Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa lí 4

Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.05 MB, 20 trang )

(1)Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. I. NỘI DUNG ĐỀ TÀI: A. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Một năm bắt đầu từ mùa xuân Đời người bắt đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ ! Tương lai của đất nước. Tuổi trẻ sẽ làm gì? Sẽ như thế nào sau này? Tất cả phải nhờ vào sự giáo dục. Mục tiêu của giáo dục là phát triển toàn diện con người về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ. Học không chỉ đơn giản đạt đến mục đích để hiểu biết có trình độ cao có kiến thức sâu rộng mà quan trọng hơn là phải thực sự trở thành người. Cùng với môn Tiếng việt và Toán, môn Tự nhiên xã hội là môn quan trọng nhất trong chương trình tiểu học. Trong giai đoạn này, việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc dạy và học môn Tự nhiên xã hội nói chung và phân môn Địa lý nói riêng là một phần quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học của bộ môn này. Góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học. Chương trình dịa lý lớp 4 giúp học sinh lĩnh hội được một số tri thức ban đầu về địa lý Việt Nam và hoạt động sản xuất của người dân trên các vùng miền. Tuy nhiên. Ngay từ đầu năm học, tôi nhận thấy rằng: Địa lí là môn rất mới lạ với học sinh lớp 4. Vì ở chương trình lớp 3 các em chưa được học môn Địa Lý, lên lớp 4 các em mới được làm quen với phân môn này. Vì thế khi học địa lí các em rất ngỡ ngàng, lúng túng, chưa hình dung được chương trình địa lí lớp 4 mới có nội dung nào ? Bên cạnh đó, qua nhiều năm phụ trách lớp 4 bản thân tôi thấy: Đa số học sinh giành nhiều thời gian học cho các môn Toán, Tiếng Việt,…. còn môn học Địa Lý thì được xem là môn học phụ, chỉ cần học bài là được. Chính những điều này đã làm tôi trăn trở và ray rứt: Làm thế nào để học sinh có được lòng yêu thích, hứng thú học các tiết học Địa Lý và thấy được: Môn Địa Lý có vai trò đặc biệt quan trọng, nó là cơ sở cho việc học tập phần Địa Lý kinh tế- xã hội Việt Nam ở các lớp sau. Chính vì vậy để học sinh yêu thích, hứng thú học Địa Lý và để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh, tôi phải luôn tìm tòi, ra sức học hỏi, nghiên cứu nhiều sách tham khảo, với những kinh nghiệm của bản thân qua quá trình giảng dạy để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm : “Một số kinh nghiệm nhằm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý lớp 4. Với hy vọng phần nào giúp bản thân dạy tốt hơn môn địa lý. Để Địa lý không xa lạ chán nản với các em . Để góp phần nhỏ bé thật nhỏ bé xây dựng một nền móng vững chắc cho đất nước từ những lớp HS hoàn thiện về mặt trí thức và nhân cách .Vì có biết có hiểu, có quan tâm thì các em mới yêu mến quê hương đất nước, yêu những gì mà Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 1.

(2) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Từ đó các em sẽ tích cực tự nguyện tham gia góp phần bảo vệ môi trường và trân trọng giữ gìn những thành tựu kinh tế đất nước. Để tự hào làm rạng danh nước Việt. B. PHẠN VI NGHIÊN CỨU: 1. Học sinh lớp 4 – Cụ thể là lớp 4B Trường Tiểu học Yên Bài A. 2. Các phương pháp chỉ đạo của Ban Giám Hiệu. 3. Tập thể giáo viên Trường Tiểu học Yên Bài A. 4. Thời gian thực hiện đề tài: Năm học 2012- 2013. II. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI A. KHẢO SÁT THỰC TẾ: Năm học 2012- 2013 tôi được phân công dạy lớp 4B gồm 30 học sinh, trong đó có 9 em nam. Vào đầu năm học, tôi thấy lớp tôi có những thuận lợi và khó khăn sau: 1. THUẬN LỢI - Mục tiêu , nội dung chương trình nhẹ nhàng phù hợp với lứa tuổi học sinh. - Ban giám hiệu và chuyên môn nhà trường luôn quan tâm và giúp đỡ. - Hệ thống các loại bản đồ, lược đồ rất phong phú, màu sắc rõ ràng, hấp dẫn, kích thích được sự hứng thú học tập của các em. - Các câu hỏi hoặc các yêu cầu hoạt động được in nghiêng ở giữa bài gợi ý cho giáo viên tổ chức các hoạt động cho học sinh khai thác thông tin dể dàng. - Câu hỏi cuối bài giúp giáo viên kiểm tra việc thực hiện mục tiêu bài và củng cố kiến thức. - Phần tóm tắt trọng tâm bài được đóng khung. - Các tranh ảnh để cung cấp cho việc dạy Địa Lý cũng tương đối đầy đủ. 2. KHÓ KHĂN - Một số phụ huynh học sinh chưa quan tâm đế việc học của con em mình về môn Địa Lý. Vì cho rằng đây là môn phụ. - Đa số các em phân tích bản số liệu, đọc và chỉ bản đồ, lược đồ còn lúng túng. - Việc quan sát sự vật, hiện tượng Địa Lý, tìm tòi tư liệu và trình bày lại kết quả bằng lời nói, bài viết …….. còn sơ sài. - Chất lượng học sinh không đồng bộ, một số em nhaân thức chưa cao, nên việc tiếp thu bài còn chậm . 3. Số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài: Ngay từ đầu năm học tôi liên hệ với giáo viên chủ nhiệm cũ để nắm vững tình hình lớp cũng như đặc điểm tâm lý và sở thích học môn Địa Lý của mỗi học sinh ở lớp. Từ đó tôi định hướng, đề ra biện pháp tổ chức tiết dạy thích hợp nhằm tạo cho các em hứng thú, yêu thích học Địa Lý. Đồng thời vạch ra những Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 2.

(3) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. việc làm thiết thực để việc chuẩn bị của mình cho từng tiết dạy đạt chất lượng cao. Sau đó, tôi tiến hành cho học sinh làm bài khảo sát riêng về bộ môn Địa Lý để nắm kết quả thực tế. Kết quả khảo sát tôi thu được như sau: ĐIỂM 9-10 7-8 5-6 3-4 1-2 HỌC SINH 3 8 8 7 4 B. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: 1. Nghiên cứu thống nội dung, chương trình học môn Địa Lý lớp 4. Chương trình môn học Địa Lý lớp 4 được phân phối thành ba phần như sau: Thiên nhiên và hoạt động sản xuất của con người ở miền núi và trung du (Từ bài 1 đến bài 10). Thiên nhiên và hoạt động sản xuất của con người ở miền đồng bằng. (Từ bài 11 đến bài 28). Vùng biển Việt Nam (Từ bài 29 đến bài 32 a. Cấu trúc nội dung Hệ thống các phần trong chương trình tương đối hợp lý. Những khái niệm, biểu tượng mà học sinh tiếp xúc là từ dẽ đến khó; khối lượng kiến thức vừa phải, dễ tiếp thu, dễ nắm vững các kiến thức cơ bản của bài. - Nội dung bằng chữ: Các bài học trong toàn bộ chương trình được trình bày ngắn gọn, cụ thể, dễ hiểu phù hợp vời nhận thức của học sinh lớp 4. - Nội dung bằng hình: Biết rằng kênh chữ đóng vài trò chủ yếu trong việc cung cấp kiến thức. Tuy nhiên, kênh hình vẫn đóng vai trò quan trọng. Nó không chỉ là sự minh hoạ cho kênh chữ mà còn là nguồn cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năngtìm thông tin cho học sinh - Các câu hỏi, bài tập hoặc yêu cầu hoạt động Các câu hỏi, bài tập của bài giúp cho học sinh dễ dàng nắm bắt các kiến thức. Đồng thời giúp các em tư duy, phân tích, so sánh rồi rút ra nhận xét nhằm khắc sâu bài học. Ngoài ra, còn giúp giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động để khai thác thông tin, rèn luyện kỹ năng hoặc bồi dưỡng nhận thức cho các em. 2. Nghiên cứu, nắm vững mục tiêu môn Địa Lý Một trong những yếu tố để giúp cho tiết dạy Địa Lý thành công, đạt chất lượng cao thì trước tiên giáo viên phải nghiên cứu nắm vững mục tiêu chương trình Địa Lý lớp 4. Đây là việc làm hết sức quan trọng. Vì thế khi lập kế hoạch bài giảng, giáo viên cần phải nắm chắc những nội dung cơ bản của bài và những hướng dẫn cụ thể về mục tiêu cần đạt để việc thiết kế bài dạy sao cho thật sáng tạo, chất lượng, phù hợp với từng bài dạy, từng đối tượng học sinh. Nếu làm được như vậy sẽ gây hứng thú cho học sinh học Địa Lý. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 3.

(4) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. 3. Biện pháp thực hiện: - Để phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy môn địa lý thì việc lựa chọn phương pháp dạy học và hướng dẫn học sinh cách học là rất quan trọng. Giáo viên phải lựa chọn phương pháp cho phù hợp với từng loại bài, từng đối tượng học sinh.Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ tự khám phá ra kiến thức. Dạy môn địa lý cần sử dụng các phương pháp đặc trưng của nhiều môn học khác nhau. Do tính tích hợp của nội dung. Đề cao vai trò chủ thể của người học, tăng cường tính tự giác tích cực và sáng tạo của hoạt động học tập. Ở bậc tiểu học do đặc điểm tâm lý của lứa tuổi học sinh nên yêu cầu về mặt tri thức của dạy học địa lý chủ yếu chỉ dừng lại ở việc cung cấp các biểu tượng địa lý . Bước đầu hình thành 1 số khái niệm, xây dựng một số mối quan hệ địa lý đơn giản . Để giúp học sinh học tốt một địa lý, Tôi luôn tâm niệm: Giáo viên phải hình thành biểu tượng địa lý và rèn luyện cho học sinh một số kỹ năng địa lý như: sử dụng bản đồ, phân tích bảng số liệu và biểu đồ…Do đó việc hình thành biểu tượng địa lý và rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ là 2 nhiệm vụ quan trọng của phần địa lý ở tiểu học. Theo tôi nghĩ có sử dụng tốt hai phương pháp này thì người giáo viên mới dạy tốt môn địa lý được. a.Phương pháp hình thành biểu tượng địa lý : Một số biểu tượng địa lý được dạy ở tiểu học: núi, đồi, rừng rậm nhiệt đới, đồng bằng, sông hồ, thác … Với phương pháp hình thành biểu tượng địa lý tốt nhất là cho các em quan sát các sự vật hiện tượng có thể trực tiếp quan sát được trên thực địa như : núi , rừng , lễ hội …ở thị trấn, hoặc quan sát qua tranh ảnh , băng hình . b.Phương pháp sử dụng bản đồ: Quan niệm của tôi là sử dụng bản đồ để học sinh khai thác, tìm tòi kiến thức. Nên cho từng nhóm học sinh quan sát bản đồ thay vì cho cả lớp chỉ quan sát 1 bản đồ. Với cách cho từng nhóm sử dụng bản đồ giáo viên phải tổ chức các hoạt động học tập để học sinh được tự tìm ra kiến thức mới trên cơ sở kết hợp giữa kiến thức với kỹ năng địa lý mà học sinh đã có. Chính vì vậy kiến thức các em thu được bền vững hơn, đồng thời trong quá trình tìm tòi kiến thức, kỹ năng địa lý của học sinh cũng được rèn luyện, củng cố 4. Những biện pháp cụ thể: Kiến thức về môn Địa Lý Việt Nam bao gồm phần tự nhiên và phần kinh tế xã hội. Hai phần kiến thức này rất quan trọng và hết sức cần thiết đối với các em. Phần Địa Lý tự nhiên và phần Địa Lý kinh tế - xã hội sẽ cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản về điều kiện tự nhiên, về sự khai thác thiên nhiên và các hoạt động kinh tế, nếp sống, sinh hoạt của con người ở các vùng chính trên đất nước Việt Nam. Đây cũng là tiên đề cho việc học Địa Lý ở các lớp sau. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 4.

(5) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. Vậy muôn dạy cho học sinh một tiết Địa Lý hấp dẫn, sinh động, đạt hiệu quả cao để các em có hứng thú ham học mỗi giờ Địa Lý. Trước tiên tôi phải tìm hiểu những kiến thức, những thông tin về lĩnh vực Địa Lý của từng miền, từng vùng trên đài truyền hình, sách, báo, … nhắm cung cấp thêm những kiến thức cho các em để giáo dục các em biết yêu thiên nhiên và văn hoá gần gũi với các em. Mà để đạt được điều này tôi hướng dẫn học sinh thực hiện bằng các bước cụ thể sau: 1: Rèn kỹ năng đọc và chỉ bản đồ, lược đồ, bảng số liệu Trong mỗi tiết học của môn Địa Lý cá em đều phải sử dụng bản đồ, lược đồ,…. Vì bản đồ, lược đồ được sử dụng như là nguồi cung cấp kiến thức, là đối tượng để học sinh chủ động, tự lực khai thác kiến thức Địa Lý, học sinh phải biết đọc các lí hiệu trên bản đồ, lược đồ, hiểu được ý nghĩa màu sắc được biểu thị trên bản đồ, lược đồ, xác định được các yếu tố Địa Lý trên bản đồ. Ví dụ: Khi dạy bài: Môn lịch sử và Địa Lý Tôi yêu cầu học sinh chỉ vị trí, giới hạn của nước Việt Nam trên bản đồ thế giới theo chu vi, đường biên giới khép kín của quốc gia (hay một lãnh thổ ).. Ví dụ: Khi dạy bài: Tây Nguyên Tôi hướng dẫn học sinh cách chỉ vị trí, giới hạn của vùng Tây Nguyên trên bản đồ thì phải khoanh kín theo ranh giới của khu vực. Kế đến, tôi đưa ra những bài tập sau để dẫn dắt các em làm việc với bản đồ: 1. Quan sát “Lược đồ các cao nguyên ở Tây Nguyên”. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 5.

(6) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. Đánh dấu X vào ở ý đúng. Tây Nguyên nằm ở phía nào của dãy núi Trường Sơn Nam? Phía Bắc Phía Đông Phía Nam Phía Tây 2. Điền tên các cao nguyên vào bảng theo thứ tự từ trên xuống dưới (hay theo hướng từ Bắc xuống Nam) THỨ TỰ TÊN CÁC CAO NGUYÊN 1. Kon Tum 2. Pây Ku 3. Đắc Lắc 4. Lâm Viên 5. Di Linh. Ví dụ: Khi dạy bài: Thành phố Hồ Chí Minh Tôi cho học sinh quan sát: “Bảng số liệu về diện tích và dân số của một thành phố.” ( SGK trang 128). Qua bảng số liệu này, tôi yêu cầu học sinh nắm diện tích và dân số của Thành phố Hồ Chí Minh với các thành phố khác như : Hà nội, Hải Phòng, Đà Nẵng. Để học sinh nắm được các yêu cầu trên tôi đề ra một số gợi ý sau: 1. Đọc tên các cột, hàng trên bảng số liệu. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 6.

(7) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. 2. Các số liệu trong bảng được ghi vào thời gian nào ? Được biểu thị theo đơn vị nào ? 3. Năm 2003 Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích và dân số là bao nhiêu ? 4. Diên tích và dân số Thành phố Hồ Chí minh đứng thứ mấy trong các thành phố có trong bảng ? 5. Nêu nhận xét về dân số, diện tích đất ở Thành phố Hồ Chí Minh. Qua bảng số liệu về diện tích và dân số ở Thành phố Hồ Chí minh, học sinh sẽ tự rút ra nhận xét: Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích và số dân lới nhất trong các thành phố có trong bảng. 2. Hình thành biểu tượng Địa Lý Đây là bước rất quan trọng . Vì vậy phương pháp hình thành biểu tượng Địa Lý tốt nhất là giáo viên phải biết lựa chọn đối tượng quan sát phù hợp với trình độ học sinh và điều kiện của lớp, của địa phương để cho các em quan sát trực tiếp các đối tượng tại thực địa hoặc qua tranh ảnh, băng hình…… Ví dụ : Khi dạy bài: Hoạt động sản xuất của người dân Tây Nguyên Để hình thành biểu tượng rừng rụng là trong mùa khô ( rừng khộp). Tôi cho học sinh quan sát tranh về rừng khộp mà tôi sưu tầm được.. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 7.

(8) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. Sau đó tôi hướng dẫn các em xác định mục đích qua sát về đặc điểm của rừng rụng lá mùa khô mà các em quan sát từ tranh ảnh là: + Rừng thưa + chỉa có một vài cây + lá rụng vào mùa khô Tiếp đến tôi đề ra một số bài tập, câu hở để hướng dẫn các em quan sát và phân tích tranh như sau: Câu 1 : Nối vào những ý mà em cho là đúng. Rừng rậm Rừng thưa Rừng khộp là. Rừng chỉ có một loài cây Rừng có nhiều loài cây. Câu 2 : a. Các loài cây trong rừng khộp có kính thước gần như nhau hay rất khác nhau ? (gần như nhau) b. Các loại cây ở rừng khộp vào mùa khô trông xanh tốt hay xơ xác ? Vì sao ? (xơ xác vì rụng gần hết lá ) Câu 3 : Rừng khộp có đặc điểm gì khác với rừng rậm nhiệt đới ? Với những câu hỏi, bài tập trên học sinh sẽ rút ra được kết luận : Rừng khộp là loại rừng thưa, hầu như chỉ có một loài cây (rừng thuần nhất ). Cảnh rừng khộp vào mùa khô trông rất xơ xác vì lá rụng gần hết. 3. Hình thành khái niệm Địa Lý. Hình thành khái niệm Địa Lý là một trong những mục đích của việc dạy Địa Lý. Vì thế bước này rất quan trọng. Vậy muốn hình thành khái niệm Địa Lý cho học sinh, tôi yêu cầu các em phải nắm được các dấu hiệu của đối tượng Địa Lý mà các em quan sát được từ thực tế, từ băng hình, tranh ảnh để các em tìm ra những dấu hiệu, bản chất của đối tượng Địa Lý nhằm đưa ra khái niệm đúng về đối tượng. Ví dụ: Khi dạy bài: Trung du Bắc Bộ Điều đầu tiên tôi cho học sinh xác định các tỉnh ở vùng trung du trên bản đồ Địa Lý Việt Nam (tỉnh: Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên ) Sau đó tôi cho học sinh quan sát vùng trung du qua tranh ảnh và băng hình, rồi tôi khai thác kinh nghiệm sống của các em bằng những câu hỏi sau :  Trong lớp ta, em nào đã nhìn thấy vùng trung du chưa ? khi nào ? Ở đâu ?  Em hãy tả hoặc vẽ lại vùng trung du mà em đã thấy. Tiếp đến tôi yêu cầu học sinh hoàn thành phiếu bài tập sau: * Điền Đ vào ý đúng, S vào ý Sai. Vùng trung du là : Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 8.

(9) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. a. Một vùng đồi nằm giữa miền núi và đồng bằng với các đỉnh tròn, sườn thoải, xếp cạnh nhau như bát úp. □ b. Một vùng đồi nằm giữa miền núi và đồng bằng với các đỉnh nhọn, sườn dốc, xếp cạnh nhau như bát úp. □ c. Một vùng đồi nằm giữa miền núi và đồng bằng với đỉnh tròn, sườn dốc, không xếp cạnh nhau như bát úp. □ Qua bài tập này các em sẽ phát hiện ra dấu hiệu chung và bản chất của vùng trung du (vùng đồi) là: Nằm giữa vùng núi và đồng bằng là một vùng đồi với các đỉnh tròn, sườn thoải, xếp cạnh nhau như bát úp, nơi đó được gọi là vùng trung du. Sau khi hình thành khái niệm Địa Lý chung cho học sinh, tôi dựa vào trình độ của lớp để soạn ra một hệ thống câu hỏi, bài tập nhằm hướng dẫn các em phát hiện ra dấu hiệu riêng của đối tượng Địa Lý. Ví dụ : Khi dạy bài: Dãy núi Hoàng Liên Sơn Khi học bài này học sinh đã hiểu sơ lược thế nào là dãy núi ở lớp 3, nên khái niệm về dãy núi Hoàng Liên Sơn có thể hoàn thành bằng cách bổ sung thêm những đặc điểm riêng như sau:  Quan sát “Lược đồ các dãy núi chính ở Bắc Bộ” trang 70, tìm vị trí dãy Hoàng Liên Sơn.  Dãy núi Hoàng Liên Sơn nằm giữa sông Hồng và sông Đà.. Các nhóm dựa vào bản đồ tự nhiên Việt Nam để nhận xét về chiều dài, độ cao của dãy núi, tìm vị trí và nêu đỉnh cao nhất ở dãy núi Hoàng Liên Sơn, đồng thời so sánh với độ cao của các dãy núi khác ở nước ta trên bản đồ.  Dãy Hoàng Liên Sơn cao đồ sộ, có đỉnh Phan-xi-păng là đỉnh cao nhất nước ta (3143 ). Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 9.

(10) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. Quan sát dãy núi Hoàng Liên Sơn quan tranh, nêu các đặc điểm của đỉnh, sườn, thung lũng.  Đỉnh núi nhọn như răng cưa.  Sườn rất dốc.  Thung lũng hẹp và sâu Từ kết quả trên, tôi yêu cầu học sinh đưa ra khái niệm về dãy núi Hoàng Liên Sơn: “Dãy núi Hoàng Liên Sơn là dãy núi nằm giữa sông Hồng và sông Đà, cao, đồ sộ, có nhiều đỉnh nhọn, sườn dốc, thung lũng hẹp, sâu. Đỉnh Phan – xi – păng cao nhất nước ta”. Sau khi hình thành khái niệm Địa Lý cho học sinh, tôi yêu cầu các em tìm tòi, phát hiện và nêu những thắc mắc ra trước lớp để cùng thảo luận và tìm ra câu trả lời hoàn thiện: Ví dụ: Khi dạy bài: Biển, đảo và quần đảo. Học sinh tự được ra và giải thích và đưa ra được khái niệm về đảo và quần đảo. + Đảo: Là bộ phận đất nổi, nhỏ hơn lục địa xung quanh, có nước biển và đại dương bao bọc. + Quần đảo: Là nơi tập trung nhiều đảo 4. Giải thích hiện tượng Địa Lý Trong quá trình dạy dịa lý, tôi không để học sinh tiếp nhận suông các hiện tượng Địa Lý mà tôi tập cho các em phải biết quan sát sự vật, hiện tượng, tìm kiếm, thu thập tư liệu về Địa Lý từ các nguồn khác nhau để tự mình giải thích được các hiện tượng Địa Lý gần gũi, đơn giản bằng vốn hiểu biết của các em. Trong quá trình quan sát sự vật, hiện tượng, tìm kiếm, thu thập tư liệu, tôi tạo điều kiện cho các em nêu thắc mắc, đặt câu hỏi để các em giải thích, nhận biết đúng các hiện tượng Địa Lý. Rồi sao đó tôi tổ chức cho các em trình bày kết quả làm việc của mình. Nếu làm được điều này, tức là đã gây hứng thú, phát huy được tính tích cực học tập của các em. Ví dụ: Khi dạy bài: Đồng bằng Bắc Bộ Tôi tổ chức cho học sinh quan sát tranh “sông Hồng” kết hợp với vốn sống để các em tự tìm thông tin và giải thích được:  Tại sao lại có tên gọi là sông Hồng ? - Đây là con sông lớn nhất miền Bắc, bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Đồng bằng Bắc Bộ rồi đổ ra biển, khi chảy qua Đồng bằng Bắc Bộ, sông chia thành nhiều nhánh đổ sang sông Thái Bình. Trong quá trình chảy từ thượng nguồn đến Đồng bằng Bắc Bộ, nước sông quấn theo nhiều phù sa (cát, bùn) làm cho nước sông có màu đỏ quanh năm. Do đó sông có tên là sông Hồng. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 10.

(11) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4.  Tại sao lại có sự chênh lệch nhiệt độ giữa vùng thấp và vùng cao ? - Mặt trời là nguồn cung cấp ánh sáng và nhiệt độ cho trái đất, khi tia sáng xuyên qua khí quyển rồi đến mặt đất thì lớp không khí đầy bụi bặm ở sát mặt đất sẽ thu nhiệt nhiều hơn so với lớp không khí trong và loãng ở trên cao. Nhìn trung cứ lên cao 1000m thì nhiệt độ không khí giảm từ 5 đến 6 0c, nên vào mùa hè ở vùng núi thường rất mát mẻ. Ví dụ: Ở Đà lạt vào mùa đông cũng lạnh nhưng không chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, nên không rét buốt như ở miền Bắc. Đà Lạt, Sa Pa là vùng miền núi, có khí hậu mát mẻ quanh năm nên rất thịch hợp cho việc trồng các loại rau xứ lạnh, rừng thông hai lá. Những núi thấp sau Thành phố Huế cũng trồng một vài mảnh rừng thông 5 lá. Ví dụ: Khi dạy bài: Dải đồng bằng duyên hải miền Trung Tôi yêu cầu học sinh phải tự mình giải thích được các hiện tượng Địa Lý mà các em tìm được. Chẳng hạn như:  Tại sao lại có tên gọi là dải đồng bằng duyên hải miền Trung ? - Do các đồng bằng nhỏ hẹp ở ven biển chạy dọc theo biển khu vực miền Trung nên mới gọi là Dải đồng bằng duyên hải miền Trung.  Tại sao hệ thống sông ngòi ở miền Trung thường nhỏ và ngắn ? - Do ở miền Trung có nhiều đồi núi và nơi đây chủ yếu là dãy đất hẹp.  Tại sao vào mùa hạ ở nước ta thường có gió thổi từ Lào sang (còn gọi là gió Lào)? - Khi gặp dãy núi Trường Sơn, gió bị chặn lại, trút hết mưa ở sườn tây, khi thổi sang sườn bên kia chỉ còn hơi khô, nóng. Do đó ở đồng bằng duyên hải miền Trung vào mùa hạ, gió rất khô và nóng. Vào mùa đông ở đây có gió thổi từ biển vào mang theo nhiều hơi nước gây mưa nhiều. Do sông ở đây ngắn và nhỏ nên thường có lụt, nước từ núi đổ xuống đồng bằng thường gây ra lũ lụt đột ngột. HOẶC  Tại sao lại có tên gọi là Bán đảo Sơn Trà ?( bài: Thành phố Đà Nẵng) - Sơn Trà trước vốn là một đảo lớn ngoài khơi. Dần dần nước biển đông đem phù sa ở cửa sông bồi đắp vào đảo Sơn Trà thành một dải đất chạy từ đảo vào đất liền. Vùng đảo Sơn Trà từ đó có một phần nối với đất liền, còn lại phần tiếp xúc với biển, do đó được gọi là bán đảo Sơi Trà.  Tại sao nói biển có vai trò quan trọng đối với khí hậu nước ta? - Biển là nguồn cung cấp hơi nước thường xuyên cho những cơn mưa ở nước ta. Nhờ có gió biển mà khí hậu ở nước ta trở nên mát mẻ ẩm vào mùa hạ, đỡ hanh khô vào mùa đông. Sở dĩ khí hậu nước ta không khắc nghiệt, không có. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 11.

(12) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. hoang mạc, sa mạc như các nước khác, vì lãnh thổ nước ta tiếp giáp với biển nhiều và có biển ăn sâu vào đất liền. 5: Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố Địa Lý. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố Địa Lý là một bước rất quan trọng. Nó không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy Địa Lý. Vì thế tôi luôn hướng dẫn học sinh biết xác lập mối quan hệ giữa các hiện tượng Địa Lý tự nhiên với tự nhiên, tự nhiên với kinh tế-xã hội, để các em thấy được sự tương quan, hỗ trợ giữa các yếu tố Địa Lý. Mặt khác,các em sẽ làm quen với cách tìm nguyên nhận khi biết kết quả. Ví dụ: Khi dạy bài: Hoạt động sản xuất của người dân ở Đồng bằng Bắc Bộ Tôi lập sơ đồ, rồi yêu cầu học sinh điền vào sơ đồ để rèn kỹ năng xác lập mối quan hệ Địa Lý cho học sinh .  Tìm 3 nguồn lực chính giúp Đồng bằng Bắc Bộ trở thành vựa lúa thứ hai của cả nước vào sơ đồ. Đất phù sa màu mỡ Đồng bằng Bắc Bộ Nguồn nước dồi dào. vựa lúa thứ hai. Người dân có nhiều kinh nghiệm Tiếp đến tôi yêu cầu học sinh dựa vào trên sơ đồ trên rồi phân tích mối liên hệ giữa điều kiện tự nhiên – tài nguyên – dân cư – kinh tế. Sông Hồng và sông Thái Bình là hai con sông lớn ở miền Bắc. Khi đổ ra gần biển, nước sông chảy chậm đã làm cho phù sa lắng đọng thành các lớp dày. Qua hàng vạn năm, các lớp phù sa đó đã tạo nên Đồng bằng Bắc Bộ , đây là Đồng bằng lớn thứ hai của nước ta, có địa hình khá bằng phẳng. Nơi này thuận lợi cho việc phát triển các vùng chuyên canh cây công nghiệp, xây dựng các đô thị và khu công nghiệp.  Về tự nhiên, đây là nơi có thời tiết diễn ra bất thường, gây trở ngại cho hoạt động giao thông vận tải cũng như tổ chức sản xuất và đời sống nhất là ở vùng cao và biên giới.  Về tài nguyên, thì do việc chặt phá rừng bừa bãi, dẫn tới sói mòn, sạc lở đất, lũ quét, làm cho chất lượng bị giảm sút nghiêm trọng, tuy nhiên điều kiện khí hậu và nguồn nước thuận lợi cho việc thâm canh tăng vụ trong sản xuất nông nghiệp. Vào mùa đông, thời tiết rất phù hợp cho việc trồng một số cây ưa lạnh.. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 12.

(13) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4.  Về dân cư, thì Đồng bằng Bắc Bộ có số dân sống tập chung ở sông Hồng.mật độ dân số truing bình là 1179 người / km2. Mặc dù tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số trong vùng giảm mạnh nhưng mật độ dân số vẫn cao.Vì thế dẫn đến đời sống nhân dân còn khó khăn do dân số quá đông.  Về diện tích và sản lượng lúa thì Đồng bằng sông Hồng đứng sau Đồng bằng sông Cửu Long. - Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hải Phòng là hai đầu mối giao thông vận tải quan trọng. Hai thành phố này là hai trung tâm du lịch lớn ở phía Bắc nước ta. Ở Đồng bằng sông Hồng có nhiểu địa danh du lịch hấp dẫn, nởi tiềng như: Chùa Hương, Tam Cốc, Côn Sơn…Hà Nội, Haûi Phòng và Vịnh Hạ Long tạo thành tam giác kinh tế trọng điểm ở Bắc Bộ. -Từ những ý trên tôi yêu cầu các nhóm thảo luận rồi hoàn thành sơ đồ sau: Mùa Đông Lạnh. Điều kiện tự nhiên. Rau xứ lạnh. Đất đai màu mỡ. Vựa lúa thứ 2. Chăn nuôi lợn, gia cầm. Vựa lúa thứ 2 Ví dụ: Khi dạy bài: Thành phố Đà Nẵng Tôi yêu cầu các nhóm hoàn thành sơ đồ ở phiếu bài tập sau: Đọc sách giáo khoa rồi điền thông tin vào các ô: các ô ở bên trái là các hàng hoá đưa đến Đà nẵng, các ô ở bên phải là hàng hoá đưa từ Đà nẵng đi. Ô tô, thiết bị máy móc. Quần áo. Đồ dùng sinh hoạt. Vật liệu xây dựng (đá). TP Đà Nẵng Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. Vải may quần áo. Cá tôm đông lạnh. 13.

(14) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. Bằng hoạt động nhóm kết hợp với hình ảnh về các hoạt động sản xuất ở Đà Nẵng mà các em sưu tầm được thì các em sẽ hiểu và phân tích được: Sản phẩm của Đà Nẵng chở đến các nơi khác chủ yếu là nguyên liệu chưa chế biến như: cá, tôm đông lạnh để cung cấp cho các nhà máy chế biến, vật liệu thô như: đá để xây dựng.Nếu các sản phẩm đông lạnh được chế biến sẽ có giá trị cáo hơn rất nhiều. Đà Nẵng có các cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng, dệt chế biến thực phẩm, đóng tàu, sản xuất viật liệu xây dựng. Hiện nay Đà Nẵng đã xuất hiện những khu công nghiệp lớn thu hút nhiều nhà đầu tư. Đà Nẵng trở thành trung tâm công nghiệp lớn và quan trọng của miền Trung. Ví dụ: Khi dạy bài: Khai thác khoáng sản và hải sản ở vùng biển Việt Nam. Sau khi tìm hiểu bài xong, tôi yêu cầu các nhóm đôi hoàn thiện bảng kiến thức tổng hợp dưới đây. Vùng biển Việt Nam. Khai thác khoáng sản. Sản phẩm: Dầu mỏ và khí đốt. Đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản. Sản phẩm: Cát trắng. Sản phẩm: Cá. Sản phẩm: Tôm, bào ngư. Khi đã hoàn thành sơ đồ trên, tôi yêu cầu các nhóm trình bày nội dung kiến thức vừa học: Về việc khái thác dầu mỏ và khí đốt, tính tới nay, nước ta đã khai thác được hơn 100 triệu tấn dầu và hàng tỉ mét khối khí phục vụ cả trong nước và xuất khẩu. Hiện nay đang tiến hành xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất thưộc tỉnh Quảng Ngãi. Ngoài dầu khí, nước ta còn khai thác cát trắng để làm nguyên liệu cho công nghiệp thuỷ tinh ở ven biển Khánh Hoà, Quảng Ninh. Vùng biển nước ta rất giàu hải sản, có hàng nghìn loài cá, có hàng trăm loài tôm, những loài cá, loài tôm ngon,nổi tiếng có giá trị như cá chim, cá thu, cá Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 14.

(15) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. nhụ, tôm hùm, tôm he…Hoạt động đánh bắt và khai thác hải sản nước ta diễn ra khắp vùng biển kể từ Bắc vào Nam, nhiều nhất là ở các tỉnh ven biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang.  Từ những ý trên, tôi yêu cầu mỗi cá nhân học sinh điền vào sơ đồ để các em thấy được nguồn hải sản không phải là vô tận, vì thế ta phải có biện pháp bảo vệ nguồn hải sản của nước ta. Ba biện pháp bảo vệ nguồn hải sản của nước ta. Giữ vệ sinh môi trường biển. Không xả rác, dầu xuống biển. Đánh bắt, khai thác hải sản theo quy trình, hợp lý. 6: Liên hệ thực tế để khắc sâu kiến thức cho học sinh Để tiết học Địa Lý được sinh động, hấp dẫn, phát huy được tình tích cực của học sinh, không những tôi cung cấp kiến thức Địa Lý ở sách giáo khoa mà còn cung cấp cho các em kiến thức từ cuộc sống, ngoài thực tế xã hội, để các em có được vốn kiến thức khá đầy đủ vừa ở sách vừa ở cuộc sống thực tế. Muốn làm được điều này, tôi phải học hỏi, thu thập những kiến thức về Địa Lý qua các nguồi tài liệu, để làm giàu thêm vốn hiểu biết của các em bằng việc tổ chức cho các em đi khảo sát thực tế, tổ chức các giờ học ngoài lớp, đi tham quan các cảnh đẹp, di tích văn hoá… nhằm làm cho tiết học Địa Lý trở nên sinh động, thiết thực và hấp dẫn hơn. Ví dụ: Khi dạy bài: Một số dân tộc ở Tây Nguyên Tôi cho lớp quan sát bộ cồng chiêng qua tranh, qua Video bộ cồng chiêng và được thưởng thức màn biểu diễn cồng chiêng do đội cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện mà tôi quay lại được trong lễ hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam tổ chức năm 2011. Tôi còn kết hợp với phụ huynh học sinh tổ chức cho các em đuợc đi thăm quan để nhìn tận mắt bộ cồng chiêng trong dịp lễ hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam được tổ chức tại Làng Văn Hóa (Đồng Mô). Thấy được: Các lễ hội ở Tây Nguyên thường được tổ chức vào mùa xuân hoặc sau mỗi vụ thu hoạch. Có những lễ hội như hội đua voi, lễ hội cồng chiêng, hội đâm trâu….Các hoạt động của các lễ hội thường là nhảy múa, uống rượu cần, đánh cồng chiêng. Hiện nay, bộ cồng chiêng của người dân Tây Nguyên được UNETCO công nhận là di sản văn hoá. Đây là nhạc cụ đặc biệt quan trọng với người dân nơi này. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 15.

(16) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. Khi dạy bài : Hoạt động sản xuất của người dân ở Tây Nguyên ( tiếp theo) Tôi yêu cầu các em dựa vào tranh đã sưu tầm để tìm thông tin và trình bày khai thác rừng và những nguyên dẫn đến diện tích rừng bị giảm. Sau đó tôi giảng thêm rằng: Rừng Tây Nguyên cho ta nhiều sản vật nhất là gỗ. Ngoài gỗ, rừng còn có tre, nứa, mây, các loại cây làm thuốc và nhiều thú quý. Tuy nhiên hiện nay do phong trào di dân tự do từ các nơi khác đến Tây Nguyên để phá rừng, lấy đất trồng cây cộng nghiệp (cà phê, cao su, tiêu…), nên rừng ở Tây Nguyên bị chặt phá bừa bãi, dẫn đến diện tích rừng giảm mạnh, môi trường bị huỷ hoại, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất và đồi sống của con người. Vì thế chúng ta phải bảo vệ rừng bằng nhiều cách: + Khai thác rừng hợp lý. + Tạo điều kiện để đồng bào định canh định cư. + Không đốt phá rừng. + Mở rộng diện tích trồng cây. +… Khi dạy bài: Hoạt động sản xuất của người dân ở Đồng bằng Bắc Bộ Để cho tiết học thiết thực và hấp dẫn hơn, tôi tổ chức cho các em đến thăm những cánh đồng đang thu hoạch lúa và nhà máy chế biến gạo (nhà máy xay sát thóc) tại địa phương để các em thấy được quá trình thu hoạch và chế biến gạo xuất khẩu. Sau đó tôi liên hệ cho các em biết: Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất của cả nước do nơi đây có diện tích trồng lúa rộng lớn, đất đai màu mỡ, khí hậu thích hợp. Những năm gần đây nhờ đào thêm nhiều kênh mương để đảm bảo nước tưới trong mùa khô nên diện tích trồng lúa được mở rộng, số vụ tăng lên, do đó sản lượng lúa không ngừng tăng. Nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới cũng chủ yếu nhờ đồng bằng sông Cửu Long cung cấp. Khi dại bài: Biển, đảo và quần đảo Để cho tiết học được sinh động, thu hút học sinh, tôi tổ chức cho lớp thăm cảnh biển qua tranh ảnh, kết hợp với việc xem băng hình về các đảo và quần đảo ở nước ta để học sinh thấy được: Chúng ta đã lợi dụng thuỷ triều lên xuống để đánh bắt cá và làm muối. Ngoài những loài cá, loài tôm có giá trị xuất khẩu cao, vùng biển nước ta còn có nhiều đặc sản quý như: hải sâm, bào ngư, sò huyết….. Dọc bãi biển có nhiều bãi cát chứa ô xít, tita có giá trị xuất khẩu. Biển nước ta là nguồn muối vô tận. Nghề làm muối được phát triển từ lâu đời ở vùng ven biển từ Bắc vào Nam. Đặc biệt là ven biển Nam Trung Bộ ở Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Cà Ná (Ninh Thuận). Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 16.

(17) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. Việt Nam có nguồn tài nguyên du lịch phong phú. Dọc bờ biền nước ta, suốt từ Bắc vào Nam có nhiều bãi cát rộng, dài, phong cảnh đẹp, thuận lợi cho việc xây dựng các khu du lịch. Nhiều đảo ven bờ có phong cảnh kỳ thú hấp dẫn khách du lịch. Đặc biệt Vịnh Hạ Long dược UNETCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Tuy nhiên tronh những năm gần đây diện tích rừng ngập mặn nước ta giảm nhanh. Nguồn lợi hải sản cũng giảm đáng kể, khiến cho lượng cá đánh bắt hàng năm giảm, môt số loài hải sản có nguy cơ tuyệt chủng như: có mồi, cá cháy… Ô nhiễm môi trường có xu hướng gia tăng rõ rệt làm cho chất lượng nhiều vùng biển của nước ta giảm sút. Hậu quả là làm giảm nguồn tài nguyên sinh vật biển, ảnh hưởng xấu tới chất lượng của khu du lịch biển. Vì vậy chúng ta phải bào vệ giống loài, không đánh bắt cá bừa bãi, giữ vệ sinh môi trường biển, lập khu bảo tồn động vật biển. Khi dạy bài: Khai thác khoáng sản và hải sản ở vùng biển Việt Nam Tôi hướng dẫn học sinh thấy được nước ta có nhiều loại khoáng sản nhưng nguồn dự trữ của từng mỏ không lớn. Nếu khai thác không có kế hoạch thì nguồn khoáng sản sẽ cạn kiệt nhanh chóng. 7: Tổ chức thi đua khen thưởng qua những trò chơi Tronh những yếu tố quyết định cho phần kiểm tra, củng cố kiến thức sau bài học đạt chất lượng cao đó là “Tổ chức thi đua khen thưởng qua những trò chơi ”. Muốn làm tốt bước này tôi phải luôn thay đổi trò chơi với nhiều hình thức mới lạ nhằm tạo hứng thú cho học sinh đẻ thu hút các em học tập. Ví dụ: Khi dạy bài: Thủ đô Hà Nội Tôi yều cầu các nhóm thảo luận, rồi giới thiệu về Thủ đô Hà Nội với những chủ đề sau: 1. Kể lại câu chuyện truyền thuyết Hồ Hoàn Kiếm 2. Vẽ tranh về Hà Nội. 3. Hát bài hát về Hà Nội. 4. Sưu tầm các hình ảnh về Hà Nội và giới thiệu về Thủ đô theo ý của em. Sau khi thảo luận, tôi yêu cầu các nhóm thể hiện, trình bày tiết mục của mình, nhóm nào trình bày hay được cổ vũ, tuyên dương bằng một tràng vỗ tay. Khi dạy bài: Hoạt động sản xuất của người dân ở Đồng bằng Nam bộ  Tôi tổ chức cho học sinh chơi trò: “Giải ô chữ ”  Luật chơi : - Tôi chuẩn bị sẵn các ô chữ với các nội dung khác nhau, có kèm theo những lời gợi ý. - Học sinh cả lớp có nhiệm vụ giải các ô chữ đó, dựa vào lời gợi ý của giáo viên. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 17.

(18) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. - Học sinh nào giải được ô chữ nhanh và đúng nhất, sẽ nhận được một phần thưởng.  Nội dung ô chữ: 1. Đây là khoáng sản được khai thác chủ yếu ở Đồng bằng Nam Bộ D Ầ U M Ỏ 2. Nét văn hoá độc đáo của người dân Nam Bộ thường diễn ra ở đây. S Ô N G 3. Đây là một hoạt động sản xuất của người dân đối với lương thực, thực phẩm, đem lại hiệu quả lớn. C. H. Ế. B. I. Ế. N. 4. Đồng bằng Nam Bộ được mệnh danh là ……………… phát triển nhất của nước ta V Ù N G C Ô N G N G H I Ệ P Khi dạy bài: Ôn Tập Tổ tổ chức cho học sinh những trò chơi sau: 1. Trò chơi: “AI CHỈ ĐÚNG” - Tôi chuẩn bị sẵn các băng giấy ghi tên các địa danh: dãy núi Hoàng Liên Sơn, đỉnh Phan – xi – păng , Đồng bằng Bắc Bộ , Đồng bằng Nam Bộ, các Đồng Bằng duyên hải Miền Trung, các cao nguyên ở Tây Nguyên, Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Biển Đông, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Cát Bà, Côn Đảo, Phú Quốc. - Nhiệm vụ của các đội chơi: Lần lượt lên bốc thăm, trúng địa danh nào, đội đó phải xác định đúng vị trí và dán tên địa danh đó vào bản đồ trống Địa Lý tự nhiên Việt Nam. - Nếu chỉ đúng và gián đúng vị trí : Đội ghi được 10 điểm - Nếu chỉ sai : Đội không ghi được điểm nào. a. Trò chơi 1: “AI KỂ ĐÚNG” - Tôi chuẩn bị sẵn các bông hoa, trong đó ghi: dãy núi Hoàng Liên Sơn, Tây Nguyên, đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Nam Bộ, Duyên hải miền Trung. - Tôi yêu cầu nhiệm vụ các đội chơi: lần lượt lên bốc thăm, trúng địa danh nào, phải kể tên được các dân tộc và một số đặc điểm về trang phục, lễ hội của dân tộc đó. - Nêu đúng tên các dân tộc và kể được những đặc điểm chính: đội ghi được 10 điểm. - Nếu sai: đội không gthi được điểm. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 18.

(19) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. b. Trò chơi 2: “Ô CHỮ KÌ DIỆU” - Tôi chuẩn bị sẵng các ô chữ hàng dọc và hàng ngang. Luật chơi của các nhóm: - Sau khi nghe lời gợi ý về các ô chữ hàng ngang, đội nào nghĩ ra trước có thể phất cờ để xin trả lờitrước. - Mỗi ô chữ hàng ngang trả lời đúng: đội ghi được 5 điểm. - Ô chữ hàng dọc trả lời đúng: đội ghi được 20 điểm. - Nếu sai: đội không ghi được điểm. - Các đội đều có quyền đặt bông hoa hy vọng ở mỗi lần trước khi giải ô chữ hàng ngang để nếu trả lời đúng thì được tăng gấp đôi số điểm của mình. - Nội dung ô chữ: V U A L U A B I Ê N Đ Ô N G Ê Đ Ê T R Ư Ơ N G S A P H A N X I P H Ă N G N A M B Ộ M U Ô I 1. Đây là sự diễn tả sự nhiều lúa khi nói tới đồng bằng Nam Bộ. 2. Vùng biển nước ta là một bộ phận của biển này. 3. Đây là tên một dân tộc sống lâu đời ở Tây Nguyên mà chỉ có 3 chữ cái. 4. Tên một quần đảo nổi tiếng thuộc tỉnh Khánh Hoà. 5. Đỉnh núi được mệnh danh là nóc nhà của tổ Quốc. 6. Tên đồng bằng lớn nhất nước ta. 7. Đây là một tài nguyên của biển có màu trắng và vị mặn.  Ô chữ hàng dọc: Việt Nam c. Trò chơi 3: “HƯỐNG DẪN VIÊN DU LỊCH” - Hãy đóng vai là một hướng dẫn viên du lịch, giới thiệu về một địa danh trên đất nước Việt Nam (trong đó phải nêu được các đặc điểm về tự nhiên và con ngườicủa nơi đó). Sau khi kết thúc trò chơi, tôi tổng kết và dành ra một số phần quà nhỏ như: bút, vở,… trao cho các đội thắng để khuyên khích tinh thần hăng say học tập của các em. d/ Trò chơi “thi hùng biện”. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 19.

(20) Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập giúp học sinh học tốt môn Địa Lý 4. - Mục đích: Củng cố kiến thức cơ bản về các vùng đồng bằng. Trò chơi này nên tổ chức vào các bài ôn tập, nhằm mục đích hệ thông và tổng hợp kiến thức đã học. - Chuẩn bị: Bông hoa có ghi các câu hỏi. - Cách tiến hành: Cho học sinh nhắc lại các vùng đồng bằng đã học: Đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Nam Bộ, đồng bằng duyên hải miền Trung. Mỗi nhóm cử một đại diện tham gia hùng biện về những đặc điểm cơ bản cuả một trong các vùng đồng bằng trên. Đại diện nhóm lên hái hoa dân chủ, bắt thăm lựa chọn chủ đề, sau khi bắt thăm các nhóm có 3 phút để chuẩn bị nội dung cần thể hiện. Sau 3 phút đại diện của nhóm lên trình bày. Sau khi 3 đại diện đã thi xong, cả lớp sẽ lựa chọn người hùng biện hay nhất để tuyên dương và khen thưởng. - Tác dụng của trò chơi này: Học sinh được dựa trên những hình ảnh, những thông tin làm điểm tựa, một vài trường hợp giáo viên lựa chọn những hình ảnh phù hợp với bài thuyết trình của học sinh. bộ, đồng bằng Nam Bộ 8: Giáo dục lòng yêu thích môi Địa Lý Qua những tiết học, những tiết ôn tập và những tiết thực hành trên bản đồ, học sinh sẽ tự mình giải thích được các hiện tượng Địa Lý đơn giản bằng những kiến thức mà mình đã học, và tự mình tìm hiểu các vùng, miền trên đất nước về điều kiện tự nhiên, về đặc điểm kinh tế của từng nơi,biết phân tích các mối liên hệ giữa các hiện tượng Địa Lý. Trong quá trình học, các em biết được các vùng, miền, thành phố…. nằm ở phía nào (phần nào) của bản đồ; Địa hình khí hậu, sông ngòi, thực vật, động vật nơi đó ra sao? Tóm lại các em có thể du lịch vòng quanh đất nước Việt Nam bằng tấm bản đồ. Từ đó các em sẽ biết tôn trọng, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hoá gần gũi với các em. Qua phần tìm hiểu những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ở các bài Địa Lý học sinh sẽ biết nhân dân ở mỗi khu vực sinh sống và hoạt động như thế nào?, khai thác và sử dụng điều kiện tự nhiên ở nơi đó ra sao?. Qua đó các em hiểu biết hơn về đời sống của nhân dân ta ở từng nơi, từng vùng. Từ đây, học sinh sẽ hãnh diện về tinh thần vượt khó, cần cù lao động của người Việt Nam, về những nét văn hoá độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc, đồng thời thêm lòng yêu thiện nhiên, con người,quê hương, đất nước. Vậy sau khi học xong phân môn Địa Lý các em thấy rằng: Đất nước ta rất giàu về tài nguyên như tài nguyên khoáng sản, động, thực vật….Thông qua môn Địa Lý các em thấy tự hào về đất nước của mình. Muốn sử dụng các nguồn tài nguyên đó để làm giầu cho đất nước thì điều đó còn phụ thuộc vào tinh thần, khả năng học tập của mỗi chúng ta. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Lop4.com. 20.

(21)

skkn một số KINH NGHIỆM tạo HỨNG THÚ học tập TÍCH cực môn địa lí CHO học SINH TRƯỜNG THPT SÔNG RAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.88 KB, 12 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP TÍCH CỰC
MÔN ĐỊA LÍ CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT SÔNG RAY
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
“Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh (HS) phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để hình thành nhân cách con
người Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, xây dựng tư cách công dân, chuẩn bị cho HS
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.” (Điều 23- luật giáo dục). Muốn đạt được mục tiêu đó trong quá trình học tập
HS phải có hứng thú học tập, có nhu cầu được học và học tập một cách tích cực, phải
có tình yêu, niềm đam mê với việc học các môn học, trong đó có môn Địa lí. Tùy vào
đặc trưng môn học, điều kiện giảng dạy giáo viên (GV) có thể thiết kế các hoạt động
dạy học, ứng dụng những phương pháp dạy học thích hợp.
Đặc trưng của môn Địa lí là tính trực quan, nội dung đa dạng bao gồm: Tự
nhiên, kinh tế- xã hội nên có thể ứng dụng nhiều cách thức dạy học khác nhau để tạo
hứng thú học tập cho HS.
Bằng cách nào để nâng cao chất lượng giáo dục, tạo được niềm yêu thích môn
học, vận dụng được những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống cho HS luôn là
vấn đề mà các thầy- cô giáo luôn trăn trở.
Học sinh trường THPT Sông Ray nhìn chung chưa quan tâm nhiều đến môn
Địa lí, chất lượng học tập chưa đạt hiệu quả cao như mong muốn của GV giảng dạy
và lãnh đạo nhà trường. Do vậy để góp một phần nhỏ nhằm nâng cao chất lượng học
tập môn Địa lí ở trường THPT Sông Ray, tôi chọn đề tài này.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lí luận:
1.1. Khái niệm về hứng thú học tập:
Piaget (1896-1996) nhà tâm lí học người Thụy Sĩ, rất chú trọng đến hứng thú
học tập của học sinh, ông viết: ” Trường học kiểu mới đòi hỏi phải hoạt động thật sự,
phải làm việc một cách chủ động dựa trên nhu cầu và hứng thú cá nhân”. Ông cho
rằng mọi việc làm của trí thông minh đều dựa trên một hứng thú. Hứng thú là một
trạng thái tâm lí năng động của sự đồng hóa.
Tâm lí học Macxit nhận xét: Hứng thú là thái độ nhận thức tích cực của cá


nhân với các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Là thái độ khao khát đi sâu
vào các khía cạnh của thế giới xung quanh. Hứng thú là động lực của cảm xúc, sự kết
hợp độc đáo của các quá trình tình cảm, ý chí, trí tuệ taọ nên tính tích cực của con
người trong quá trình hoạt động.
Tâm lí học đại cương của nhóm tác giả Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần
Trọng Thủy cho rằng: Khi ta có hứng thú về một cái gì đó thì cái đó bao giờ cũng
được ta ý thức, ta hiểu ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất
hiện một tình cảm đặc biệt với nó. Vì vậy hứng thú lôi cuốn hướng dẫn chúng ta tiếp
cận đối tượng và tạo nên tâm lí đi sâu tìm hiểu đối tượng.
Do vậy theo tôi: Hứng thú học tập có thể hiểu là sự tổng hợp các cảm xúc, tình
yêu và niềm đam mê tìm hiểu nghiên cứu tri thức môn học một cách chủ động, sáng
tạo và tích cực của học sinh thông qua việc tổ chức các hoạt động của giáo viên.
Hứng thú học tập là một động lực quan trọng để HS vươn lên chiếm lĩnh kiến thức ở
1


nhiều mức độ khác nhau. Nếu trong quá trình học tập học sinh không có hứng thú học
tập hay không có hứng thú với một môn học nào thì chắc chắn kết quả học tập môn
học đó sẽ không cao.
1.2. Khái niệm về học tập tích cực:
Họat động học tập tích cực của HS có thể nói là kết quả của cách dạy học lấy
HS làm trung tâm hay dạy học theo hướng tập trung vào HS của GV.
Tâm lí học hoạt động chỉ ra rằng: Bằng hoạt động và thông qua hoạt động con
người tự sinh ra tâm lí, tạo thành và phát triển ý thức cũng như nhân cách của mình.
HS vừa là sản phẩm vừa là chủ thể tích cực của hoạt động. Kết quả học tập phụ thuộc
chủ yếu vào hoạt động của học sinh. Học “ là sự biến đổi bản thân mình trở nên có
thêm giá trị, bằng lỗ lực của chính mình để chiếm lĩnh nhưng giá trị mới từ bên
ngoài” (Jacques Delors – Learning: The treasure within, USNECO, Pari 1996). Việc
khích thích, tổ chức, chỉ đạo, và điều khiển của GV trong các hoạt động của HS một
cách tích cực là yếu tố quan trọng giúp học sinh học tập tích cực.


A. Cômenxki (1592-1670) đã viết “ Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực
nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách. Hãy tìm ra phương pháp cho
phép GV dạy ít hơn, HS học nhiều và tích cực hơn”. Từ thế kỉ XIX, nhiều nhà giáo
dục đã tiến hành các phương pháp giúp học sinh học tập tích cực, làm cho HS tự hoạt
động và tạo điều kiện cho sự trưởng thành nhanh chóng của HS.
Ở Việt Nam từ cuối thập kỉ 80, bắt đầu xuất hiện những ý tưởng đề cao vai
trò, lợi ích của người học và để người học tự phát triển hay việc sử dụng những
phương pháp dạy học hoặc các hình thức tổ chức dạy học phát huy được tinh thần
chủ động lĩnh hội tri thức, tích cực sáng tạo.
Tóm lại hứng thú học tập tích cực của HS là quá trình lĩnh hội kiến thức một
cách tích cực và chủ động, tự giác, sáng tạo và hợp tác với niềm yêu thích và sự đam
mê tìm hiểu môn học, dưới sự tổ chức, hướng dẫn và điều khiển của GV.
1.3. Vai trò của môn Địa lí trong trường phổ thông.
- Trang bị cho HS một khối lượng tri thức phong phú về tự nhiên, dân cư- xã
hội, kinh tế và mối quan hệ giữa các hoạt động kinh tế với xã hội; Rèn luyện kĩ năng,
kĩ xảo cần thiết trong cuộc sống: Xử lí thông tin, vận dụng kiến thức địa lí vào trong
thực tiễn, đặc biệt kĩ năng bản đồ.
- Bồi dưỡng cho HS thế giới quan khoa học và những quan điểm đúng đắn:
Vận dụng kiến thức địa lí để giải thích một số hiện tượng sự vật trong tự nhiên và đời
sống, quan hệ giữa con người và tự nhiên: Giải thích các hiện tượng Nhật thực,
Nguyệt thực hay tại sao có hiện tượng ngày - đêm dài ngắn theo vĩ độ hoặc giữa các
mùa trong năm, tại sao phải bảo vệ môi trường…
- Môn Địa lí phổ thông có khả năng hình thành cho HS những phầm chất của
người lao động trong xã hội nhờ vào việc nghiên cứu trực tiếp, thường xuyên liên hệ
với thực tế đời sống đất nước và thế giới, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước và
mong muốn được cống hiến sức lao động của mình cho sự phát triển giàu đẹp của đất
nước.
Như vậy tạo được hứng thú học tập tích cực cho HS trong học tập môn Địa lí sẽ đạt
được kết quả cao ở nhiều khía cạnh: HS có kiến thức về địa lí tự nhiên, kinh tế-xã hội
từ đó nhận thức được các hiện tượng sự vật đúng đắn, khách quan và khoa học , giáo


2


dục kĩ năng sống, nâng cao ý thức trách nhiệm bản thân của mỗi HS đối với cuộc
sống và môi trường.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài.
2.1. Nội dung:
2.1. 1.Thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài:
a.Thuận lợi:
- Những yêu cầu đổi mới trong dạy học nói chung và dạy học Địa lí nói riêng
không ngừng được đẩy mạnh nên GV có nhiều cơ hội tạo hứng thú học tập giúp HS
học tập tích cực bằng những phương pháp dạy học mới: Làm việc nhóm, thuyết trình
báo cáo, thực địa…
- Chương trình giáo khoa Địa lí đã đổi mới nhiều về nội dung chương trình,
hình thức trình bày và mục đích yêu cầu. Qua môn Địa lí HS có được những kiến
thức căn bản, cần thiết về Trái Đất- môi trường sống của con người và các hoạt động
sống của loài người trên bình diện toàn thế giới và đât nước mình nên GV có thể dễ
dàng liên hệ với các sự vật- hiện tượng xung quanh, thực tiễn trong quá trình dạy học.
- Đội ngũ giáo viên môn Địa lí tại trường THPT Sông Ray có 04 GV, trình độ
đạt chuẩn (có 01 GV trên chuẩn), không ngừng học hỏi, tìm tòi nâng cao năng lực
chuyên môn và chất lượng giảng dạy. GV trẻ, nhiệt tình trong công tác, tích cực tìm
tòi, vân dụng những phương pháp dạy học giúp HS có hứng thú học tập môn Địa lí
tích cực hơn.
- Nhận thức của HS về vai trò của môn Địa lí đối với đời sống ngày càng cải
thiện, và từng bước có sự yêu thích môn học.
- Học sinh THPT đang ở lứa tuổi rất nhiệt tình tìm kiếm, khám phá thế giới
xung quanh để lĩnh hội tri thức, thích hoạt động, đặc biệt những hoạt động mang tính
sáng tạo, có tinh thần tập thể và tinh thần văn nghệ.
- Cơ sở vật chất, phương tiện dạy học, tư liệu tham khảo được trang bị khá đầy
đủ. Sự phát triển của công nghệ thông tin và viễn thông giúp cho việc tìm kiếm thông


tin, tư liệu của thầy và trò rất thuận lợi.
- Các cấp lãnh đạo nhà trường và cấp trên luôn quan tâm tạo điều kiện cho GV
nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác và cơ hội để GV thể hiện tài năng
của mình như: Tổ chức các kì thi giáo viên giỏi cấp trường, cấp tỉnh hay cuộc thi vận
dụng kiến thức liên môn và tổ chức các chuyên đề cấp Sở,…
b. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trong quá trình giảng dạy tại trường THPT Sông Ray
với mục tiêu: “Giúp HS có hứng thú học tập môn Địa lí”, tôi thấy còn tồn tại một số
khó khăn:
- Khái niệm “môn học phụ” đối với môn Địa lí còn tồn tại trong suy nghĩ của
nhiều HS, đặc biệt những HS ở các lớp Ban khoa học tự nhiên (KHTN) và những HS
có xu hướng thi CĐ- ĐH khối A, B nên không đầu tư nhiều thời gian cho môn học
Địa lí. Thậm chí đối với HS lớp 12 môn Địa lí là môn học có khả năng là một trong
các môn thi tốt nghiệp thì cũng vẫn không phải môn học được chú trọng của các em.
- GV bộ môn Địa lí tuy nhiệt tình, nhưng đều có hoàn cảnh gia đình neo đơn
hoặc khó khăn, kinh nghiệm tích lũy chưa nhiều nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc
vận dụng các phương pháp dạy học tích cực hoặc xây dựng các hình thức dạy học tạo
3


được hứng thú học tập tích cực, ở đó HS có thể phát huy được khả năng của riêng
mình, HS vừa được học tập, vừa được vui chơi và yêu thích môn Địa lí hơn.
- Thực hiện một tiết dạy có vận dụng những hình thức và phương pháp dạy học
giúp HS có hứng thú học tập tích cực phải mất nhiều thời gian cho công tác chuẩn bị
giáo án, tiến hành dạy học (trong khi đó một tiết học chỉ có 45 phút).
- Trường THPT Sông Ray nằm ở vùng nông thôn, kinh tế còn nhiều khó khăn,
xa các trung tâm nên không dễ tổ chức một số hoạt động như tham quan địa lí (tham
quan tìm hiểu một số hoạt động công nghiệp, dịch vụ- thương mại, thực địa tìm hiểu
các sự vật hiện tượng địa lí tự nhiên…).
- Ngoài ra còn một số khó khăn khác: Phương tiện dạy học, băng đĩa tư liệu


cần thiết cho việc dạy và học tập của GV và HS của nhà trường còn thiếu; Khả năng
ứng dụng công nghệ thông tin của GV địa lí trong trường còn hạn chế, kĩ thuật cắt,
chỉnh sửa phim ảnh và ứng dụng các phầm mềm dạy học trên máy tính chưa cao…
2.1.2. Số liệu thống kê về mức độ hứng thú học tập tích cực môn Địa lí trước
khi triển khai thực hiện chuyên đề:
Việc thống kê mức độ hứng thú học tập môn Địa lí ở trường THPT Sông Ray
vào tháng giữa tháng 10 năm 2013, được tiến hành ở 3 lớp: 10A3 (43HS - Ban
KHTN), 11C5 (45HS- Ban cơ bản), 12B1(44 HS- Ban KHTN), khi được yêu cầu trả
lời câu hỏi: ”Em thích học môn Địa lí không? Vì sao?”, tôi thống kê thấy có 3 mức
độ cảm xúc (hứng thú học) về môn Địa lí: Không thích, bình thường và rất thích học.
Các mức độ hứng thú học tập môn Địa lí cũng khác nhau giữa các khối lớp. Cụ
thể tỷ lệ từng lớp như sau:
Các mức độ hứng thú học tập
(%)
Không thích học môn Địa lí
Bình thường
Rất thích học môn Địa lí

Lớp10A3

Lớp11C5

Lớp12B1

23,3
63,5
13,2

33,3
60,0


6,7

28,0
60,8
11,2

Qua bảng số liệu thống kê trên chúng ta thấy:
- Thái độ không quan tâm và xem môn Địa lí chỉ là môn học phụ (thậm chí
không thích học) có tỷ lệ khá cao (28,0% trong tổng số HS của 3 lớp).
+ Riêng lớp 11C5 có tỷ lệ HS không thích học môn Địa cao nhất (33,3%)
trong 3 lớp.
Nguyên nhân chính là các em có đầu vào thấp (học lực yếu), trong quá trình
học tập một số kiến thức Địa lí lớp 10 khá khó và trừu tượng, cách dạy - học bình
thường, chưa hấp dẫn, chưa tạo được tình cảm yêu thích môn học cho các em.
+ Lớp 12B1, 10A3, tỷ lệ không thích học môn Địa cao (lớp 12B1: 28,0 %)
chủ yếu là do các em thuộc Ban khoa học tự nhiên, các môn xã hội trong đó có môn
Địa lí thường không là trọng tâm, ít tạo được chú ý .
- Có thái độ bình thường (là môn học trong chương trình nên phải học) chiếm
tỷ lệ rất lớn (61,4% tổng số HS 3 lớp), trong đó lớp có tỷ lệ cao nhất 10A3 (63,5%).
Nguyên nhân chính là do chưa thấy sự khác biệt về cách truyền đạt của thầy cô và
việc học của HS giữa cấp2 và cấp3.
4


- Yêu thích và mong muốn tìm hiểu nhiều hơn về môn Địa lí vì môn học này
giúp cho HS có sự hiểu biết nhiều vấn đề trong cuộc sống chiếm tỷ lệ không lớn
(10,6% tống số HS 3 lớp).
2. Biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Nhằm khắc phục tình trạng trên, đồng thời tạo hứng thú tập tích cực môn Địa lí,
tôi tiến hành thực nghiệm các biện pháp dạy học sau đây:


2.1. Sử dụng giáo án điện tử trong dạy học.
Giáo án điện tử là phương tiện hố trợ cho GV, giúp bài giảng sinh động , trực
quan hơn. Qua những hình ảnh trực quan của sự vật hiện tượng địa lí, Hs thấy hứng
thú trong học tập và dễ dàng tiếp thu bài học.
Giáo án điện tử là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, giảng dạy
giáo án điện tử mang tính trực quan cao, giúp HS có sự tin tưởng vào tính chân thực
của sự vật hiện tượng được quan sát.
Giảng dạy bằng giáo án điện tử giúp HS có hứng thú học tập và phát triển trí
tuệ thông qua sự kết hợp giữa hình ảnh trực quan và kênh chữ.
Ví dụ: Bài 3- Địa lí 11: “Một số vấn đề mang tính toàn cầu”
+ GV chiếu những hình ảnh về sức ép của dân số đông, tăng nhanh: Sự chật
chội của các khu dân cư, ách tắc giao thông, khói bụi, chất thải sản xuất và sinh hoạt,
những hình ảnh về sự đói nghèo, sự quá tải trong các bệnh viện,… ở các nước đang
phát triển thì HS sẽ hiểu đựơc ngay vấn đề là dân số đông, tăng nhanh sẽ gây ra hậu
quả lớn cho con người.
+ Những hình ảnh về hoạt động sản xuất công nghiệp với nước thải, khí thải
chưa xử lí vào môi trường, khí thải có gốc axit: CO2, NO2, khí CFC của các phương
tiện giao thông, thiết bị và máy lạnh…sẽ giúp HS nhận thức được nguyên nhân gây ra
hiệu ứng nhà kính, sự biến đổi khí hậu toàn cầu và sự suy giảm tầng ôzôn, ô nhiễm
nguồn nước trong các sông suối, biển và đại dương…
Để giúp HS khắc sâu kiến thức, kích thích nguồn cảm hứng học tập của HS
bằng việc sử dụng giáo án điện tử theo tôi khí dạy học giáo viên cần phải:
- Kết hợp hài hòa giữa slide hình ảnh, video clip và lời giảng, giữa màn hình và
ghi bảng trong các hoạt động sao cho linh hoạt và uyển chuyển.
- Nghiêm túc xác định mục tiêu tiết dạy của mình.
- Có sự đầu tư cao trong việc tìm kiếm, cắt chỉnh phim - ảnh để lấy được
những tư liệu mang tính cập nhật, chính xác và sinh động nhất nhằm tránh tình trạng
sử dụng quá nhiều hình ảnh và nhiều hiệu ứng gây tác dụng ngược và làm cho tiết
học bị loãng.
Ngoài ra khi sử dụng giáo án điện tử, kĩ năng sử dụng giáo án điện tử của giáo


viên thật vững để xử lí kịp thời những sự cố kĩ thuật có thể xảy ra trong tiết dạy, giúp
cho quá trình học tập được liên tục và hoàn chỉnh, tránh gây ra sự thất vọng và giảm
hứng thú học tập của học sinh.
2.2. Tích cực dự giờ, thăm lớp sẽ phát huy được tinh thần học tập của học
sinh.
Hoạt động dự giờ thăm lớp không chỉ là việc thực các quy định về chuyên
môn. Hoạt động dự dự giờ thăm lớp được xây dựng trong kế hoạch của mỗi cá nhân
và tổ chuyên môn hàng tháng và trong mỗi năm học.
Dự giờ thăm lớp có rất nhiều ưu điểm:
5


- Giáo viên chủ động, tích cực đầu tư nhiều hơn cho bài giảng của mình.
- Khi có đồng nghiệp dự giờ, GV sẽ chuẩn bị bài dạy kĩ hơn, sẵn sàng trao đổi
về bài dạy với đồng nghiệp trước khi lên lớp, xác định những phương pháp dạy học
thích hợp, các công việc khác được chú ý như: Việc lựa chọn phim ảnh, đồ dùng hoặc
soạn giảng…tạo nên một tiết học hấp dẫn, có nhiều “món” ngon.
- Là hoạt động cần thiết và thiết thực để trau dồi những kinh nghiệm quý báu
trong tổ chức dạy học cho HS giữa các GV với nhau.
- Ngoài ra hoạt động này còn thể hiện được sự quan tâm của GV với HS và
cũng là động lực để HS học tập có hiệu quả.
- HS thường học tập sôi nổi, tích cực, ý thức học tập nâng cao. Đây là điều kiện
thuận lợi để phát huy ý thức tự giác, sáng tạo trong học tập và thể hiện tài năng, tạo
được hứng thú học tập cho HS.
- Thể hiện sự quan tâm của GV đến hoàn cảnh, tâm tư, nguyện vọng HS.
Ví dụ : Trong kì thi giáo viên dạy giỏi cấp trường tổ chức vào tháng 3 năm 2013, bản
thân tôi đã tham gia thi và được phân công dạy hai tiết ở lớp 12B6, 10A6.
+ Theo GV chủ nhiệm và GV giảng dạy các bộ môn của hai lớp này nhận định
thì đây là hai lớp học rất trầm, rất thụ động. Thậm một số đồng nghiệp còn khuyên tôi
xin Ban tổ chức xem xét đổi lớp khác.


+ Sau hai tiết dạy thao giảng (có nhiều GV gồm Ban giám hiệu, GV bộ môn và
GV chủ nhiệm dự giờ) tôi thấy không khí lớp học và tinh thần học tập của HS hai lớp
trên hoàn toàn ngược lại. HS của hai lớp chuẩn bị bài rất tốt, xung phong phát biểu
hăng hái, tích cực xây dựng bài, chủ động trong quá trình học tập, tiếp thu bài rất tốt.
Những HS được xem là thành phần cá biệt hay quậy phá trong các giờ học cũng học
tập rất tích cực và ngoan ngoãn.
Tích cực dự giờ là động lực thúc đẩy sự sáng tạo, tích cực của HS trong quá
trình dạy học. Biện pháp quan trọng giúp giáo viên luôn chuẩn bị đầy đủ kiến thức,
hồ sơ giảng dạy trước khi đến lớp, tránh tình trạng “dạy chay”và trình bày nội dung
bài dạy qua loa gây nhàm chán cho HS.
2.3. Tạo kịch tính trong giờ học.
Thay vì giảng dạy theo trình tự bình thường, Gv có thể biến tiết dạy của mình
thành một vở kịch hay một trò chơi hoặc lồng ghép một đoạn kịch ngắn, âm nhạc, thơ
ca… vào bài dạy Địa lí với những hình ảnh, tình huống sống động khiến HS cảm thấy
sảng khoái, muốn được học và quên cả giờ ra chơi.
Ví dụ: Dạy bài” Thương mại và du lịch”- Địa lí 12
+ Vào đầu tiết học GV tiến hành bài học bình thường bằng giáo án điện tử. Sau
khi kết thúc phần I - Thương mại. GV mở bài hát “Bốn phương trời” và bắt nhịp cho
HS hát tập thể bài hát này vừa để xả strees vừa khẳng định tinh thần đa phương hóa
trong ngoại giao và buôn bán quốc tế.
+ Sang phần II- Du lịch, Gv chọn trong lớp 2HS (hoặc 3HS) có khả năng dẫn
chương trình (HS xung phong hiệu quả hơn) làm hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu
về tuyến du lịch xuyên Việt (Lưu ý nên chọn trước để HS chuẩn bị được bài giới
thiệu và hình ảnh về tuyến du lịch). Số HS còn lại là du khách (nội địa và quốc tế) sẽ
đánh giá bài giới thiệu thông qua số lượng khách đăng kí tham gia theo đoàn của mỗi
hướng dẫn viên.
6


+ Sau khi 2 HS “hướng dẫn viên” làm xong nhiện vụ giới thiệu về tuyến du


lịch xuyên Việt với nội dung chủ yếu là giới thiệu về tài nguyên du lịch và các trung
tâm du lịch trên tuyến, GV đánh giá hai bài thuyết trình bằng số lượng khách tham
gia ủng hộ mỗi đoàn, nhận xét nội dung bài thuyết trình, củng cố lại nội dung và mở
Video clip ca khúc “Việt Nam quê hương tôi” hoặc “ Một thoáng quê hương” để kết
thúc bài dạy.
Như vậy thông qua các hoạt động vui chơi và giải trí bằng trò chơi và lồng
ghép âm nhạc nêu trên, tôi thấy:
- HS thi đua học tập một cách tự giác, sáng tạo và không khí trong lớp học sôi
động.
- Tài năng của HS được phát huy, thậm chí có thể định hướng nghề nghiệp
tương lai cho HS.
- Thực tế cho thấy HS không chỉ nắm nội dung bài học một cách chủ động, mà
còn cảm nhận được cái đẹp của thiên nhiên, giá trị của các hoạt động sản xuất và lao
động của con người, yêu đất nước, có ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng,
phát triển và bảo vệ tổ quốc.
Tạo hứng thú học tập tích cực môn Địa lí bằng cách lồng ghép âm nhạc, thơ ca,
phim ảnh hay diễn tả nội dung bài học qua thuyết trình, tổ chức các trò chơi và đóng
kịch…không khó, không tốn thời gian (thời gian một tiết học vẫn có thể đảm bảo nội
dung) nhưng:
- GV cần phải chú trọng trong việc tìm tư liệu, chọn lọc thông tin, xử lí nội
dung, tư liệu thành một vấn đề kịch tính.
- HS tham gia trong tiết học này cần phải chuẩn bị trước nội dung hoạt động
dưới sự hướng dẫn của GV để tiết học đạt hiệu quả như mong muốn.
2.4. Các phương thức dạy học tạo hứng thú học tập tích cực khác: Tổ chức
thuyết trình về các vấn đề Địa lí có giải thưởng; Tổ chức các hoạt động ngoại khóa:
Đố vui để học, sân khấu hóa các vấn đề về môi trường, biển- đảo; tổ chức câu lạc bộ
Địa lí…đều có những ưu điểm:
- Tạo môi trường học tập thân thiện, vui tươi có sự đồng cảm giữa GV và HS.
- Kích thích HS có hứng thú học tập tích cực, chủ động và yêu thích môn học
nhiều hơn.


- Sự mới mẻ trong dạy và học làm cho HS muốn khám phá và lĩnh hội tri thức.
- Sự kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của
GV tạo nên sự lôi cuốn và đam mê học tập cho HS.
Ngoài sự vận dụng các phương thức dạy học kể trên để tạo được hứng thú học
tập tích cực cho HS, GV cần:
- Phong cách giảng dạy chững chạc, khả năng truyền đạt tốt.
- Giao tiếp, ứng xử với HS vui vẻ, đúng mực và công bằng.
- Lựa chọn và cô đọng nội dung bài dạy một cách ngắn gọn, xúc tích để tạo cảm
giác “dễ học” cho HS.
- Trong dạy học nói chung và dạy Địa lí nói riêng có nhiều phương pháp giảng
dạy với những ưu điểm khác nhau cho nên GV cần kết hợp nhuần nhuyễn các
phương pháp tạo nên sự biến hóa nhanh chóng phù hợp với hoàn cảnh khách
quan.
3. Giáo án minh họa cho một trong những biện pháp nêu trên:
7


Ví dụ: Sử dụng giáo án điện tử để giảng dạy (có phụ lục PowerPoint kèm theo).
Bài 11- tiết 11: KHÍ QUYỂN. SỰ PHÂN BỐ NHIỆT ĐỘ KHÔNG KHÍ
TRÊN TRÁI ĐẤT
I.
MỤC TIÊU BÀI DẠY: Sau bài học HS cần:
1. Về kiến thức:
- Biết khái niệm khí quyển.
- Hiểu được nguyên nhân hình thành và tính chất của các khối khí.
- Biết khái niệm front và các front. Tác động của front đối với thời tiết.
- Hiểu được nhiệt độ không khí ở tầng đối lưu chủ yếu do nguồn BXMT cung
cấp.
- Trình bày được sự phân bố nhiệt độ không khí trên Trái Đất và nguyên nhân
của sự phân bố đó.


2. Về kĩ năng:
- Sử dụng bản đồ, phân tích bản số liệu, tranh ảnh để hiểu về khí quyển và sự
phân bố nhiệt độ không khí trên Trái Đất.
- Kĩ năng sống được GD trong bài:
+ Tự nhận thức về vai trò quan trọng của khí quyển đối với sự tồn tại và
phát triển của sinh vật trên Trái Đất. Sự nguy hiểm của việc tầng Ozon bị
suy thoái.
+ Lắng nghe tích cực và suy nghĩ , trình bày suy nghĩ về việc bảo vệ môi
trường.
Quản lí thời gian khi làm việc nhóm để tìm hiểu sự phân bố nhiệt độ không
khí trên Trái Đất.
3. Về thái độ: Có ý thức về việc dùng năng lượng Mặt Trời thay thế năng lượng
truyền thống.
II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC: Máy chiếu và giáo án soạn thảo trên PowerPoint.
III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC: Đàm thoại gợi mở, thảo luận nhóm.
IV. TIẾN TRÌNH BÀI DẠY:
1. Ổn định lớp:
2. Kiểm tra bài cũ: Không kiểm tra.
3. Giảng bài mới: GV mở một đoạn bài hát “Gửi nắng cho em - Anh ở trong
này chưa thấy mùa đông…Gửi nắng về sưởi ấm những bàn tay”. Tại sao có
những vùng có khí hậu nóng, nhưng cũng có những nơi khí hạu lạnh? Bài
học hôm nay giúp chúng ta hiểu vì sao như vậy.
Hoạt động của GV và HS
Nội dung bài học
Hoạt động 1: Cả lớp
I. Khí quyển.
GV chiếu slide 2, giới thiệu khái quát cho 1. Khái niệm: Khí quyển là lớp không
HS biết thành phần các chất khí có trong khí bao quanh Trái Đất. Chịu tác động
khí quyển. Khẳng định vai trò của hơi mạnh mẽ bởi Vũ Trụ.
nước trong khí quyển.


- HS quan sát hình 11.2 (sgk – slide 3) +
hiểu biết của mình nêu khái niệm khí
quyển.
8


- GV chiếu slide 4 giới thiệu khái quát về
cấu trúc của khí quyển. Giáo dục HS ý
thức bảo vệ môi trường qua việc giới
thiệu về vai trò của tầng Ozon ở tầng
bình lưu.
Hoạt động 2: Cá nhân
- GV cho HS quan sát lược đồ các khối
khí ở bán cầu Bắc ( slide 6) và yêu cầu
HS: Nêu tên và xác định các khối khí.
Nguyên nhân vì sao có sự tồn tại của các
khối khí trên Trái Đất?
GV chuẩn kiển thức.
Nêu tính chất của các khối khí trên?
Minh họa: - Sự di chuyển và biến tính khi
di chuyển từ lục địa ra đại dương và
ngược lại.
- Sự di chuyển của Pc từ Xibia
vào nước ta ở nửa đầu mùa đông và nửa
sau mùa đông. Đồng thời giải thích sự
khác biệt về khí hậu 2 miền Nam- Bắc
nước ta thể hiện trong bài hát “Gửi năng
cho em” HS được nghe đầu giờ. Đặc
điểm của các khối khí là gì?
- GV: Giữa các khối khí cực đới và ôn


đới hay ôn đới và nhiệt đới (chí tuyến)
tồn tại một mặt ngăn cách (tiếp xúc) gọi
là Front. Front là gì? Trên Trái Đất có
những F nào? Số lượng?
Vì sao giữa khối khí xích đạo và chí
tuyến không tồn tại F?
Liên hệ Việt Nam: Huế là nơi có lượng
mưa cao nhất ở nước ta, một phần do ảnh
hưởng của CIt.
Hoạt động 3: Nhóm và cá nhân
Bước 1:
HS xem hình 11.2 (slide 8) Xác định tỷ lệ
lượng BXMT mà Trái Đất hấp thụ?
GV Khẳng định một lần nữa vai trò
của tầng Ozon và GD ý thức bảo vệ MT
(slide 9). Quan hệ giữa BXMT và nhiệt
độ không khí trên Trái Đất là gì?
GV nhấn mạnh bức xạ Mặt Trời là
nguồn năng lượng vô tận để con người sử
dụng phục vụ cho mục đích sinh hoạt và
SX thay thế cho nguồn năng lượng truyền

2. Các khối khí:
- Ở mỗi bán cầu có 4 khối khí: Địa cực
(A), ôn đới (P), chí tuyến (T), xích đạo
(E).

- Tính chất của các khối khí khác nhau,
luôn di chuyển và bị biến tính dẫn đến sự
hình thành các khối khí mang tính chất


hải dương (m) hoặc lục địa (c).

3. Front (F):
- Front là mặt ngăn cách giữa 2 khối khí
có tính chất khác biệt nhau.
- Mỗi bán cầu có 2 front: Front cực (FA),
front ôn đới (PA) và một dải hội tụ nhiệt
đới (CIt) chung cho cả 2 bán cầu.
- Nơi có F hoặc CIt di chuyển qua thường
làm cho thời tiết bị biến đổi đột ngột.
II. Sự phân bố nhiệt độ không khí trên
Trái Đất:
1. Bức xạ Mặt Trời và nhiệt độ không
khí: BXMT là nguồn cung cấp nhiệt chủ
yếu cho không khí ở tầng đối lưu.

9


thống.
Quan sát hình 11.3, 11.4 và bảng số liệu 2. Sự phân bố nhiệt độ không khí trên
11.1(sgk- Slide10), nêu nhận xét về sự Trái Đất:
phân bố nhiệt độ không khí trên Trái
- Phân bố theo vĩ độ.
Đất?
- Phân bố theo lục địa và đại dương.
Bước 2:
- Phân bố theo độ cao và hướng phơi
- GV chia lớp thành 3 nhóm và giao địa hình.
nhiệm vụ cho các nhóm.


Nhóm 1: Tìm hiểu sự phân bố nhiệt độ
không khí theo vĩ độ (slide11).
Nhóm 2: Phân bố nhiệt độ không khí
giữa lục địa và đại dương (slide 12).
Nhóm 3: Sự phân bố nhiệt độ không khí
theo địa hình (slide13).
Bước 3: HS thảo luận theo bàn và trình
bày phần tìm hiểu của mình. GV chuẩn
kiến thức kết hợp yêu cầu HS giải thích
sự phân bố đó? Đà Lạt, Sapa là 2biểu
hiện rõ rệt sự phân hóa nhiệt độ theo độ
cao đại hình của nước ta.
4. Đánh giá: (slide 14)
a. Khí quyển đang đứng trước nguy cơ đe dọa nào? Nguyên nhân gây ra và biện
pháp giải quyết các nguy cơ đó.
b. Tại sao khối khí xích đạo chỉ có một kiểu duy nhất là xích đạo hải dương (Em).
5. Dặn dò: Ôn bài cũ và chuẩn bị bài 12.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
1. Số liệu thống kê sau khi triển khai thực nghiệm đề tài:
Sau nhiều năm giảng dạy tôi đã rút ra một số kinh nghiệm trên và một năm học
2012-2013 tiến hành thực nghiệm chuyên đề bằng cách đánh giá qua các hoạt động
trong các tiết học, đánh giá qua điểm số các bài kiểm tra thường xuyên cũng như định
kì của HS các lớp 10A3, 11C5, 12B1 trường THPT Sông Ray, đồng thời tiếp tục yêu
cầu HS các lớp trả lời câu hỏi: “Em có thích học môn Địa lí không? Tại sao?” , tôi
thông kê được kết quả như sau:
Các mức độ hứng thú học tập
(%)
Không thích học môn Địa lí
Bình thường
Rất thích học môn Địa lí



Lớp10A3

Lớp11C5

11,6
36,5
51,9

14,9
40,1
45,0

Lớp12B1
8,0
42,8
49,2

So với trước đây các mức độ hứng thú học tập tích cực của HS được nâng cao,
chuyển biến rõ rệt, tỷ lệ yêu thích và không thích môn học Địa lí đảo ngược nhau:
Trước đây 1 năm, tỷ lệ không thích học ở cả 3 lớp khoảng 28,0% và thích học 10,6%
10


còn lại là thái độ bình thường. Sau một năm học tỷ lệ không thích học ở cả 3 lớp
khoảng 11,5% và thích học trên 48% còn lại là thái độ bình thường. Cụ thể:
- Thái độ không quan tâm và xem môn Địa lí chỉ là môn học phụ (thậm chí
không thích học) giảm rất nhiều và chiếm tỷ lệ không lớn (Lớp 12B1 còn 8,0%, lớp
11C5 giảm xuống còn 14,9%).
- Có thái độ bình thường (là môn học trong chương trình nên phải học) giảm


nhiều (10A3 thấp nhất: 36,5%).
- Yêu thích và mong muốn tìm hiểu nhiều hơn về môn Địa lí vì môn học này
giúp cho HS có sự hiểu biết nhiều vấn đề trong cuộc sống chiếm tỷ lệ lớn hơn lúc đầu
(khoảng trên 45% số HS mỗi lớp). Trong đó lớp có tỷ lệ này cao nhất là 10A3: 51,9
%.
2. Một số ý kiến của HS:
Ngoài việc thống kê số liệu ở các lớp, tôi đã tiếp thu được một số đề xuất của
HS các lớp thực nghiệm như sau:
- Lớp 10A3: “Chúng em thật sự yêu thích các tiết học cô dạy bằng giáo án điện
tử hay tổ chức các buổi thuyết trình và đóng kịch ở một số bài học: Các quy luật của
lớp vỏ địa lí, Địa lí các ngành GTVT, Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững,...
Chúng em cũng rất thích các tiết học có lồng ghép âm nhạc hoặc các trò chơi vì nó
tạo cho chúng em cảm giác rất thoải mái, tiết học rất nhẹ nhàng và vui vẻ”.
- “Khi có giáo viên dự giờ lớp chúng em thường học rất tích cực, hào hứng, tập
trung và rất nghiêm túc, chúng em tham gia xây dựng bài sôi nổi, chúng em không
muốn cô thất vọng, vì khi có thầy cô đến dự giờ có lẽ cô phải mất nhiều thời gian
chuẩn bị và những tiết học đó rất hấp dẫn”. - Lớp 11C5.
- “Những tiết học Địa lí có cải tiến, dạy bằng công nghệ thông tin, có sử dụng
phim - ảnh, lồng ghép trò chơi, âm nhạc hay diễn kịch…rất lôi cuốn chúng em, chúng
em rất thích nhưng những tiết học như vậy còn quá ít. Chúng em rất mong được học
tập tích cực và chủ động, sôi nổi và sáng tạo như những tiết học mà cô đã dạy vừa
qua. Chúng em học 12 nên chúng em mong muốn các bạn 10,11 sẽ được học nhiều
hơn những tiết học giáo án điện tử, hay lồng ghép các trò chơi, tổ chức thi thuyết
trình…”- lớp 12B1.
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG:
Trong phạm vi trường THPT Sông Ray, tôi xin có một số ý kiến đề xuất:
1. Đối với giáo viên dạy học môn Địa lí:
- Chúng ta cần tích cực tìm tòi những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
thích hợp để khơi dậy được những tình cảm, ý thức tích cực của HS nhằm có những
hoạt động tích cực để chiếm lĩnh kiến thức.


- Cần tích cực học tập, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy giữa các giáo viên bộ
môn nhằm nâng cao năng lực công tác và khả năng dạy học môn Địa lí.
- Trong quá trình dạy học cần phối hợp linh hoạt các phương và hình thức tổ
chức dạy học tạo môi trường học tập thân thiện, học tích cực. Quan tâm sâu sắc đến
tâm tư nguyện vọng của HS, cảm thông và chia sẻ những khó khăn với HS trong cuộc
sống. Niềm tin của HS vào những tình cảm chân thành của GV đôi khi cũng tạo nên
hứng thú trong học tập.
2. Đối với các cấp lãnh đạo:
11


- Cần hết sức quan tâm tạo điều kiện cho GV có cơ hội thực hiện những hoạt
động dạy học tạo được hứng thú học tập tích cực cho HS.
- Đẩy mạnh các hoạt động thi đua, các phong trào dạy tốt, học tốt…
- Có biện pháp hữu hiệu khuyến khích GV tích cực áp dụng những phương
pháp, hình thức dạy học mang lại cảm hứng học tập tích cực cho HS, phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản, đáp ứng được nhu
cầu người lao động mới của xã hội trong tương lai.
- Sắp xếp thời gian kết hợp tổ trưởng chuyên môn dự giờ thăm lớp định kì
nhằm tạo sự gần gũi, thông hiểu lẫn nhau giữa lãnh đạo nhà trường với GV và HS.
Tạo được hứng thú học tập tích cực cho HS là rất cần thiết. Nó không chỉ mang
lại hiệu quả về mặt nhận thức kiến thức cho HS mà còn khơi dậy được ở các em
những tiềm năng vốn có, giúp HS biết đánh giá được nhu cầu học tập của mình.
Đặc biệt với HS cuối cấp (lớp 12) hứng thú học tập chính là động lực để HS
vươn tới tương lai, có định hướng đúng đắn về sự lựa chọn nghề nghiệp của mình.
Trên đây là một vài ý kiến của tôi về việc tạo hứng thú học tập tích cực môn
Địa lí cho HS trường THPT Sông Ray. Bản thân tôi vì những khó khăn nhất định do
hoàn cảnh nên tích lũy kinh nghiệm chưa nhiều, đề tài này là những ý kiến chủ quan
của bản thân tôi về việc dạy và học môn Địa lí trong phạm vi trường THPT Sông Ray
nên không thể không có sai xót. Kính mong nhận được sự góp ý của quý đồng nghiệp


để tôi được học hỏi và hoàn thiện đề tài này, phục vụ tốt cho công tác giảng dạy môn
Địa lí.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tâm lí học đại cương- Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy- Nhà xuất
bản giáo dục Hà Nội, 2002.
2. Đổi mới phương pháp dạy học Địa lí ở trường THPT- Nguyễn Đức Vũ, Phạm
Thị Sen- Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội, 2004.
3. Sách giáo khoa, sách giáo viên Địa lí 10- Lê Thông (tổng chủ biên)- Nhà xuất
bản giáo dục Hà Nội, 2006.
4. Sách giáo khoa, sách giáo viên Địa lí 11- Lê Thông (tổng chủ biên)- Nhà xuất
bản giáo dục Hà Nội, 2007.
5. Sách giáo khoa Địa lí 12- Lê Thông, Nguyễn Viết Thịnh- Nhà xuất bản giáo dục
Hà Nội, 2005.
Người thực hiện

Hoàng Thị Lương

12



Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm vận dụng trò chơi học tập môn Địa lí lớp 4

I. PHẦN MỞ ĐẦU

1.1 Lý do chọn đề tài.

Để thực hiện mục tiêu giáo dục của Bộ GD&ĐT đã đặt ra: Giáo dục cho học sinh Tiểu học là phải giáo dục toàn diện, không coi trọng môn chính, môn phụ. Bởi vậy cùng với các môn học khác, môn Địa lí đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển toàn diện cho học sinh.

Để dạy tốt môn Địa lí, người giáo viên cần biết phối kết hợp các phương pháp dạy học như: Phương pháp quan sát, phương pháp nhóm, phương pháp trò chơi học tập. Trong đó phương pháp Trò chơi học tập là một trong những phương pháp dạy học có hiệu quả nhằm khuyến khích sự tò mò khám phá, thói quen đặt câu hỏi, tìm câu giải thích khi các em được tiếp cận với thực tế, qua đó các em dễ dàng ghi nhớ nội dung bài học.

- Trò chơi học tập còn có một vai trò rất lớn trong mỗi tiết học vì:

+ Nó làm thay đổi không khí lớp học, tập thể có được bầu không khí vui vẻ, thân ái, thông cảm.

+ Quá trình học tập còn trở thành một hình thức vui chơi hấp dẫn.

+ Học sinh thấy nhanh nhẹn cởi mở hơn.

+ Học sinh tiếp thu bài tự giác, tích cực hơn.

+ Học sinh được hệ thống và củng cố kiến thức.

Nhưng một số ý kiến cho rằng, sử dụng phương pháp này sẽ gây ồn ào, mất trật tự ảnh hưởng đến hoạt động khác, lại có ý kiến cho rằng phương pháp này chỉ là hình thức và thay bằng hoạt động cá nhân, nếu có tổ chức cũng chỉ là gượng ép, miễn cưỡng.

Mặt khác, một số giáo viên khi sử dụng phương pháp Trò chơi học tập lại chưa biết lựa chọn nội dung bài dạy để vận dụng phương pháp trò chơi học tập cho hợp lý, hoặc trò chơi đưa ra không có tác dụng thiết thực phục vụ mục tiêu bài học nên việc tổ chức Trò chơi học tập chơi chưa đạt hiệu quả cao.

Riêng tôi, tôi thấy phương pháp Trò chơi học tập có nhiều ưu điểm, không những giúp học sinh tự khám phá, hình thành, hệ thống kiến thức mà nó còn tạo cho các em có sự thi đua, tính nhanh nhẹn, cởi mở, vui vẻ khi đến trường tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện ở học sinh Tiểu học.

Qua nhiều năm giảng dạy, tôi thấy đa số học sinh rất muốn được tham gia Trò chơi học tập nhưng vẫn còn không ít học sinh thụ động, tự ti, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động này. Mặt khác, trong môn Địa lí lớp 4 có rất nhiều tiết học cần sử dụng đến phương pháp Trò chơi học tập để phát hiện kiến thức mới hoặc để củng cố kiến thức đã học.

Từ những nội dung phân tích trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “ Một số kinh nghiệm Vận dụng trò chơi học tập dạy môn Địa lí lớp 4” làm đề tài nghiên cứu và thực hiện trong năm học này.

1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.

Qua tình hình thực tế của khối, bản thân tôi đã suy nghĩ và mạnh dạn tìm ra biện pháp để khắc phục tình trạng trên nhằm tạo hứng thú học tập cho các em và nâng cao hiệu quả của tiết dạy Địa lí. Đây là một hình thức “ Học mà chơi, chơi mà học”. Kết hợp trò chơi trong bài giảng sẽ giúp giáo viên truyền đạt nội dung tốt hơn – Học sinh tích cực học tập, tự giác học tập say mê với môn học đồng thời các kiến thức được khắc sâu hơn. Từ suy nghĩ này, tôi đã áp dụng trong thực tế giảng dạy và bước đầu đã có những kết quả khả quan.

Nghiên cứu phương pháp dạy học môn Địa lí từ đó tìm ra phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh.

Nghiên cứu các trò chơi học tập để giúp học sinh thực hiện trò chơi có hiệu quả.

Tìm ra các phương pháp dạy học phù hợp để nâng cao chất lượng học tập của học sinh và làm nền tảng vững chắc cho những năm học tiếp theo.

1.3. Đối tượng nghiên cứu

Tất cả giáo viên và các em học sinh khối 4 Trường Tiểu học .......... huyện ..........– Tỉnh ...........

1.4. Giới hạn vi nghiên cứu

- Nghiên cứu một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của phương pháp trò chơi học tập trong môn Địa lí lớp 4.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu tài liệu.

Phương pháp quan sát.

Phương pháp điều tra ( phỏng vấn, trưng cầu ý kiến, phiếu điều tra,…).

Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động ( nghiên cứu kết quả học tập của học sinh ).

Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

Phương pháp thống kê toán học.

Phương pháp phân tích, tổng hợp.

II. PHẦN NỘI DUNG

II.1. Cơ sở lí luận

Vui chơi là một hoạt động không thể thiếu được của con người ở mọi lứa tuổi, đặc biệt ở lứa tuổi Tiểu học. Bởi lẽ, nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi này. Bởi vậy phương pháp Trò chơi học tập được đánh giá cao trong giảng dạy.

* Trò chơi học tập là gì? Trò chơi không chỉ là một “công cụ” dạy học mà nó còn là con đường sáng tạo xuyên suốt quá trình học tập của học sinh. Phương pháp tổ chức trò chơi không chỉ là sự đánh giá trong quá trình dạy và học của thầy và trò mà nó còn tạo cho ta cảm giác thoải mái, tự tin, có sự sáng tạo, nhanh trí, có óc tư duy, tưởng tượng của học sinh. Dạy kết hợp với tổ chức trò chơi chính là việc giáo viên hướng dẫn học sinh hoàn thành tốt phẩm chất của con người mới: Con người xã hội chủ nghĩa.

Tổ chức trò chơi là một hình thức tổ chức dạy học, chơi là một biện pháp học tập có hiệu quả của học sinh. Thông qua trò chơi, học sinh được tập luyện, làm việc cá nhân, làm việc theo đơn vị tập thể theo sự phân công với tinh thần hợp tác. Đó là những việc làm thuộc phương pháp học tập mới mà trường Tiểu học cần hình thành ở người học.

II.2. Thực trạng

a. Thuận lợi - khó khăn

- Được sự quan tâm, chỉ đạo của Phòng giáo dục và đào tạo, của lãnh đạo trường và đặc biệt các đồng chí giáo viên trong tổ chuyên môn luôn nhiệt tình trong giảng dạy, trong dự giờ thăm lớp trao đổi để đúc rút kinh nghiệm. Đa số các em không những ngoan ngoãn, lễ phép mà còn năng động hoạt bát, thích tìm hiểu và tham gia các hoạt động.

- Về giáo viên: Không thích dạy môn Địa lí. Thiết bị, tranh ảnh, tài liệu môn Địa lí còn ít. Về học sinh: Chưa chú trọng môn Địa lí, xem đây là môn phụ, chưa hiểu hết ý nghĩa của môn học.

b. Thành công, hạn chế

- Đưa trò chơi học tập vào dạy Địa lí giúp tiết học trở nên sôi động, thu hút được sự chú ý của nhiều học sinh. Giúp học sinh có thể tư duy, ghi nhớ nội dung bài học một cách dễ dàng.

- Hiện nay, trò chơi Địa lí còn rất đơn lẻ, nghèo nàn, ít được phổ biến và
gặp khó khăn trong việc thiết kế, tổ chức trò chơi vì có ít tài liệu tham khảo vấn đề này.

c. Mặt Mạnh- hạn chế:

- Sau thời gian học tập và giảng dạy vừa qua, bản thân tôi cũng nhận thấy đội ngũ giáo viên nói chung đều rất quan tâm đến việc áp dụng phương pháp dạy học mới vào từng bài dạy, luôn tiếp thu học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp thông qua các tiết dự giờ, các buổi hội giảng theo chuyên đề.

- Nhưng những việc làm đó vẫn chưa đẩy lùi được một số khó khăn nêu trên và chính những khó khăn đó đã dẫn đến một thực trạng là chất lượng sau mỗi giờ học Địa lí còn chưa cao, học sinh cũng chưa thực sự yêu thích môn Địa lí, chưa chú tâm và có những hứng thú khi học Địa lí. Tất cả những điều này nếu không sớm được khắc phục thì sẽ tạo ra những khó khăn khác cho học sinh trong quá trình học tập.

Nói tóm lại, dựa trên những căn cứ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi thấy việc tăng cường tổ chức các trò chơi học tập để khắc phục tình trạng trên nhằm gây hứng thú học tập cho các em và nâng cao hiệu quả giờ học là vô cùng cần thiết

d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.

Trong những năm gần đây tình hình an toàn thực phẩm, những đồ chơi nguy hiểm, biến đổi khí hậu, dịch bênh ngày càng gia tăng. Tìm hiểu những nguyên nhân trên hay đổ lỗi cho nhà trường thiếu sự quan tâm, giáo dục học sinh, thiếu sân chơi lành mạnh, bổ ích, tầm thường hóa bộ môn Địa lí, cái nền tảng để thực hiện các nguyên tắc vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng còn bị xem nhẹ. Các bậc phụ huynh luôn nhắc nhở con em mình tập trung váo các môn học chính như Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh, còn xem thường môn phụ như môn Địa lí.

Kiến thức học tập ngày càng cao học sinh chỉ biết tập trung vào học với học, học sinh có ít thời gian để vui chơi, giải trí lành mạnh, quỹ thời gian còn lại đa phần lao vào các quán internet để chơi game hoặc chơi những đồ chơi có hại tới sức khỏe, từ đó nhân cách của một số em bị méo mó bởi những trò chơi, đồ chơi có hại. Trong khi đó nhà trường ít có hoạt động ngoại khóa hay tổ chức sân chơi lành mạnh cho học sinh, nếu có tổ chức thì phạm vi ảnh hưởng chưa cao, trước tình hình đó việc tổ chức trò chơi học tập trong tiết học là cần thiết học mà chơi, chơi mà học.

e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.

Địa bàn trường Tiểu học .......... nằm trên thị trấn Buôn Trấp trình độ dân trí tương đối cao, người dân đã có ý thức trong việc sinh đẻ có kế hoạch nên mỗi gia đình chỉ có một đến hai con. Chính vì lẽ đó mà việc quan tâm đến học tập của các em được cha mẹ các em hết sức coi trọng nên việc nâng cao chất lượng giáo dục phần nào cũng thuận lợi hơn, các em có đầy đủ điều kiện cho việc học. Song trong địa bàn vẫn còn nhiều gia đình học sinh kinh tế còn khó khăn, thuộc diện hộ nghèo, bố mẹ đi làm ăn xa ít quan tâm đến việc học của con em mình. Các em chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học, chưa có khả năng tự học, tự rèn. Khả năng tư duy ở một số học sinh còn hạn chế. Do vậy, việc tiếp thu bài, tính tự giác, khả năng quản lý, tổ chức của một số em còn hạn chế.

Một số giáo viên lười tổ chức trò chơi học tập vì sợ mất nhiều thời gian, rườm rà, khó quản lý học sinh. Trong khi chơi trò chơi học sinh còn làm việc riêng chưa phát huy tính thi đua giữa cá nhân và các nhóm của các em. Chưa nắm vững luật chơi, cách chơi, thời gian chơi dẫn đến chất lượng trò chơi nhiều lúc chưa cao.

II.3. Giải pháp, biện pháp

a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp

Sau thời gian nghiên cứu tài liệu của đồng nghiệp về phương pháp giảng dạy kết hợp với việc giảng dạy trên lớp, tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, bản thân giáo viên phải xác định đây là một phương pháp có nhiều hiệu quả cao đối với việc tạo sự kích thích và tạo sự hưng phấn tham gia vào bài giảng của học sinh , do vậy giáo viên cần tránh thái độ, tâm lý e ngại hoặc thực hiện nửa vời, không duy trì thường xuyên đối với mỗi tiết học trên lớp, điều này rất quan trọng trong xác định tâm thế để thực hiện nội dụng một tiết học theo phương pháp này.

Thứ hai, giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ và kỹ nội dung giảng dạy và cách tổ chức sinh hoạt trò chơi kèm theo các dụng cụ cần thiết và biết dự đoán trước mọi tình huống có thể xảy ra để không bị bất ngờ và có khả năng tùy cơ ứng biến. Giáo viên cần tạo một ấn tượng ban đầu tốt đẹp cho sinh viên. Ấn tượng ban đầu tốt (hòa nhã, vui tính, thân thiện, không đe dọa,...) sẽ giúp giáo viên dễ thành công trong các tiết dạy tiếp theo. Khi học sinh có cảm tình với giáo viên, các em sẽ hợp tác tích cực với giáo viên - Bầu không khí sẽ trở nên sôi động và tự nhiên.

Thứ ba, phải biết làm chủ thời gian, kiểm soát được tiến trình hoạt động, nếu không trò chơi sẽ phản tác dụng. Học sinh không có cơ hội có ý tưởng mới rút ra từ hoạt động trò chơi, thậm chí có khi các em bị bối rối thêm. Nên dành khoảng thời gian vừa đủ để học sinh nhớ lại các hoạt động đã qua và rút ra điều gì cần thiết liên quan tới bài học. Nếu dành thời gian nhiều quá để chơi, cuối cùng ta sẽ không rút ra được bài học gì vì đã quá giờ!

Thư tư, trò chơi được chọn tốt, phù hợp với lứa tuổi, tâm lí của các em, phù hợp với nội dung bài học sẽ làm cho các em nắm vững kiến thức. Cùng một loại trò chơi, có thể sáng tạo nhiều cách khác nhau tùy số học sinh, tùy diện tích phòng hay cách bố trí bàn ghế. Quan trọng là giáo viên phải nắm rõ ý nghĩa và mục tiêu của trò chơi để khai thác hết các khía cạnh của nó, như vậy hiệu quả sẽ rất lớn. Trong lớp sẽ có em chưa quen với loại hình sinh hoạt này, giáo viên cần giúp đỡ và từ từ đưa các em vào cuộc. Với những sinh viên cảm thấy còn e ngại lúc đầu, nếu giáo viên kiên nhẫn hỗ trợ thì các em sẽ tham gia rất tốt và hoàn thành vai trò của mình. Qua đó, giáo viên có thể giúp các em sự tự tin và tăng động cơ học tập.

Thứ năm, trò chơi khởi động lúc bắt đầu buổi học là rất cần thiết để tạo bầu không khí thân thiện, nhờ đó mà học sinh dễ tham gia hơn ở phần nội dung chính. Nếu trò chơi khởi động được chọn kỹ, phù hợp với nội dung bài học thì càng tuyệt vời để bắt đầu vào tiết học. Đặc biệt chúng ta không nên cầu kỳ, quan trọng hóa hay nghiêm túc hóa vấn đề. Mọi cầu kỳ sẽ làm cho các em mất phương hướng, càng đơn giản càng tốt.

b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

Sau khi nghiên cứu kĩ các phương pháp vận dụng trò chơi học tập của môn Địa lí. Tôi đã thực hiện vận dụng trò chơi học tập theo các bước sau

Bước 1: Xác định mục đích chơi ( Củng cố tri thức, phát triển kĩ năng, tư duy, hình thành óc sáng tạo…rèn tính thật thà, nhanh nhẹn). Mục đích chơi đã được tôi xác định rõ ràng và sau cuộc chơi phải đạt được mục đích chơi.

Bước 2: Giới thiệu tên trò chơi.

Bước 3: Giới thiệu luật chơi.

Bước 4: Qui định thời gian chơi và học sinh tiến hành chơi.

Bước 5: Nhận xét, đánh giá kết quả chơi.

Khi tiến hành tổ chức trò chơi, chúng ta cần chú ý:

- Trò chơi học tập là một phương tiện giáo dục trí tuệ, nó giúp học sinh phát triển những khả năng về thị giác, thính giác, xúc giác,…, chính xác hóa những hiểu biết về các sự vật và hiện tượng xung quanh, phát triển thông minh, sự nhanh trí, ngôn ngữ… dần dần học sinh sẽ hình thành nhu cầu nhận thức của thế giới xung quanh- mở rộng tầm hiểu biết về tự nhiên xã hội. Vì vậy ta có thể tổ chức trò chơi ở thời điểm thích hợp trong một khoảng thời gian nhất định của tiết học.

- Trong trò chơi học tập giáo viên cần chú ý đến sự tự nguyện, bình đẳng giữa các học sinh. Tất cả học sinh đều có vị trí nhiệm vụ như nhau khi tham gia trò chơi.

- Trò chơi học tập bao giờ cũng có kết quả rõ ràng, đoán đúng – sai một câu đố, gọi tên đúng –sai, sắp xếp đúng – sai… Kết quả này có ý nghĩa rất lớn đối với các em, nó mang lại niềm vui cho học sinh, thúc đẩy tính tích cực và mở rộng củng cố vốn hiểu biết cho học sinh.

- Nội dung trò chơi thường gắn với nội dung bài học, nó sẽ minh họa một cách sinh động cho các kiến thức lí thuyết mà các em đã học. Nhờ vậy, kiến thức được vận dụng, củng cố và khắc sâu giúp các em thấy rõ ý nghĩa những điều đã học, đây chính là cơ sở để hình thành hứng thú học tập.

- Để kết quả tổ chức trò chơi học tập được tốt, ta luôn chuẩn bị những phương tiện cần thiết cho hoạt động chơi tùy thuộc vào nội dung của từng trò chơi.

- Khi chia nhóm, đội không nên chia quá nhiều vì như thế lúc tổng kết sẽ khó khăn, trò chơi mất đi sự hào hứng.

- Trò chơi phải đơn giản, ít tốn kém, dễ thực hiện.

- Không nên lúc nào cũng cho nhóm, đội cử đại diện vì như thế các em sẽ có khuynh hướng chọn bạn giỏi đại diện mãi mà các em yếu thì ít được tham gia.

- Giáo viên chuẩn bị một số phần thưởng nhỏ để tạo hứng thú cho các em ( tranh, ảnh, vở, bánh kẹo…)

Nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức trò chơi học tập trong giảng dạy môn Địa lí.

Các trò chơi phải thú vị để học sinh thích được tham gia.

Phải thu hút được đa số ( hay tất cả) mọi học sinh tham gia.

Các trò chơi phải đơn giản, dễ thực hiện, không tốn nhiều thời gian, sức lực để không ảnh hưởng đến các hoạt động tiếp theo của tiết học hoặc ảnh hưởng đến các tiết học khác.

Quan trọng hơn, trò chơi phải có mục đích học tập, không đơn thuần là trò chơi giải trí.

Biện pháp 1: Nguyên tắc vừa sức, dễ thực hiện:

- Mỗi trò chơi phải củng cố được một nội dung của bài học cụ thể trong chương trình (có thể là kiến thức cần kiểm tra bài cũ, kiến thức bài mới, kiến thức thực hành, luyện tập...)

Đặc trưng của phân môn Địa lí đó là tìm hiểu về vị trí, giới hạn, địa hình, khoáng sản, đất, động thực vật, sông hồ, khí hậu, biển các yếu tố này được thể hiện rất rõ trên bản đồ, lược đồ. Bản đồ, lược đồ và bảng số liệu được sử dụng như một nguồn cung cấp kiến thức, giúp học sinh tự tìm tòi, khám phá kiến thức và hình thành, rèn luyện kĩ năng bộ môn. Trong các tiết học không sử dụng bản đồ, lược đồ hoặc có bản đồ, lược đồ nhưng học sinh không biết cách sử dụng thì sẽ không thai thác được nội dụng của bài, học sinh chỉ thụ động tiếp thu kiến thức một cách máy móc, gò bó. Chính vì vậy việc hướng dẫn học sinh sử dụng thành thạo bản đồ, lược đồ, tranh ảnh và trò chơi trong các tiết học địa lí sẽ giúp các em tích cực, chủ động tự tìm tòi, khám phá kiến thức, gây hứng thú trong học tập, tiết học nhẹ nhàng giảm bớt sự nhàm chán tạo cho các em thói quen thích tìm hiểu, khám phá thiên nhiên; từ đó các em sẽ yêu thiên nhiên, con người, quê hương đất nước, các em sẽ tôn trọng và bảo vệ nó.

- Các trò chơi được xây dựng từ các dạng bài tập có chọn lọc của các tiết học trong 3 mạch nội dung kiến thức trên, nhưng có thể mang những cái tên gợi cảm, gây hứng thú, góp phần hình thành, củng cố hoặc hệ thống kiến thức.

- Các trò chơi phải giúp học sinh rèn luyện kỹ năng phán đoán, phát huy trí tuệ, óc phân tích, tư duy sáng tạo.

- Trò chơi phải phù hợp với quỹ thời gian (Sử dụng trong giờ học từ 5 đến 10 phút), thích hợp với môi trường học tập.

- Trò chơi có sức hấp dẫn, thu hút được sự chú ý, tham gia của học sinh, tạo không khí vui vẻ, thoải mái.

- Trò chơi cần phải gần gũi, sát thực, phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 4. Tổ chức trò chơi không quá cầu kỳ, phức tạp.

Biện pháp 2: Nguyên tắc khai thác và thực hành:

- Sử dụng triệt để yêu cầu, nội dung kiến thức cơ bản, cũng như đồ dùng,
phương tiện có sẵn của môn học (ở thư viện, đồ dùng của giáo viên, học sinh...).

- Các đồ dùng tự làm của giáo viên khai thác từ những vật liệu gần gũi xung quanh (Từ các phế liệu như: Vỏ hộp bánh kẹo, đầu gỗ, đầu nứa, nắp chai,
giấy bìa...) sao cho đồ dùng vừa đảm bảo tính khoa học, tính giáo dục, tính
thẩm mỹ nhưng ít tốn kém.

- Từ các nguyên tắc trên, tôi đã căn cứ vào nội dung kiến thức trong sách giáo khoa, căn cứ vào thời gian, mục tiêu đề ra ở mỗi tiết học cũng như đối tượng học sinh.

.........

Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết

SKKN: Vận dụng các phương pháp để dạy và học tốt môn Địa lý lớp 4

Cũng như các môn học khác trong trường tiểu học, môn Lịch Sử và Địa Lí nói chung và Địa Lí lớp 4 nói riêng giúp học sinh hiểu được các sự vật, hiện tượng tự nhiên trong cuộc sống, có liên quan và ảnh hưởng đến con người, học môn Địa Lí không thể chỉ biết mà phải hiểu, giúp học sinh bước đầu giải ... » Xem thêm

Chủ đề:

Download

Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. I/ LÍ DO ĐỀ TÀI: Để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề quan trọng nhằm giúp học sinh có ý thức tự học, tự rèn luyện, chủ động, tìm tòi phát hiện và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức, kĩ năng đã thu nhận được. Như chúng ta đã biết, tiểu học là bậc học nền tảng, là cơ sở ban đầu cho sự hình thành và phát triển toàn diện về nhân cách của các em. Chính vì vậy, Luật giáo dục đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Qua thực tế giảng dạy , nhà trường đã có những thuận lợi về cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học, tài liệu tham khảo...Sách giáo khoa nói chung, sách Lịch sử và Địa lí lớp 4 nói riêng được biên soạn theo tinh thần đổi mới, có tác dụng rất lớn trong việc hình thành khái niệm và rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Sách giáo viên được biên soạn khá kĩ, dẫn dắt tiến trình bài học giúp giáo viên thuận lợi trong việc lập kế hoạch bài học. Bên cạnh đó , vẫn còn tồn tại một số khó khăn: một số phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, một số em còn thụ động trong giờ học ,ít tham gia phát biểu ý kiến, dẫn đến sự lĩnh hội kiến thức của học sinh không đồng đều. Cụ thể trong HKI năm học 2010 – 2011, lớp 4/5 của tôi số lượng học sinh đạt điểm khá, giỏi môn Lịch sử và Địa lí là 62,9%, trung bình là 31,4% , còn lại là yếu chiếm 5,7%.( lớp có sĩ số là 35 học sinh). Chính vì vậy, trong việc đổi mới phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích cực, tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ học có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì, giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động. Giáo viên biết cách tổ chức, biết vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp sẽ có được những giờ học bổ ích, học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tích cực, thoải mái, đặc biệt hình thành ở các em nhiều kĩ năng sống ngay từ ở ghế nhà trường tiểu học. Nhận thức được vấn đề này, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Vận dụng các phương pháp để dạy và học tốt môn Địa lý lớp 4”. II/ TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI : 1/ Cơ sở lí luận: Như chúng ta đã biết, phương pháp dạy học là cách thức, là con đường để thực hiện mục đích nhất định, nghĩa là cách thức làm việc của giáo viên và học sinh do giáo viên tổ chức, chỉ đạo nhằm giúp học sinh đạt được các mục tiêu dạy học đã được xác định. Người giáo viên biết kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lí và khoa học các phương pháp, sẽ làm cho học sinh
  2. thích thú và hào hứng, tham gia học tập một cách tích cực. Như Hêghen đã nói : “Phương pháp là sự vận động bên trong của nội dung”. Vì thế, phương pháp dạy học là hệ thống những cách thức hoạt động bao gồm các hành động và thao tác của giáo viên và học sinh nhằm thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ dạy học. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới cách tiến hành các phương pháp, đổi mới các phương tiện và hình thức triển khai phương pháp …trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm của các phương pháp nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học. Cũng như các môn học khác trong trường tiểu học, môn Lịch Sử và Địa Lí nói chung và Địa Lí lớp 4 nói riêng giúp học sinh hiểu được các sự vật, hiện tượng tự nhiên trong cuộc sống, có liên quan và ảnh hưởng đến con người, học môn Địa Lí không thể chỉ biết mà phải hiểu, giúp học sinh bước đầu giải thích được các hiện tượng địa lí xảy ra xung quanh. Từ đó, hình thành ở các em vốn sống, vốn hiểu biết …để mở rộng tầm nhìn về thế giới xung quanh. 2/ Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài: a. Một số phương pháp thường dùng trong giảng dạy Địa Lí lớp 4. Ở tiểu học, do đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh nên yêu cầu về mặt tri thức của dạy học Địa Lí chủ yếu chỉ dừng lại ở việc cung cấp các biểu tượng Địa Lí, bước đầu hình thành một số khái niệm, xây dựng mối quan hệ Địa Lí đơn giản và hình thành cho học sinh kĩ năng sử dụng bản đồ, kĩ năng phân tích bảng số liệu và biểu đồ…Vì vậy, phương pháp dạy học Địa Lí đặc trưng ở tiểu học thường được sử dụng trong dạy học như sau:  Phương pháp hình thành biểu tượng Địa Lí.  Phương pháp sử dụng bản đồ.  Phương pháp sử dụng bảng số liệu. b. Vận dụng các phương pháp trong dạy và học Địa Lí. b1 . Phương pháp hình thành biểu tượng Địa Lí. Các biểu tượng Địa Lí là những hình ảnh về các sự vật hiện tượng Địa Lí tri giác phản ánh vào trong ý thức của học sinh, được giữ lại trong trí nhớ và có khả năng tái tạo theo ý muốn . Biểu tượng là hình ảnh cụ thể và bao giờ cũng có tính riêng lẻ. Đối với học sinh tiểu học , biểu tượng Địa Lí được phân làm 2 loại:  Biểu tượng kí ức (còn gọi là biểu tượng tái tạo) là sự phản ánh đối tượng đã tri giác trong quá khứ.  Biểu tượng tưởng tượng (còn gọi là biểu tượng sáng tạo) là sự phản ánh những đối tượng tuy không tri giác trực tiếp, nhưng được tư duy tạo ra trên cơ sở những đối tượng có liên quan đã tri giác được. Các biểu tượng Địa Lí được học ở tiểu học là các biểu tượng cụ thể mà các em có thể quan sát được trực tiếp ngoài thực địa hay qua tranh ảnh
  3. như: núi, đồi, rừng rậm nhiệt đới, đồng bằng, ruộng bậc thang, rừng ngập mặn, thành phố, nông thôn, hồ, thác,… Để sử dụng thành công phương pháp này, giáo viên phải tổ chức cho học sinh được quan sát trực tiếp đối tượng tại thực địa hoặc qua tranh ảnh, băng hình. Học sinh được quan sát một cách có mục đích, có kế hoạch để có được biểu tượng đúng về đối tượng Địa Lí thông qua các bước sau đây:  Đối với việc hình thành biểu tượng kí ức:  Bước 1: Lựa chọn đối tượng quan sát.  Bước 2: Xác định mục đích quan sát.  Bước 3: Tổ chức hướng dẫn cho học sinh quan sát đối tượng thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập được sử dụng dựa trên mục đích quan sát và trình độ hiểu biết của học sinh.  Bước 4: Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả quan sát về đối tượng. Sau đó giáo viên cùng học sinh trao đổi, thảo luận, xác nhận và hoàn thiện kết quả, nhằm giúp cho các em có biểu tượng đúng về đối tượng. Ví dụ minh họa: Ví dụ 1: Bài 8. Hoạt động sản xuất của người dân ở Tây Nguyên (tiếp theo). Ở hoạt động 2: Tìm hiểu về đặc điểm của rừng khộp. Bước 1: Lựa chọn đối tượng quan sát. - Hình 6, 7/trang 91: Ảnh rừng khộp và rừng rậm nhiệt đới. Bước 2: Xác định mục đích quan sát. - Học sinh quan sát để tìm ra đặc điểm của rừng khộp. Từ đó học sinh biết so sánh rừng khộp với rừng nhiệt đới. Bước 3: Tổ chức hoạt động cho học sinh quan sát đối tượng qua hệ thống các câu hỏi: giáo viên cho học sinh mở sách giáo khoa ,học sinh thảo luận theo cặp (dự kiến thời gian : 3 phút ) sau đó trả lời các câu hỏi sau đây:  Câu 1: Ảnh chụp cảnh gì ?  Câu 2: Trong rừng khộp em thấy có nhiều loại cây hay một loại cây?  Câu 3: Các cây trong rừng khộp có kích thước gần như nhau hay khác nhau?  Câu 4: Các cây ở rừng khộp trông xanh tốt hay xơ xác?  Câu 5: Cảnh rừng khộp giống hoặc khác với cảnh rừng nhiệt đới ở những điểm nào? Bước 4: Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả quan sát về đối tượng. - Đại diện các nhóm trình bày trước lớp. - Các nhóm khác nhận xét, bổ sung ý kiến, giáo viên nhận xét. Cuối cùng, giáo viên chốt ý: Tây Nguyên có nhiều loại rừng. Nơi có lượng mưa nhiều thì rừng rậm nhiệt đới phát triển. Nơi có mùa khô kéo dài xuất
  4. hiện rừng rụng lá vào mùa khô đó chính là rừng khộp. Rừng khộp là rừng thưa, thường chỉ có một loại cây và rụng lá vào mùa khô. Ví dụ 2: Bài 3. Hoạt động sản xuất của người dân ở Hoàng Liên Sơn. Bước 1: Lựa chọn đối tượng quan sát. - Yêu cầu học sinh quan sát ảnh (hình 1/trang 77/sgk). Bước 2: Xác định mục đích quan sát. - Tìm hiểu đặc điểm của ruộng bậc thang. Bước 3: Tổ chức hoạt động học sinh quan sát đối tượng thông qua hệ thống câu hỏi, giáo viên chia nhóm 4.(Dự kiến thời gian: 3 phút) - Giáo viên nêu: Để biết được đặc điểm của ruộng bậc thang như thế nào, cô mời các em cùng quan sát hình 1/sgk/77 , thảo luận và trả lời các câu hỏi sau:  Câu 1: Xác định tên ảnh hình 1 trang 77 là gì?  Câu 2: Ruộng bậc thang thường làm ở đâu?  Câu 3: Trên ruộng bậc thang người dân ở Hoàng Liên Sơn thường những trồng cây gì?  Câu 4: Tại sao phải làm ruộng bậc thang? Bước 4: Tổ chức cho học sinh trình bày kết quả. - Đại diện các nhóm trình bày ( có thể gọi bất kì mỗi nhóm trả lời 1 câu, các nhóm khác đóng góp ý kiến, bổ sung để hoàn chỉnh câu trả lời. - Học sinh nhận xét, giáo viên nhận xét. Giáo viên chốt ý: để trồng lúa nước trên đất dốc, người dân xẻ sườn núi thành những bậc phẳng gọi là ruộng bậc thang. Trên ruộng người ta thường trồng lúa, ngô, chè, rau,…Trồng trọt là nghề chính của người dân Hoàng Liên Sơn ,vừa phát triển về kinh tế gia đình vừa giúp cho việc giữ nước, chống xói mòn nên độ màu mỡ của đất rừng không bị rửa trôi. Giáo viên có thể mở rộng: ở nước ta ruộng bậc thang xuất hiện hơn 100 năm qua, tập trung ở một số vùng núi cao như Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu đặc biệt có nhiều ở Sa Pa. Ví dụ 3: Bài 20. Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Nam Bộ (tiếp theo) Hoạt động 2: Tìm hiểu về chợ nổi trên sông là một nét độc đáo của miền Tây Nam Bộ. Bước 1: Lựa chọn đối tượng quan sát. - Yêu cầu học sinh quan sát hình 9/126 và vốn hiểu biết của bản thân. Bước 2: Xác định mục đích quan sát. - Học sinh quan sát ảnh Chợ nổi trên sông Cần Thơ (hình 9/126) để mô tả chợ nổi trên sông. Bước 3: Tổ chức hướng dẫn học sinh quan sát: - Giáo viên chia nhóm (nhóm 6).
  5. - Yêu cầu học sinh quan sát ảnh hình 9/126 và ảnh chợ nổi (học sinh sưu tầm) cùng thảo luận và trả lời các câu hỏi sau: (dự kiến thời gian : 4 phút )  Câu 1: Chợ họp ở đâu?  Câu 2: Người dân đến chợ bằng những phương tiện gì?  Câu 3: Hàng hóa bán ở chợ gồm những gì? Loại hàng nào có nhiều hơn?  Câu 4: Kể tên các chợ nổi mà em biết? Bước 4: Học sinh trình bày.( Hoạt động cả lớp) - Đại diện nhóm trình bày từng câu hỏi, các nhóm khác nhận xét, bổ sung, giáo viên nhận xét. Giáo viên chốt ý: Chợ nổi là một loại hình chợ thường xuất hiện ở vùng sông nước đồng bằng Nam Bộ,như chợ nổi Cái Bè nằm ở đoạn sông Tiền giáp ranh giữa ba tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long và Bến Tre, chợ nổi Phụng Hiệp ở Hậu Giang, chợ nổi Châu Đốc ở An Giang …có thể cho học sinh xem ảnh của một số chợ nổi). Chợ thường họp ở những đoạn sông được coi là tuyến giao thông chính. Mọi thứ hàng hóa đều mua bán ngay trên xuồng, ghe từ sáng sớm .Chợ nổi trên sông là nét văn hóa độc đáo của vùng sông nước Nam Bộ.  Đối với việc hình thành biểu tượng tưởng tượng:  Bước 1: Giáo viên tìm hiểu xem học sinh có những biểu tượng nào có liên quan với biểu tượng sắp học.  Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh, phân tích, tổng hợp đối tượng tưởng tượng.  Bước 3: Tổ chức hướng dẫn học sinh làm việc thông qua hệ thống câu hỏi và bài tập được sử dụng theo từng trường hợp cụ thể.  Bước 4: Tổ chức cho học sinh báo cáo, hoàn thiện kết quả làm việc thông qua hệ thống câu hỏi và bài tập. Sau đó, giáo viên cùng học sinh liên hệ so sánh những điểm giống nhau và khác nhau giữa đối tượng tưởng tượng và đối tượng quan sát. Mô tả biểu tượng một cách sinh động nhằm giúp học sinh tưởng tượng ra biểu tượng về một đối tượng toàn vẹn theo bước phân tích và tổng hợp. Ví dụ minh họa: Ví dụ 1: Bài 4. Trung du Bắc Bộ Hoạt động 2: Tìm hiểu về chè và cây ăn quả ở Tây Nguyên. - Học sinh quan sát và nêu Quy trình chế biến chè. Bước 1: Tìm các biểu tượng có liên quan đến các biểu tượng sắp học. - Biểu tượng sắp học là Quy trình chế biến chè - Biểu tượng có liên quan là Đồi chè: cảnh hái chè ở Thái Nguyên. - Giáo viên chuẩn bị vật thật: chè, chè đã được đóng gói.
  6. Bước 2, 3: giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh phân tích tổng hợp đối tượng tưởng tượng bằng hệ thống các câu hỏi. - Giáo viên không cho học sinh mở sgk . - Gv chuyển ý: Chè là một trong những loại cây công nghiệp ở nước ta và được trồng nhiều nhất ở vùng trung du Bắc Bộ. Chè là sản phẩm không thể thiếu trong mỗi gia đình.Vậy, chế biến chè như thế nào để đảm bảo an toàn, chất lượng và tính thẩm mĩ cho người tiêu dùng. Cô mời cả lớp cùng tham gia trả lời những câu hỏi của cô. - Hoạt động cả lớp (phương pháp hỏi đáp , dự kiến thời gian: 5 phút ) (Giáo viên nêu lần lượt từng câu hỏi, cả lớp theo dõi, suy nghĩ và trả lời cá nhân.)  Câu 1: Hãy mô tả động tác của người dân trong hình 1? (học sinh trình bày )  Câu 2: Theo em, khi hái chè xong người ta làm gì? (phân loại chè,…)  Giáo viên minh họa động tác phân loại chè (vật thật).  Câu 3: Phân loại xong người ta làm gì (Giáo viên thao tác vò chè, học sinh quan sát và trả lời : vò chè )  Câu 4: Vò chè xong, chè còn ẩm làm sao để giữ được lâu? (phơi hoặc sấy khô) - Giáo viên nêu: vò chè xong, chè còn ẩm, cô phải đem phơi đó là cách làm thủ công. Còn ở nhà máy, với số lượng chè rất nhiều người ta dùng máy sấy chè để giữ chè không bị ẩm mốc và để bảo quản chè được lâu, người ta đóng gói chè vào bọc, hộp, túi,… và đem ra thị trường để bán. - Giáo viên cho học sinh xem vật thật (các sản phẩm chè). - Như vậy đã hoàn tất quy trình chế biến chè. Bước 4: học sinh b/c hoàn thiện kết quả làm việc. - Giáo viên yêu cầu một, hai học sinh trình bày các bước chế biến chè, học sinh nhận xét, giáo viên tuyên dương học sinh nêu đúng quy trình chế biến chè. Giáo viên kết luận: Tùy theo điều kiện của từng địa phương, ở mỗi gia đình chế biến chè bằng phương pháp thủ công, đối với các vùng trồng nhiều chè ,thì quy trình chế biến chè được máy xử lí ở trong nhà máy dưới sự điều khiển, kiểm tra của người công nhân. Quy trình chế biến chè phải qua các bước: hái chè, phân loại chè, vò, sấy khô và đóng gói thành các sản phẩm chè. Ví dụ 2: Bài 2. Một số dân tộc ở Hoàng Liên Sơn. Hoạt động 2: Tìm hiểu về bản làng với nhà sàn. - Giáo viên không cho học sinh ảnh xem (Hình 1: Bản người Mông, Hình 2: Nhà sàn ở Hoàng Liên Sơn - sgk/73)
  7. - Mà yêu cầu học sinh phải tưởng tượng nhà sàn là nhà như thế nào dựa vào vốn hiểu biết của bản thân và dựa trên biểu tượng địa lí kí ức (nhà em ở). - Giáo viên chuyển ý: dân tộc Dao, Mông, Thái là ba dân tộc sống chủ yếu ở Hoàng Liên Sơn. Vậy thôn bản của họ như thế nào và điều kiện sống ra sao, cô mời các em cùng tìm hiểu một vấn đề sau đây: Giáo viên chia lớp thành nhóm 6, các nhóm cùng thảo luận và trả lời các câu hỏi sau đây ( thời gian :4 phút.) Cụ thể: Bước 1: Tìm những biểu tượng có liên quan đến những biểu tượng sắp học ( nhà em ở). Bước 2,3: Hướng dẫn học sinh so sánh phân tính, tổng hợp đối tượng tưởng tượng. Giáo viên đưa các câu hỏi trên bảng phụ yêu cầu một em đọc nội dung câu hỏi :  Câu 1: Nhà em đang ở được làm bằng gì? Bếp có chung với phòng ngủ hay không?  Câu 2: Sàn nhà và mặt đất có cách nhau không?  Câu 3: Theo em, có loại nhà nào mà giữa sàn nhà và mặt đất có khoảng cách nhau?  Câu 4: Có loại nhà làm bằng gỗ, tre, nứa,… không? Đó gọi là nhà gì?  Câu 5: Tại sao có loại nhà này ở miền núi? Bước 4: Đại diện các nhóm trình bày, học sinh nhận xét, bổ sung. Giáo viên tuyên dương những nhóm có ý kiến đúng, phong phú về nội dung (học sinh nêu được những điểm khác nhau giữa nhà em ở đồng bằng khác với nhà sàn ở miền núi và học sinh xác định nhà sàn là nhà như thế nào ? Tại sao người dân tộc miền núi phải làm nhà sàn để ở?) - Giáo viên kết luận: cho học sinh xem tranh sgk/73 (photos phóng to hoặc hình ảnh trên giáo án điện tử). Giáo viên chốt ý: Dân tộc ở Hoàng Liên Sơn thường sống tập trung thành bản, các bản nằm cách xa nhau. Họ sống ở nhà sàn, họ làm nhà sàn để chống ẩm thấp và thú dữ. Nhà sàn được làm bằng các vật liệu tự nhiên như gỗ,tre, nứa…Bếp được đặt ở giữa nhà không chỉ là nơi đun nấu mà còn để sưởi ấm khi mùa đông giá rét và hiện nay , một số nhà sàn đã được lợp bằng ngói trên mái nhà. b2. Phương pháp sử dụng bản đồ: Bản đồ địa lí là hình vẽ thu nhỏ bề mặt Trái Đất hoặc một bộ phận của bề mặt Trái Đất trên mặt phẳng dựa vào các phương pháp toán học, phương pháp biểu hiện bằng kí hiệu để thể hiện các thông tin địa lí. Đối với lớp 4, các em đã được làm quen với bản đồ và biết một số yếu tố trên bản đồ ( tên bản đồ, phương hướng, tỷ lệ bản đồ, ký hiệu bản đồ,…).
  8. Để sử dụng phương pháp này, giáo viên hướng dẫn học sinh theo các bước sau:  Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với bản đồ.  Bước 2: Xem bảng chú giải để có biểu tượng địa lí cần tìm trên bản đồ.  Bước 3: Tìm vị trí địa lí của đối tượng trên bản đồ dựa vào kí hiệu.  Bước 4: Quan sát đối tượng trên bản đồ, nhận xét và nêu đặc điểm đơn giản của đối tượng.  Bước 5: Xác lập mối liên hệ địa lí đơn giản giữa các yếu tố và các thành phần như địa hình và khí hậu ; địa hình, khí hậu, sông ngòi ; thiên nhiên và hoạt động sản xuất của con người … trên cơ sở học sinh biết kết hợp những kiến thức bản đồ và kiến thức địa lí để so sánh và phân tích.… Ví dụ minh họa: Ví dụ 1: Bài 8. Hoạt động sản xuất của người dân ở Tây Nguyên Hoạt động 1: Tìm hiểu về việc khai thác sức nước. Bước 1: Xác định mục đích làm việc với lược đồ. - Học sinh biết được một số con sông lớn ở Tây Nguyên và đặc điểm của chúng đồng thời biết một số nhà máy thủy điện trên các con sông đó cũng như tác dụng của một số hồ thủy điện. Bước 2: Xem bảng chú giải để có biểu tượng địa lí cần tìm trên lược đồ. - Giáo viên treo lược đồ, yêu cầu một học sinh đọc bảng chú giải (sgk/90) - Giáo viên mô tả lại bảng chú giải (kí hiệu về sông, hồ, nhà máy thủy điện, biên giới quốc gia, phân tầng địa hình). Bước 3, 4 : Tìm vị trí địa lí của đối tượng trên lược đồ dựa vào kí hiệu. - Giáo viên chia nhóm: ( nhóm 4 )thảo luận và trả lời các câu hỏi sau : (dự kiến thời gian :4 phút.)  Câu 1: Quan sát lược đồ hình 4 hãy kể tên một số con sông ở Tây Nguyên?  Câu 2: Dựa vào phân tầng địa hình hãy cho biết những con sông này bắt nguồn từ đâu và chảy ra đâu?  Câu 3: Tại sao con sông ở đây lắm thác ghềnh?  Câu 4: Người dân Tây Nguyên khai thác sức nước để làm gì?  Câu 5: Hãy chỉ vị trí nhà máy thủy điện trên lược đồ và cho biết nhà máy thủy điện đó nằm trên con sông nào? Bước 4: Quan sát trên lược đồ, nêu đặc điểm, so sánh phân tích đối tượng địa lý đơn giản đã tìm hiểu trên lược đồ. - Đại diện các nhóm trình bày ( giáo viên có thể gọi bất kỳ các nhóm trả lời từng câu. Các nhóm khác nhận xét ,bổ sung).
  9. Giáo viên chốt ý: Tây nguyên là nơi bắt nguồn của nhiều con sông, các sông chảy qua nhiều vùng có độ cao khác nhau nên lắm thác ghềnh. Có 3 con sông chính là sông Xê Xan, sông Ba và sông Đồng Nai. Người ta đã đắp đập, ngăn sông tạo thành hồ lớn và dùng sức nước chảy từ trên cao xuống để chạy tua bin nước sản xuất ra điện, các nhà máy thủy điện ở Tây Nguyên là Y-a-li và Đrây –Hlinh. Các hồ này do nhà nước xây dựng có tác dụng giữ nước và hạn chế những cơn lũ bất thường. Ví dụ 2: Bài 9 . Thành phố Đà Lạt Hoạt động 1: Tìm hiểu về thành phố nổi tiếng về rừng thông và thác nước. Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với bản đồ. - Học sinh xác định vị trí ,độ cao và khí hậu của Đà lạt Bước 2: Xem bảng chú giải để có biểu tượng địa lí cần tìm trên lược đồ. - Học sinh quan sát lược đồ hình 1 ,bài 5/ sgk ,trang 82 và xem bảng chú giải . - Giáo viên yêu cầu 1,2 học sinh đọc bảng chú giải. Bước 3: Tìm vị trí địa lí của đối tượng trên lược đồ dựa vào kí hiệu - Giáo viên chia nhóm (nhóm 5). - Yêu cầu học sinh quan sát trên lược đồ cùng với vốn hiểu biết của bản thân, em hãy trả lời các câu hỏi sau:  Câu 1: Xác định vị trí của Đà Lạt trên lược đồ?  Câu 2 : Đà Lạt nằm trên cao nguyên nào?  Câu 3: Đà Lạt ở độ cao khoảng bao nhiêu mét?  Câu 4 : Với độ cao đó , Đà Lạt có khí hậu như thế nào?  Câu 5: Tại sao Đà Lạt được chọn làm nơi du lịch nghỉ mát? - Các nhóm thảo luận, dự kiến thời gian 4 phút. - Giáo viên theo dõi giúp đỡ nhóm có học sinh yếu. Bước 5: Đại diện các nhóm trình bày. - Nhìn vào lược đồ trên bảng ,các nhóm lần lượt trình bày (có thể yêu cầu 2 nhóm bất kì trình bày ,các nhóm khác nhận xét bổ sung, giáo viên nhận xét). Giáo viên chốt ý: Đà Lạt nằm trên cao nguyên Lâm Viên, có độ cao 1475m so với mặt nước biển nên dù là một xứ nhiệt đới, Đà Lạt vẫn có khí hậu mát mẻ , dễ chịu với nhiệt độ trung bình từ 15→24 ◦C. Nhờ khí hậu đó, cả thành phố Đà Lạt như một vườn hoa trăm hương ngàn sắc, đặc biệt Đà Lạt có nhiều thác nước đẹp nổi tiếng và rừng thông phủ kín sườn đồi nên Đà Lạt được mệnh danh là “Thành phố ngàn hoa” và là địa danh du lịch hấp dẫn của nước ta. b3. Phương pháp sử dụng bảng số liệu: Bảng số liệu là các số liệu được tập hợp thành bảng gọi là bảng số liệu.
  10. Ở lớp 4 các em bước đầu làm quen với bảng số liệu đơn giản. Để giúp học sinh khai thác kiến thức từ bảng số liệu, người giáo viên cần xác định kiến thức trong bài cần nắm qua bảng số liệu và đưa ra một số câu hỏi dựa vào bảng số liệu và trình độ của học sinh để các em tìm ra kiến thức. Qua đó, giúp học sinh phát triển kĩ năng so sánh, đối chiếu, phân tích… các số liệu. Để thực hiện phương pháp này, giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc qua các bước sau:  Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với bảng số liệu.  Bước 2: Đọc nhan đề của bảng số liệu.  Bước 3: Xem tên các cột, nắm được ý nghĩa đơn vị và thời điểm đi kèm với các số liệu ở từng cột.  Bước 4: Đối chiếu các số liệu theo hàng dọc, hàng ngang của bảng số liệu để rút ra nhận xét. Ví dụ minh họa: Ví dụ 1: Bài 21. Thành phố Hồ Chí Minh Hoạt động 1: Tìm hiểu về Thành phố Hồ Chí Minh_thành phố lớn nhất cả nước . Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với bảng số liệu. - Học sinh quan sát bảng số liệu trong sách giáo khoa nhận xét về diện tích và dân số của thành phố Hồ Chí Minh . Bước 2: Đọc nhan đề của bảng số liệu . - Giáo viên yêu cầu 2 học sinh đọc tên bảng số liệu (đọc hàng ngang, đọc hàng dọc của bảng số liệu) . Bước 3: Xem tên các cột, nắm được ý nghĩa đơn vị và thời điểm đi kèm với các số liệu ở từng cột. - Học sinh làm việc theo nhóm đôi, trả lời câu hỏi (dự kiến thời gian : 3 phút). Yêu cầu học sinh : Quan sát bảng số liệu về diện tích và số dân của một số thành phố, em hãy trả lời các câu hỏi sau:  Câu 1: Nêu diện tích và dân số của thành phố Hồ Chí Minh?  Câu 2: Hãy so sánh diện tích và dân số của thành phố Hồ Chí Minh với các thành phố khác?  Câu 3: Diện tích và dân số ở thành phố Hồ Chí Minh gấp khoảng mấy lần thành phố Hà Nội? Bước 3: Đối chiếu các số liệu theo hàng dọc, hàng ngang của bảng số liệu để rút ra nhận xét. - Hoạt động cả lớp, học sinh trả lời từng câu hỏi, cả lớp theo dõi nhận xét, bổ sung. Bước 4: Giáo viên chốt ý, Giáo viên có thể hỏi học sinh: - Qua bảng số liệu trên em có nhận xét gì về thành phố Hồ Chí Minh?
  11. - Học sinh nêu ý kiến, giáo viên kết luận: thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất cả nước và lớn hơn thủ đô Hà Nội. Ví dụ 2: Bài 13: Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ. Hoạt động 2: Tìm hiểu về vùng trồng nhiều rau xứ lạnh. Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với bảng số liệu. - Xác định đồng bằng Bắc Bộ có mùa đông lạnh kéo dài từ 3→4 tháng. Trong thời gian này, nhiệt độ thường giảm nhanh mỗi khi có các đợt gió mùa Đông Bắc thổi về. Bước 2: Đọc nhan đề của bảng số liệu. - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc tên của bảng số liệu: “Bảng số liệu về nhiệt độ trung bình tháng ở Hà Nội”. - Yêu cầu học sinh đọc theo cột dọc và theo hàng ngang. - Giáo viên chia nhóm (nhóm 4, dự kiến thời gian : 3 phút ). - Yêu cầu học sinh quan sát bảng số liệu ở sgk/105, thảo luận và trả lời các câu hỏi sau đây:  Câu 1: Hà Nội có tháng nào nhiệt độ dưới 200c?  Câu 2: Với nhiệt độ như vậy con người cảm thấy lạnh hay nóng?  Câu 3: Các tháng này thuộc vào mùa nào?  Câu 4: Vào mùa đông khí hậu Hà Nội như thế nào? Thích hợp cho việc trồng những loại cây rau nào? Bước 3: Giáo viên cho học sinh trình bày kết quả thảo luận. - Đối chiếu các số liệu theo hàng dọc, hàng ngang của bảng số liệu để rút ra nhận xét. - Đại diện các nhóm trình bày trước lớp, các nhóm khác nhận xét bổ sung . Giáo viên chốt ý: Đồng bằng Bắc Bộ có mùa đông lạnh kéo dài từ 3 →4 tháng, đó là tháng 1,2,3 và tháng 12. Vào các tháng mùa đông, nhiệt độ hạ thấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng các cây: ngô, khoai tây, su hào , bắp cải, cà rốt , cà chua…..như ở Đà Lạt . Nhờ đó nguồn thực phẩm của người dân thêm phong phú và mang lại giá trị kinh tế cao. III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI : - Với việc vận dụng và kết hợp các phương pháp đã giúp học sinh:  Bước đầu nắm được biểu tượng địa lí, kỹ năng sử dụng bản đồ, lược đồ.  Biết nhận thức, phân tích các kiến thức địa lí đã học.  Lớp học sôi nổi, đa số học sinh thích thú bộ môn, học sinh đã mạnh dạn tham gia hoạt động học tập, kết quả học tập của học sinh có tiến bộ.  Tổ chức tốt các hoạt động học tập, sửa chữa uốn nắn học sinh kịp thời .
  12. - Số liệu thống kê kết quả đạt được ở cuối năm so với đầu năm học: Thời điểm: Cuối học kỳ II - Năm học: 2010 - 2011 ĐIỂM LỚP TSHS 5-6 7-8 9 - 10 4/5 35 13 12 10 TỶ LỆ 100% 37,1% 34,3% 28,6% * Nhận xét: Sau mỗi bài học này, tỉ lệ học sinh hiểu bài được tăng lên, học sinh nắm vững kiến thức, hứng thú tham gia vào hoạt động học tập. Đây là thành công nho nhỏ của bản thân tôi khi vận dụng các phương pháp dạy học môn Địa Lí. Cuối năm học, học sinh đạt điểm trên trung bình về môn học là 100%. Với ý tuởng và sự cố gắng của bản thân, rất mong được quý đồng nghiệp và bộ phận chuyên môn đóng góp ý kiến. IV/ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG: Đối với môn Địa Lí, giáo viên phải nắm vững nội dung, kiến thức của chương trình, tìm hiểu về đặc trưng của môn học, áp dụng những phương pháp dạy phù hợp với từng bài học. Không có phương pháp nào là tối ưu. Muốn đạt hiệu quả tốt cần có sự kết hợp sáng tạo các phương pháp, tăng cường các hoạt động thực hành dưới sự chỉ đạo của giáo viên và sự chủ động học tập của học sinh. Đồng thời qua những bài học, giáo viên cần chú ý việc lồng ghép giáo dục môi trường, giáo dục kĩ năng sống , liên hệ thực tế sau mỗi bài học để kịp thời giáo dục các em ý thức bảo vệ môi trường sống…..đồng thời rèn luyện các em tính tự học, tự giác, tự rèn luyện , biết vận động mọi người phải yêu thiên nhiên và tích cực bảo vệ môi trường. Đối với nhà trường: BGH nhà trường hỗ trợ thêm về phương tiện, đồ dùng, tranh ảnh, máy chiếu…để phục vụ cho việc giảng dạy. Kết hợp cùng Ban đại diện cha mẹ học sinh, các đoàn thể, hỗ trợ giáo viên trong công tác chủ nhiệm, giáo dục đạo đức học sinh….. góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Đối với giáo viên: Qua việc thực hiện đề tài vào giảng dạy trên lớp, đã được tổ chuyên môn đánh giá đạt hiệu quả tốt, Ban giám hiệu khuyến khích giáo viên trong nhà trường cần học tập , vận dụng vào thực tế giảng dạy của lớp mình để mang lại những bài học sinh động và bổ ích . Giáo viên tiếp tục rèn luyện nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, nghiên cứu bài dạy, áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để mang lại hiệu quả trong giảng dạy. Tích cực tham gia làm đồ dụng dạy học phục vụ cho môn học, sưu tầm tranh ảnh, bản đồ, hình vẽ và vật liệu để làm giàu “kho phương tiện
  13. trực qua n” của mình và của nhà trường, làm quen với cách dạy học bằng công nghệ thông tin, đáp ứng được yêu cầu của giáo dục trong thời đại mới. V/ TÀI LIỆU THAM KHẢO: NĂM NHÀ XUẤT STT TÊN SÁCH TÊN TÁC GIẢ XUẤT BẢN BẢN Đổi mới nội dung và phương pháp - Nguyễn Hữu Dũng. - Nhà xuất bản 1 - 1998 giảng dạy ở tiểu - Nguyễn Kế Hào giáo dục học - Georgercharpak Bàn tạy nặn bột ( Chủ biên ) - Nhà xuất bản 2 khoa học ở trường - 1999 Đinh Ngọc Lâm giáo dục tiểu học ( dịch ) - Nguyễn Anh Dũng Lịch Sử và Địa Lí - Nhà xuất bản 3 ( Chủ biên ) - 2005 lớp 4 giáo dục - Nguyễn Tuyết Nga Phát triển tích cực, tính tự lực của học 4 sinh trong quá trình Nguyễn Ngọc Bảo - Bộ GD - ĐT 1995 dạy học. Tập san : 5 “ Giáo dục tiểu - 2002 - Nhiều tác giả - Bộ GD - ĐT học” 2003 Đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu 2006 6 học (tài liệu bồi Nhiều tác giả - Bộ GD - ĐT dưỡng giáo viên)