú, nhạy cảm, khao khát yêu đương, và khát khao được sẻ chia, đồng điệu.  Luận điểm 2: bài thơ còn gợi lên được hồn xưa của đất nước

  • “Hồn xưa của đất nước”: Nếu như Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ là những thi sĩ của cảnh quê, thì Nguyễn Bính lại là nhà thơ của hồn quê, thơ Nguyễn Bính đã lưu giữ mảnh hồn xưa của đất nước. Vì vậy, tác giả của “Tương tư” đã “đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta” (Hoài Thanh).
  • Bài thơ là bản nhạc lòng của một chàng trai đang yêu, nhưng ở tầng sâu của nó đã đem lại cho người đọc những rung cảm tinh tế, sâu sắc về một cái gì rộng lớn và thiêng liêng hơn. Bởi mối nhân duyên của đôi trai gái này gắn liền với khung cảnh và tạo vật thôn quê từ bao đời nay. Tình cảm của chàng trai giăng mắc cả không gian thôn làng (thôn Đoài – thôn Đông), đò giang, đầu đình, vương vấn trong những hình ảnh sóng đôi thân thuộc, gần gũi của làng quê: hoa bướm, giàn trầu, hàng cau.... Điều này tạo nên không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ nỗi tương tư; đồng thời cũng là phương tiện để nhà thơ bộc lộ lòng mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Đó chính là hồn quê quyện trong mối duyên quê và cảnh quê.
  • Sự thể hiện “hồn xưa của đất nước” trong lối suy nghĩ, xúc cảm gắn với đất trời, cây cỏ thiên nhiên:
  • Cách tính thời gian: “ Ngày qua ngày lại qua ngày. Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
  • Cách tính không gian của người dân quê: “Bảo rằng cách trở đò giang. Không sang là chẳng đường sang đã đành. Nhưng đây cách một đầu đình. Có xa xôi mấy mà tình xa xôi”
  • Thể hiện khát vọng: “Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào”.
  • “Hồn xưa đất nước” lắng đọng trong nghệ thuật thể hiện: đậm đà phong vị ca dao:
  • Giọng kể lể của điệu lục bát dân gian được sử dụng nhuần nhuyễn với những cách nói, cách ví von bóng gió mà sâu sắc.
  • Cách bộc lộ tình cảm, tâm trạng kín đáo bằng lối nói vòng thông qua những hình ảnh cặp đôi đậm chất quê hương.
  • Nghệ thuật dùng chất liệu ngôn từ dân gian: địa danh (thôn Đoài – thôn Đông), cách đo đếm thời gian rất quê, số từ, thành ngữ được sử dụng nhuần nhuyễn...
  • Thể thơ lục bát điệu nói dân gian nhẹ nhàng, mà đằm thắm, da diết, giàu dư vị. -> Nguyễn Bính đã dùng những hình thức dân gian để chuyển tải nội dung thẩm mĩ của thơ Mới. Với cái tôi độc đáo và sự cách tân nghệ thuật, Nguyễn Bính đã làm cho vườn hoa thơ Mới thêm giàu hương sắc bởi phong cách nghệ thuật độc đáo của riêng mình.
  • Bình luận
  • Nhận định rất tinh tế và sâu sắc, đã làm nổi bật được hồn cốt riêng của thơ Nguyễn Bính, vừa rất hiện đại trong việc thể hiện trực tiếp cái tôi thơ Mới khao khát yêu đương, vừa rất truyền thống khi khơi dậy được “hồn xưa của đất nước”. Điều đó đã tạo nên giá trị và sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Bính.
  • Bàn về quy luật kế thừa và cách tân trong văn học.
  • Yêu cầu với nhà văn: “Trách nhiệm của nhà thơ là thể hiện rõ bản sắc của dân tộc mình trước thế giới” (Tagor)
  • Yêu cầu với độc giả.
    1. Kết bài
  • Khẳng định lại vấn đề.
    1. Đề mang tính chất văn học sử về phong trào thơ Mới

Trong kiểu bài này, người ra đề đưa ra một ý kiến hoặc một nhận định mang tính chất văn học sử về phong trào thơ Mới. Để giải quyết tốt vấn đề, yêu cầu học sinh phải nắm vững đặc trưng của thơ Mới lãng mạn; làm sáng tỏ được những đặc trưng đó qua việc phân tích các tác phẩm tiêu biểu của những tác giả xuất sắc. Như vậy, kiểu bài này vừa có tác dụng rèn luyện cho các em khả năng khái quát tổng hợp, vừa có kỹ năng cảm thụ, có cái nhìn bao quát, toàn diện, song không thoát ly những văn bản cụ thể. Hơn nữa, điều thiết yếu quyết định thành công của bài viết là học sinh phải có tư duy so sánh, đối chiếu để tìm ra sự khác biệt của phong trào thơ Mới so với thơ ca trung đại hoặc thơ cách mạng 1945 – 1975... 2. Một số đề bài 2.1. Đề 1: “ Được giải phóng khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ có tính phi ngã, mỗi nhà thơ bằng giác quan của chính mình như lần đầu tiên khám phá ra thế giới. Thế giới muôn màu sắc của ngoại cảnh, và thế giới phong phú, tinh vi của nội tâm con người .” Bằng hiểu biết của em về thơ Mới, hãy làm sáng tỏ nhận định trên. 2.1. Đề 2: Từ việc phân tích, so sánh cảnh thu, tình thu, lời thơ trong bài “Thu vịnh” (Nguyễn Khuyến) và “Đây mùa thu tới” (Xuân Diệu), anh chị hãy nêu nhận biết của mình về sự khác biệt giữa thơ trung đại và thơ Mới. 2.1. Đề 3: “ Phong trào thơ Mới không chỉ là cuộc cách mạng về cảm xúc thơ, thể thơ, mà còn là cuộc cách mạng về lời thơ. Màu sắc cá thể của cảm xúc in rất đậm trong mọi khía cạnh của ngôn từ như vốn từ, cá phép tu từ hay ngữ điệu, giọng điệu riêng. Lời thơ được tổ chức theo hình thức gần với chuỗi lời nói tự nhiên của cá nhân hơn, không câu nệ vào những quy định gò bó về số lượng từ, về âm thanh, về vần, về luật, về niêm...” (Ngữ văn 11, SGK thí điểm, Ban KHXH và NV, bộ 1, trang 68) Anh (ch

Tình lãng mạn trong văn học là gì?

Văn học lãng mạn hay còn gọi là chủ nghĩa lãng mạn trong văn học là một phong trào trong giới văn học tinh hoa, kéo dài từ cuối thế kỷ XVIII cho đến giữa thế kỷ XIX với điểm nổi bật là nhấn mạnh vào tính cá nhân và những cảm xúc đơn thuần bên trong nội tâm của conngười, thay vì những vấn đề mang tính xã hội.

Trữ tình lãng mạn là gì?

Lãng mạn cùng với trữ tình là hai phạm trù nghệ thuật nằm trên những bình diện khác nhau: đối lập với lãng mạn là hiện thực, đối lập với trữ tình là tự sự. Trữ tình là kết quả của việc biểu hiện cảm xúc, tâm trạng chủ quan của con người, do phản ánh ước mơ và khát vọng của con người nên thường vươn lên trên thực tại.

Hương lãng mạn là gì?

Thiên hướng lãng mạn, gọi khác là xu hướng hay khuynh hướng tình cảm hoặc cảm xúc (tiếng Anh: Romantic Orientation, hay Affectional Orientation) là thuật ngữ dùng chỉ sự hấp dẫn về mặt tình cảm bởi người khác giới hoặc người cùng giới với mình hoặc nhiều giới hay không một giới nào một cách lâu dài.

Cảm hứng lãng mạn trong văn học là gì?

* Trong văn học 1945 - 1975: Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng khẳng định cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và vượt lên hiện thực, hướng tới lí tưởng với niềm tin sắt đá - có tính chất tích cực. Cụ thể là: + Khẳng định phương diện lý tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới. + Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng.