Quân đội nhân dân Việt Nam đang hành quân trên đường Trường Sơn qua Lào.
Ngày 19 tháng 5 năm 1959, thành lập Đoàn 559, sau là Bộ Tư lệnh Đoàn 559 (1965), Bộ Tư lệnh Trường Sơn (1970), Binh đoàn 12 (1977)[43] Ngày 12 tháng 10 năm 1960, thành lập Cục Nghiên cứu Kỹ thuật (Viện Kỹ thuật Quân sự), nay là Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự.
Ngày 27 tháng 8 năm 1961, thành lập Trường Quân chính sơ cấp Quân Giải phóng miền Nam.[44] Ngày 10 tháng 10 năm 1975, Bộ Quốc phòng ký quyết định thành lập Trường Sĩ quan Lục quân 2 trên cơ sở Trường Lục quân tổng hợp H28, trực thuộc Bộ Quốc phòng, sau là Trường Đại học Nguyễn Huệ (2010).[44] Trong bối cảnh Hoa Kỳ ra sức phá hoại Hiệp định Genève, trực tiếp nhảy vào miền Nam Việt Nam, thiết lập thể chế chính trị thân Mỹ, áp đặt chính sách thực dân kiểu mới, xây dựng bộ máy bạo lực phản cách mạng và sử dụng bộ máy ấy để đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng miền Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam không còn con đường nào khác phải sử dụng bạo lực cách mạng để trấn áp kẻ thù, thực hiện hoài bão lớn nhất của toàn dân tộc là hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ phong trào cách mạng của quần chúng, hình thức đấu tranh vũ trang tái xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời của các lực lượng vũ trang nhân dân ở miền Nam. Nhu cầu cần có một bộ chỉ huy quân sự thống nhất và tại chỗ để kịp thời chỉ đạo chỉ huy toàn thể các lực lượng vũ trang cách mạng tại chiến trường miền Nam đặt ra một cách khẩn bách. Năm 1961, để chỉ huy trực tiếp các lực lượng vũ trang cách mạng tại chiến trường Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên; Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam (gọi là Bộ Chỉ huy Miền). Sự ra đời của Bộ Chỉ huy Miền là một tất yếu khách quan, đáp ứng kịp thời yêu cầu của cách mạng miền Nam trong thời điểm chuyển sang chiến tranh cách mạng lúc bấy giờ. Đó là vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang chống xâm lược.[45] Bộ Chỉ huy Miền là một cấp chỉ huy lớn của quân đội, cơ quan chỉ huy cao nhất các lực lượng vũ trang nhân dân ở B2. Bộ Chỉ huy Miền đặt dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, trực tiếp là Trung ương Cục và sự chỉ đạo chỉ huy của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh". Kể từ khi thành lập cho đến lúc kết thúc nhiệm vụ, Bộ Chỉ huy Miền do các đồng chí sau đây làm Tư lệnh: Phạm Thái Bường (1961), Trần Nam Trung (1961 - 1962), Trần Văn Quang (1962 - 1964), Trần Văn Trà (1964 - 1967, 1973 - 1976), Hoàng Văn Thái (1967 - 1973); và Chính ủy là các đồng chí: Nguyễn Văn Linh (1961 - 1964), Nguyễn Chí Thanh (1964 - 1967), Phạm Hùng (1967 - 1976).[45] Ngày 28 tháng 5 năm 1964, Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định số 62/QĐ-QP thành lập Cục Liên lạc Đối ngoại (Bộ Quốc phòng) để giúp Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quản lý, chỉ đạo các hoạt động đối ngoại,[46] sau đến ngày 4 tháng 9 năm 1989, đổi tên thành Cục Đối ngoại[46] Ngày 22 tháng 6 năm 1965, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 100/QĐ-QP thành lập Trung đoàn Xe tăng 203 và ra Quyết định số 101/QĐ-QP thành lập Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp.[47] Nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp là lãnh đạo, chỉ huy, xây dựng và quản lý các đơn vị xe tăng, thiết giáp dự bị của Bộ và làm tham mưu cho Bộ về Binh chủng TTG.[47] Sự ra đời của Binh chủng TTG đã đánh dấu bước phát triển mới của Bộ đội TTG và sự lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chủ trương đúng đắn của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh nhằm tăng cường sức mạnh của quân đội để có đủ khả năng làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. Ngày 5 tháng 10 năm 1965 thành lập Binh chủng Tăng-Thiết giáp.[47] Ngày 8 tháng 8 năm 1966, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 146/CP [48] thành lập Phân hiệu II Đại học Bách Khoa.[49] Ngày 28 tháng 10 năm 1966, công bố quyết định thành lập Phân Hiệu II Đại học Bách Khoa đồng thời khai giảng khóa đào tạo 1.[49] Ngày 18 tháng 6 năm 1968, Thủ tướng Chính phủ quyết định đổi tên "Phân hiệu II Đại học Bách khoa" thành trường Đại học Kỹ thuật Quân sự.[49] Ngày 15 tháng 12 năm 1981, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Học viện Kỹ thuật Quân sự trên cơ sở trường Đại học Kỹ thuật Quân sự.[49] Ngày 6 tháng 5 năm 1991, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn trên cơ sở Học viện Kỹ thuật Quân sự với 2 nhiệm vụ đào tạo quân sự và dân sự[49] Ngày 17 tháng 3 năm 1967, thành lập Binh chủng Đặc công.[50] Ngày 3 tháng 7 năm 1971, thành lập Cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng[51] Sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết, tình thế mới đặt ra vấn đề xây dựng các quân đoàn binh chủng hợp thành có sức cơ động cao, sức đột kích lớn, làm lực lượng quyết định trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược. Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ngày 24 tháng 10 năm 1973, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ký quyết định số 142/QĐ-QP về việc thành lập Quân đoàn 1. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng được cử kiêm Tư lệnh Quân đoàn; Thiếu tướng Lê Quang Hòa, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị được cử kiêm Chính ủy Quân đoàn.[52] Ngày 17 tháng 5 năm 1974, Quân đoàn 2 được thành lập tại Ba Nang, Ba Lòng, Quảng Trị.[53] Sự ra đời của Quân đoàn 2 thể hiện sinh động quy luật về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của Quân đoàn là tham gia tổ chức các chiến dịch quy mô bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng, thực hiện những đòn tiêu diệt lớn lực lượng địch, phối hợp với các lực lượng tại chỗ và phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân giải phóng hoàn toàn miền Nam.[53] Để thực hiện nhiệm vụ này, yêu cầu đặt ra đối với Quân đoàn là phải xây dựng sức mạnh chiến đấu tổng hợp, sức đột kích mạnh, tính cơ động cao, thành thạo tác chiến tập trung hiệp đồng quân, binh chủng.[53] Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về tổ chức lực lượng, Quân đội nhân dân Việt Nam còn được trang bị một khối lượng lớn vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại. Các quân đoàn chủ lực cũng được thành lập. Công tác bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật, quản lý kỹ thuật và huấn luyện kỹ thuật để cán bộ, chiến sĩ làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật trong khai thác sử dụng đặt ra cho các cấp phải khẩn trương thực hiện. Lượng vũ khí trang bị kỹ thuật rất lớn được trang bị cho các đơn vị đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo tiến hành bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa, cất giữ an toàn phục vụ cho chiến đấu. Trên tình hình thực tế đó cần phải có cơ quan quản lý, chỉ huy, chỉ đạo cấp chiến lược trực thuộc Bộ đảm trách công tác kỹ thuật quân sự để tham mưu đề xuất với Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về công tác kỹ thuật. Vì vậy, Ngày 10 tháng 9 năm 1974, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 211/CP về việc thành lập Tổng cục Kỹ thuật trực thuộc Bộ Quốc phòng.[54] Ngày 20 tháng 3 năm 1975, thành lập Cục Vật tư trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu, sau là Cục Kế hoạch và Đầu tư (1998)[55] Ngay sau khi chiếm được Tây Nguyên, ngày 26 tháng 3 năm 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký quyết định số 54/QĐ-QĐ thành lập Quân đoàn 3 trực thuộc Bộ Quốc phòng.[56] Quân đoàn 3 được thành lập có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu sự ra đời của quân đoàn chủ lực cơ động thứ tư của Quân đội nhân dân Việt Nam.[56] Theo quyết định của Bộ Quốc phòng, cơ cấu tổ chức của Quân đoàn 3 bao gồm: Bộ Tư lệnh, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần và các đơn vị trực thuộc. Với thành phần là các đơn vị thuộc khối chủ lực B3 đang trong quá trình phát triển Chiến dịch Tây Nguyên, Quân đoàn 3 là một binh đoàn chủ lực binh chủng hợp thành hoàn chỉnh, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, ổn định, sức cơ động cao, hoả lực mạnh, có trình độ và kinh nghiệm tác chiến hiệp đồng binh chủng; có thể độc lập tiến hành một chiến dịch hoặc đảm nhiệm hướng chủ yếu trong đội hình chiến dịch lớn của cấp trên, làm lực lượng quyết định trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược[56] Chấp hành nghị quyết của Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường quân sự tiến tới thống nhất đất nước, tháng 10 năm 1973, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng đề nghị Bộ Chính trị thành lập các quân đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam, ở Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ, từ đầu năm 1974, Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền đã chỉ đạo lập phương án tổ chức biên chế, dự thảo chức năng nhiệm vụ của một quân đoàn chủ lực trên chiến trường. Sau khi thông qua kế hoạch tổ chức biên chế, ngày 20 tháng 7 năm 1974[57], Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục chính thức công bố quyết định thành lập Quân đoàn 4 tại chiến khu Dương Minh Châu, miền Đông Nam Bộ. Với chức năng là quả đấm chủ lực mạnh, lực lượng cơ động của Bộ ở chiến trường B2, nhiệm vụ của Quân đoàn 4 là tiêu diệt quân địch, giải phóng nhân dân, làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang 3 thứ quân, làm chỗ dựa vững chắc cho lực lượng đấu tranh chính trị của quần chúng, đảm nhận một hướng chiến lược, một khu vực chiến trường, mục tiêu cuối cùng là đánh chiếm Sài Gòn.[57] Ngày 26 tháng 5 năm 1975, thành lập Bệnh viện Trung ương Quân đội 175[58], trên cơ sở tiếp quản cơ sở vật chất, hạ tầng của Tổng y viện của chế độ Việt Nam Cộng hòa cũ và sáp nhập 3 bệnh viện: K116, K72, K59 và một số đội điều trị.[59] Ngày 29 tháng 8 năm 1975, Lễ khánh thành Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được tổ chức trọng thể tại Hội trường Ba Đình, các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã vào Lăng viếng Bác. Hai chiến sĩ tiêu binh Nông Văn Thành người Tày và Nguyễn Văn Ri người Kinh được vinh dự làm nhiệm vụ trong phiên gác đầu tiên. Trước đây, thi hài Hồ Chí Minh được giữ gìn và bảo vệ trong một không gian hẹp, có điều kiện bảo đảm môi trường trong sạch, tinh khiết. Nay thi hài được giữ gìn trong một không gian rộng, hàng ngày có hàng nghìn lượt người đến viếng, rất khó khăn trong việc bảo đảm các thông số kỹ thuật, an ninh và công tác đón tiếp, tuyên truyền. Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, ngày 28 tháng 12 năm 1975, Thường vụ Quân uỷ Trung ương ra Quyết định số 279/VP-QU thông qua việc thành lập Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy phiên hiệu là Bộ Tư lệnh 969. Ngày 14 tháng 5 năm 1976, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 109/QĐ-QP thành lập Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực thuộc Bộ Quốc phòng.[60]
Thời kì thống nhấtSửa đổi
Ngày 14 tháng 1 năm 1976, thành lập Trường Sĩ quan Chính trị, sau là Trường Sĩ quan Chính trị Quân sự (1981), Trường Đại học Chính trị (2010).
Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976 Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam chấm dứt hoạt động. Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh đổi tên thành Bộ Quốc phòng và giữ tên đó cho đến ngày nay.
Ngày 21 tháng 2 năm 1976, thành lập Học viện Quân sự cao cấp, sau đổi thành Học viện Quân sự cấp cao (năm 1981), sau là Học viện Quốc phòng (năm 1994)
Ngày 5 tháng 4 năm 1976, thành lập Tổng cục Xây dựng Kinh tế. Đến ngày 7 tháng 11 năm 1985 chuyển thành Tổng cục Kinh tế (nay là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng).
Ngày 4 tháng 7 năm 1978, thành lập Bệnh viện Đông y Quân đội, sau là Viện Y học cổ truyền Quân đội[61] Ngày 7 tháng 3 năm 1979, thành lập Sư đoàn 319 trực thuộc Quân khu 3, sau là Tổng Công ty 319 trực thuộc Bộ Quốc phòng (2011)[62] Ngày 28 tháng 5 năm 1981, thành lập Viện Lịch sử Quân sự[63] Ngày 11 tháng 6 năm 1982, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 903/QP thành lập Binh đoàn 11 trực thuộc Bộ Quốc phòng.[64] Sau là Đoàn 11 (5/1988),[64] Công ty Xây dựng 11 (10/1989),[64] Tổng công ty Xây dựng 11 (4/1991),[64] và hiện nay là Tổng Công ty Thành An (năm 1996).[64] Ngày 20 tháng 2 năm 1985, thành lập Tổng Công ty 15 (hay là Binh đoàn 15)
Thời kì đổi mớiSửa đổi
Ngày 17 tháng 9 năm 1987, thành lập Tổng Công ty Đầu tư Phát triển nhà và Đô thị.
Ngày 7 tháng 3 năm 1988, thành lập Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga.
Ngày 1 tháng 6 năm 1989, thành lập Tổng Công ty Điện tử Thiết bị thông tin, sau là Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội.
Trụ sở Bộ Quốc phòng ngày nay tại số 7 Nguyễn Tri Phương, Hà Nội
Ngày 1 tháng 9 năm 1989, thành lập Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam (hay là Binh đoàn 18).
Ngày 16 tháng 11 năm 1989, thành lập Tổng Công ty Xây dựng Lũng Lô.
Ngày 11 tháng 1 năm 1990, thành lập Viện Chiến lược Quốc phòng.
Ngày 22 tháng 4 năm 1991, thành lập Tổng Công ty Thái Sơn
Ngày 10 tháng 8 năm 1991, thành lập Tổng Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp Vạn Xuân (hay là VAXUCO)
Ngày 15 tháng 6 năm 1993, thành lập Phòng Quản lý Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng, nay là Cục Thi hành án (2005).
Ngày 4 tháng 11 năm 1994, thành lập Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội.
Ngày 24 tháng 12 năm 1994, thành lập Tổng Công ty Đông Bắc
Ngày 28 tháng 8 năm 1998, thành lập Cục Cảnh sát biển. Sau là Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển (2013).
Ngày 8 tháng 12 năm 1998, thành lập Tổng Công ty 16 (nay là Binh đoàn 16).
Ngày 24 tháng 12 năm 1998, thành lập Cục Kinh tế.
Ngày 29 tháng 4 năm 1999, thành lập Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự.
Hiện nay (2000 - nay)Sửa đổi
Đội danh dự tiêu binh Việt Nam năm 2012
Từ Thế kỷ 21 trở đi sự hợp tác hòa bình và phát triển vẫn là xu hướng chủ đạo của các quốc gia. Các nước sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực quốc phòng và an ninh. Các cấu trúc an ninh mới được dựa trên cơ chế hợp tác đa phương sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, tình hình thế giới, khu vực còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, nhất là, tranh chấp chủ quyền trên các vùng biển, đảo; sự cạnh tranh ảnh hưởng địa chiến lược, địa chính trị giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt; các diễn đàn quốc phòng-an ninh khu vực sẽ đan xen giữa hợp tác và đấu tranh của các bên. Ngoài Cục Đối ngoại của Bộ Quốc phòng ra, lĩnh vực quốc phòng trong nước và quốc tế trước yêu cầu trong thời đại mới cần phải có một cơ quan nghiên cứu chuyên sâu. Vì vậy, ngày 21 tháng 12 năm 2002, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định 189/2002/QĐ-BQP thành lập Viện Quan hệ Quốc tế về Quốc phòng nhằm nghiên cứu tình hình quốc phòng - an ninh của khu vực và quốc tế; tham mưu cho Bộ Quốc phòng về công tác đối ngoại quốc phòng, đồng thời trực tiếp tổ chức và tham gia các hội nghị, hội thảo, diễn đàn an ninh đa phương và đối thoại an ninh song phương trong khu vực và quốc tế.[65] Ngày 20 tháng 7 năm 2005, Bộ Chính trị thông qua Nghị quyết số 51-NQ/TW về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Theo đó, ngoài cấp trưởng đứng đầu một đơn vị thì còn có Chính ủy, Chính trị viên (trước là cấp phó về chính trị). Theo đó ngày 21 tháng 11 năm 2011, Ban Bí thư ra Quy định số 50-QĐ/TW về Tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm xác định đúng vai trò, chức năng và hoàn thiện cơ chế thực hiện theo Nghị quyết 51/2005/Bộ Chính trị.[66] Trong hòa bình, yếu tố chính sách càng trở nên quan trọng. Chính sách phải được hiểu một cách đầy đủ là chế độ chính sách và cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện các chính sách đó, bao gồm cả nguồn kinh phí bảo đảm thực hiện chính sách. Chính sách đúng cùng với giáo dục chính trị, tư tưởng tốt mới tạo thành động lực đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Vì vây, ngày 29 tháng 5 năm 2008 Bộ Quốc phòng đã thành lập cơ quan Bảo hiểm Xã hội Bộ Quốc phòng nhằm giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quản lý toàn bộ việc tổ chức bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong quân đội; đảm bảo các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đang công tác trong quân đội và trước khi chuyển ra. Đây là việc làm theo đúng quan điểm của Đảng: coi mọi chính sách chính trị, kinh tế, xã hội đều lấy trung tâm là con người, vì con người và do con người phù hợp với sự phát triển mọi mặt của quân đội và đất nước trong giai đoạn mới.[67] Ngày 12 tháng 10 năm 2010, Bộ Quốc phòng tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng các nước ASEAN Mở rộng (ADMM+) lần thứ nhất tại Hà Nội. Tham dự Hội nghị có Bộ trưởng Quốc phòng và Đại diện Bộ trưởng Quốc phòng 10 quốc gia thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và 7 nước đối tác đối thoại của ASEAN (dưới đây gọi tắt là các nước "Cộng"), bao gồm Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, Nga, Hoa Kỳ và Tổng thư ký ASEAN.
“
|
Lịch sử thế giới hiện đại ít khi chứng kiến việc các Bộ trưởng, đại diện Bộ trưởng Quốc phòng của 18 quốc gia trên thế giới cùng ngồi lại với nhau không phải bàn về chiến tranh, mà để cùng nhau chia sẻ và bàn thảo về hợp tác Quốc phòng-an ninh thiết thực, vì hoà bình, ổn định và phát triển.[65]
|
”
| — Phùng Quang Thanh- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
|
Đây là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử ASEAN bởi ADMM+ là diễn đàn quốc phòng chính thức đầu tiên cấp bộ trưởng quốc phòng giữa ASEAN và các nước đối tác chủ chốt ngoài khu vực. Hội nghị khẳng định tầm quan trọng của việc giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong tiến trình ADMM+ và nhấn mạnh rằng hợp tác trong khuôn khổ ADMM+ cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của ASEAN là tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tham vấn, đồng thuận và với nhịp độ phù hợp với tất cả các nước thành viên. Hội nghị khẳng định ADMM+ là một bộ phận quan trọng của cấu trúc an ninh khu vực năng động, hiệu quả, mở và dung nạp. ADMM+ sẽ góp phần tăng cường hữu nghị, lòng tin và hiểu biết lẫn nhau thông qua đối thoại và hợp tác quốc phòng giữa các nước thành viên ADMM+.[68][69][70] Ngày 23 tháng 8 năm 2011, thành lập Tổng Công ty 36.
Ngày 4 tháng 6 năm 2012, trong buổi tiếp thân mật Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Edward Panetta, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đề nghị:"Nếu được dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương, chúng tôi có nhu cầu mua một số loại vũ khí trang bị trước hết để sửa chữa, bảo quản, nâng cấp các loại vũ khí chúng tôi thu được trong chiến tranh. Sau đó, chúng tôi sẽ lựa chọn mua những loại trang bị vũ khí phù hợp yêu cầu hiện đại hóa quân đội của Việt Nam với giá cả cạnh tranh"
Duyệt binh kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội năm 2010
Ngày 19 tháng 12 năm 2013, Bộ Quốc phòng Việt Nam tổ chức lễ ra mắt Cổng Thông tin điện tử Bộ Quốc phòng có 2 phiên bản tiếng Anh và tiếng Việt.[71]
“
|
Sự kiện Cổng Thông tin điện tử phiên bản tiếng Anh và Báo Điện tử Quốc phòng ra mắt đánh dấu bước phát triển của Ngành thông tin Khoa học quân sự, trong đó có Trung tâm Khoa học quân sự về việc ứng dụng công nghệ thông tin-truyền thông trong Bộ Quốc phòng theo lộ trình phát triển Chính phủ điện tử. Đây là kênh thông tin chính thức cung cấp, trao đổi thông tin về các hoạt động quản lý Nhà nước của Bộ Quốc phòng trên Internet, đem lại tiện ích cho người sử dụng Internet trong và ngoài nước; gắn bó mật thiết với các bộ, ngành, đơn vị, đồng thời giúp bạn bè trên thế giới hiểu rõ hơn về đất nước, con người Việt Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam[72]
|
”
| — Phan Văn Giang- Phó Tổng Tham mưu trưởng
|
Ngày 27 tháng 5 năm 2014, thành lập Trung tâm Gìn giữ Hòa bình Việt Nam. Đây là một việc làm thực tế để Quân đội, Chính phủ và nhân dân Việt Nam chứng minh bằng hành động về những cam kết hội nhập quốc tế toàn diện mà Đảng đã đề ra.[73]
“
|
Việc thành lập Trung tâm gìn giữ hòa bình Việt Nam và cử 2 sĩ quan lên đường làm nhiệm vụ tại Phái bộ Nam Sudan là sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng, đánh dấu sự tham gia chính thức của Việt Nam vào hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc. Hòa bình chỉ có thể được kiến tạo khi những hành động đơn phương trái với luật pháp quốc tế phải được đấu tranh loại bỏ. Hòa bình chỉ có thể được giữ gìn khi khi các quốc gia dù lớn hay nhỏ đều phải tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, đều cùng chia sẻ trách nhiệm gìn giữ hòa bình bằng những hành động thiết thực, cụ thể[74]
|
”
| — Vũ Đức Đam- Phó Thủ tướng Chính phủ
|
Ngày 21 tháng 10 năm 2014, tại Hà Nội đã diễn ra Đối thoại Chính sách Quốc phòng Việt Nam-Hoa Kỳ năm 2014. Hai bên trao đổi tình hình thế giới, khu vực cùng quan tâm và kiểm điểm lại kết quả đạt được trên 5 lĩnh vực được nêu trong Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng song phương và thống nhất, trong thời gian qua, một số lĩnh vực có bước phát triển mới, nhất là các hoạt động hợp tác mang tính chất nhân đạo như tìm kiếm quân nhân mất tích (MIA); rà phá bom mìn, vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh, tẩy rửa chất độc da cam/dioxin...[75] Ngày 16 tháng 1 năm 2015, tại thủ đô New Delhi (Ấn Độ) đã khai mạc Đối thoại chiến lược quốc phòng Ấn Độ - Việt Nam lần thứ 9. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu đoàn Việt Nam tham dự đối thoại. Hai bên đã trao đổi về tình hình quốc tế, khu vực và tiếp tục thống nhất rằng hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế chung của tất cả các quốc gia trong thời đại ngày nay, mọi tranh chấp, bất đồng cần được giải quyết thông qua đối thoại hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực. [76] Ngày 3 tháng 3 năm 2015, Bộ Quốc phòng Việt Nam tuyên bố, Việt Nam và Israel ký kết Bản Ghi nhớ Hợp tác Quốc phòng, nỗ lực thúc đẩy quan hệ song phương, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như hoạt động quân sự, chuyển nhượng công nghệ, hợp tác công nghiệp quân sự.[77] Ngày 18 tháng 3 năm 2015, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam do Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu, đã kết thúc tốt đẹp chuyến đi dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN lần thứ 9 (ADMM-9) và dự khai mạc Triển lãm Hàng không-Hàng hải quốc tế Langkawi năm 2015 (LIMA 2015) tại Malaysia. Thông qua cơ chế ADMM, ASEAN muốn gửi đến cộng đồng quốc tế một hình ảnh ASEAN đoàn kết, đồng thuận và hợp tác có hiệu quả. Malaysia cam kết sẽ làm hết sức mình trong việc góp phần vào duy trì hòa bình, ổn định và an ninh trong khu vực theo các chuẩn mực quốc tế.[78] Ngày 27 tháng 3 năm 2015, Cổng Thông tin Điện tử Ngành Chính sách quân đội chính thức đi vào hoạt động nhằm góp phần tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, hậu phương Quân đội; chỉ đạo, hướng dẫn các hoạt động Công tác chính sách trong toàn quân; thực hiện từng bước các dịch vụ hành chính công trực tuyến nhằm công khai, minh bạch các chế độ, chính sách, quy trình, trách nhiệm tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành; thông tin kịp thời hơn về lĩnh vực Công tác chính sách. Đồng thời, đây là trang tin điện tử của Văn phòng Ban chỉ đạo Quốc gia, là một trong những địa chỉ tiếp nhận, cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ phục vụ cho thực hiện Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo của Ban chỉ đạo Quốc gia 1237.[79] Ngày 31 tháng 5 năm 2015, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter thăm chính thức Bộ Quốc phòng Việt Nam, Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Tư lệnh Vùng 1 Hải quân Nhân dân Việt Nam. Hai bên đã tiến hành hội đàm trên tinh thần hữu nghị, cởi mở, thẳng thắn và hiểu biết lẫn nhau. Hai bên đã trao đổi về quan hệ quốc phòng song phương và nhận thấy sự phát triển tích cực và ổn định trong quan hệ quốc phòng hai nước. Hoa Kỳ đã triển khai tương đối tích cực các chương trình khắc phục hậu quả chiến tranh,trao đổi đoàn; đối thoại, tham vấn; trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn, khắc phục thiên tai, tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, an ninh biển; đào tạo; quân y; tham vấn lẫn nhau trên các diễn đàn đa phương, ADMM+ và các lĩnh vực khác mà hai bên có nhu cầu và khả năng.[80][81][82][83][84] Ngày 2 tháng 9 năm 2015, Bộ Quốc phòng đã tổ chức và phối hợp tốt với các cơ quan đơn vị của các ban ngành đoàn thể Trung ương tổ chức thành công Lễ mít tinh, diễu binh, diễu hành Kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2015) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ViệtNam(2/9/1945 - 2/9/2015) tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Với hơn 30.000 người tham gia trong suốt 3 tháng luyện tập, hợp luyện và tổng duyệt. Ban Chỉ đạo Bộ Quốc phòng về tổ chức các hoạt động Kỷ niệm diễu binh, diễu hành do Thượng tướng Nguyễn Thành Cung làm Trưởng ban Chỉ đạo, Trung tướng Nguyễn Quốc Khánh làm Phó ban Chỉ đạo đã tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm đúng tiến độ đề ra và đảm bảo an toàn trong toàn buổi lễ.[85][86][87][88][89][90][91][92] Thực hiện Quyết định số 1198/QĐ-TTg ngày 15/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ, chiều ngày 8 tháng 1 năm 2018 tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng tổ chức Lễ công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng. Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng là đơn vị đầu mối trực thuộc Bộ Quốc phòng, giúp Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước Việt Nam về bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng và công nghệ thông tin trong toàn quân.
Trong năm 2018 và năm 2019, Thực hiện Nghị quyết của Đảng về tinh giản biên chế, Bộ Quốc phòng đang tiến hành từng bước đổi mới, sắp xếp tổ chức các đơn vị quân đội. Theo đó, để cụ thể hóa công việc ở các lĩnh vực khác nhau, Bộ Quốc phòng đã xây dựng kế hoạch, đề án ở một số đơn vị để rút kinh nghiệm, sau đó triển khai trong toàn quân. Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo sắp xếp 88 doanh nghiệp quân đội còn 17, giảm 71 doanh nghiệp. Số lượng sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng phải giải quyết chế độ là 16.000 người, chưa tính số lao động hợp đồng của các đơn vị. Đối với các cơ quan chiến lược, chiến dịch, Bộ cũng đã rà soát, điều chỉnh tổ chức, hợp nhất các phòng, cục có chức năng, nhiệm vụ tương đồng, phấn đấu đến năm 2021 giảm 10% quân số biên chế so với năm 2015. Bộ Quốc phòng cũng thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính đối với 25 bệnh viện trong quân đội, từ bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đến bệnh viện của các quân khu, quân đoàn, quân chủng. Với cách làm này, ngân sách nhà nước chi thường chuyên cho biên chế, tổ chức của bệnh viện quân đội sẽ giảm đáng kể. Bộ cũng giải thể 14 Lữ đoàn Công binh dự bị động viên thuộc bảy tổng công ty, gồm: 36, 319, Đông Bắc, Thái Sơn, xây dựng Lũng Lô, xây dựng Trường Sơn, Thành An; giải thể Ban Quản lý dự án 46, 47; sáu trung tâm dạy nghề - giới thiệu việc làm[93]
Lực lượng Quốc phòngSửa đổi
Sách trắng không công bố con số lực lượng quốc phòng.
Theo Global Firepower - Bảng xếp hạng thực lực quân sự của các quốc gia trên thế giời thì tổng quân số lực lượng chính quy của Việt Nam tính đến năm 2013 là 412.000 người. Lực lượng dự bị động viên cục bộ: 5.040.000 người. Lực lượng dự bị động viên toàn quốc: 50.645.030 người. Lực lượng phục vụ: 41.503.949 người.[94] Theo Cổng Thông tin Điện tử Bộ Quốc phòng thì tổng quân số lực lượng chính quy khoảng 450.000 người. Lực lượng dự bị khoảng 5 triệu người.[95] Theo thống kê tương đối từng đơn vị cho thấy tổng quân số Lực lượng theo biên chế là khoảng 1 triệu người gồm: Khối cơ quan đầu não (Bộ Tổng tham mưu, các Tổng cục): 84.000; Khối Quân chủng: 185.000; Khối Quân khu: 245.000; Khối Quân đoàn: 130.000; Khối Binh chủng: 58.000; Khối Học viện Nhà trường: 46.000; Khối cơ quan chuyên môn: 15.350; Khối Viện Trung tâm Nghiên cứu: 15.500; Khối Doanh nghiệp Quân đội: 214.500[96] Quân đội nhân dân Việt Nam có 3 quân chủng (riêng Quân chủng Lục quân không thành lập bộ tư lệnh quân chủng mà do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý) và 4 bộ tư lệnh độc lập gồm:
Lực lượng
|
Lục quân
|
Không quân
|
Hải quân
|
Biên phòng
|
Cảnh sát biển
|
Tác chiến không gian mạng
|
Bảo vệ Lăng
|
---|
Biểu trưng
|
|
|
|
|
|
|
| Tên gọi
|
Lục quân
|
Phòng không - Không quân
|
Hải quân
|
Bộ đội Biên phòng
|
Cảnh sát biển
|
Tác chiến Không gian Mạng
|
Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
| Đặc điểm
|
Không biên chế Quân chủng mà trực tiếp trực thuộc Bộ Quốc phòng quản lý
|
Thành lập Quân chủng bao gồm cả lực lượng Phòng không và Không quân
|
Thành lập Quân chủng bao gồm cả Hải quân và Hải quân đánh bộ
|
Thành lập Bộ Tư lệnh, bảo đảm tuần biên trên đất liền, biên giới
|
Thành lập Bộ Tư lệnh, bảo đảm tuần duyên trên biển
|
Thành lập Bộ Tư lệnh
|
Thành lập Bộ Tư lệnh
| Quân số
|
~800.000
|
~60.000
|
~70.000
|
~50.000
|
~30.000
|
~10.000
|
~10.000
| Biên chế chủ yếu
|
7 Quân khu, 1 Bộ Tư lệnh Thủ đô, 4 Quân đoàn, 6 Binh chủng
|
9 Sư đoàn, 3 Lữ đoàn
|
5 Bộ Tư lệnh Vùng, 3 Lữ đoàn
|
5 Lữ đoàn, 44 Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh
|
4 Bộ Tư lệnh Vùng
|
3 Lữ đoàn
|
4 Lữ đoàn
|
Ngân sách Quốc phòngSửa đổi
TT |
Năm |
Ngân sách |
Ghi chú
|
---|
1
|
2005
|
16.278 tỷ đồng[97] |
| 2
|
2006
|
20.577 tỷ đồng[97] |
| 3
|
2007
|
28.922 tỷ đồng[97] |
| 4
|
2008
|
27.024 tỷ đồng[97] |
| 5
|
2009
|
chưa công bố
|
| 6
|
2010
|
chưa công bố
|
| 7
|
2011
|
52.000 tỷ đồng[98] |
| 8
|
2012
|
70.000 tỷ đồng[98] |
| 9
|
2013
|
68.000 tỷ đồng[99] |
| 10
|
2014
|
chưa công bố
|
| 11
|
2015
|
4,4 tỷ USD[100] |
ước tính
| 12
|
2016
|
5 tỷ USD[100] |
ước tính
| 13
|
2017
|
|
| 14
|
2018
|
|
| 15
|
2019
|
5,1 tỷ USD[cần dẫn nguồn] |
ước tính
| 16
|
2020
|
5,5 tỷ USD[101] |
dự kiến
|
Bộ Quốc phòng Việt Nam không công bố con số chính xác về ngân sách quốc phòng. Bất cứ một quốc gia nào có chủ quyền cũng đều quan tâm xây dựng chiến lược quốc phòng. Việc phân bổ nguồn lực của đất nước cho lĩnh vực này là một tất yếu khách quan và tỷ lệ phân bổ giữa "súng và bơ" luôn là vấn đề được cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng.[102] Ngân sách Quốc phòng của Việt Nam chủ yếu để bảo đảm đời sống bộ đội, bảo đảm hoạt động của công nghiệp quốc phòng, duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội nhân dân. Với khả năng kinh tế của Việt Nam còn thấp, thu nhập bình quân đầu người chưa cao, đang ưu tiên đầu tư cho thực hiện chính sách xã hội, xoá đói, giảm nghèo, nên ngân sách quốc phòng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu và "cần, kiệm" vẫn là kim chỉ nam hành động.[102] Năm 2014, Ngân sách chi cho lĩnh vực sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính 704.400 tỷ đồng. Còn ngân sách cụ thể chi cho Quốc phòng thì vẫn là điều tuyệt mật[103]
“
|
Không phải ngẫu nhiên mà ngân sách ghép phần chi cho sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính vào làm một nhóm, bởi 4 nhóm này có quan hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau, nên không thể trả lời cụ thể con số chi cho quốc phòng là bao nhiêu. Đơn cử, trong khoản chi này có khoản chi lương, không thể tách phần chi lương cho lực lượng quốc phòng riêng ra được. Hơn nữa, nhiều khoản chi gián tiếp khác cho quốc phòng, nhưng lại liên quan trực tiếp đến chi không phải quốc phòng cũng không thể tách ra để tính vào chi cho quốc phòng được
|
”
| — Phùng Quốc Hiển- Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách Quốc hội
|
Báo cáo của ICD Research cho biết, theo thống kê, ngân sách quốc phòng Việt Nam trong năm 2011 là 3 tỷ USD, dự kiến sẽ đạt khoảng 7 tỷ USD vào năm 2015 (tăng 2 tỷ USD).[104] Hiện tại là khoảng 19,13%, trong giai đoạn dự báo sẽ tăng trưởng ở tốc độ CAGR 14,32%. Sự tăng trưởng chi tiêu quốc phòng này là phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế "khá ổn định" của Việt Nam. Trong suốt giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã phân bổ 31% ngân sách quốc phòng cho đầu tư ngành công nghiệp – quốc phòng và 69% để mua các trang thiết bị vũ khí của nước ngoài. Tuy nhiên, trong thời kỳ dự báo 2011-2016, tổng ngân sách quốc phòng được đầu tư trong nước sẽ tăng trung bình lên tới con số 35%, tức là Việt Nam sẽ chú trọng nhiều hơn cho ngành quốc phòng trong nước.[105]
Sách trắng quốc phòngSửa đổi
Nhằm mục đích bày tỏ quan điểm của Việt Nam về những vấn đề an ninh mới của khu vực và thế giới, Bộ Quốc phòng Việt Nam công bố sách trắng về quốc phòng của Việt Nam. Sách trắng lần thứ nhất mang tên "Việt Nam củng cố quốc phòng bảo vệ Tổ quốc" vào năm 1998. Gồm 3 phần: Vì hòa bình, độc lập và phát triển, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh.[106] Sách trắng lần hai vào ngày 9 tháng 12 năm 2004 với tên gọi là "Quốc phòng Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XXI", được xuất bản bằng hai thứ tiếng Việt và tiếng Anh, gồm 3 phần chính: Chính sách quốc phòng Việt Nam, Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Với chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích của các quốc gia khác theo những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, chủ trương không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình, không sử dụng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực đối với nước khác. Ngoài ra Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông.[107]
Cột mốc biên giới số 102 giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Cửa khẩu quốc tế Lào Cai
Sách trắng lần thứ ba vào ngày 8 tháng 12 năm 2009 với tên gọi là "Sách trắng Quốc phòng năm 2009" được xuất bản bằng hai thứ tiếng Việt và tiếng Anh với chủ trương duy trì và phát triển quốc phòng đủ mạnh, kiên trì chính sách quốc phòng mang tính chất hoà bình, tự vệ mà trọng tâm là xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Việt Nam xây dựng quân đội "của dân, do dân, vì dân", có tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị hùng hậu, được huấn luyện và trang bị các loại vũ khí ngày càng hiện đại, đủ khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tìm kiếm giải pháp lâu dài cho các tranh chấp lãnh thổ và các tranh chấp khác bằng các biện pháp hoà bình, góp phần xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và thịnh vượng. Việc xuất bản Sách trắng năm 2009 thể hiện mong muốn và quyết tâm của Việt Nam trong việc phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.[108]
Hiệp định về Biên giớiSửa đổi
- Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc[109][110]
- Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc[109][110]
- Hiệp định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc[109][110]
- Hiệp định phân định biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Campuchia[109][110]
- Hiệp định vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia[109][110]
- Hiệp định phân định vùng biển giữa Việt Nam và Thái Lan[109][110]
- Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia[109][110]
- Hiệp định phân định biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Lào[109][110]
- Thỏa thuận hợp tác thăm dò và khai thác chung vùng chồng lấn giữa Việt Nam và Malaysia[109][110]
Lãnh đạo hiện naySửa đổi
Lãnh đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam
Bộ trưởng
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng
Thứ trưởng
Thứ trưởng
Thứ trưởng
Thứ trưởng
Thứ trưởng
|
Đại tướng Phan Văn Giang
Đại tướng Lương Cường
Thượng tướng Nguyễn Tân Cương
Thượng tướng Lê Huy Vịnh
Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến
Thượng tướng Phạm Hoài Nam
Thượng tướng Võ Minh Lương
Thượng tướng Vũ Hải Sản
|
|
Tổ chức ĐảngSửa đổi
Xem thêm: Tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam
Đảng lãnh đạo Quân đội Việt Nam và Bộ Quốc phòng Việt Nam tuyệt đối. Đứng đầu là Quân ủy Trung ương nghiên cứu đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương quyết định những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc phòng; lãnh đạo mọi mặt trong Quân đội. Tổng cục Chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị trong toàn quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư và trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương.[111] Dưới Quân ủy Trung ương là Đảng bộ các Tổng cục, Quân khu, Cục trực thuộc Bộ và các đơn vị tương đương Quân đoàn trực thuộc Bộ. Đứng đầu là Bí thư thường là Chính ủy đảm nhiệm; Phó Bí thư là cấp trưởng đơn vị đó đảm nhiệm. Tùy theo số lượng đơn vị và quân số mà phân chia thành Đảng bộ cấp 2, cấp 3 và cấp cơ sở. Và đơn vị trực thuộc cấp cơ sở (tương đương Đại đội) thường được gọi là Chi bộ, đó là cấp tổ chức Đảng nhỏ nhất trong Quân đội.[111]
Tổ chức chính quyềnSửa đổi
1945-1950Sửa đổi
Từ khi thành lập Bộ Quốc phòng, quy định trong Sắc lệnh của Chủ tịch nước, người chỉ huy cao nhất của Bộ Quốc phòng là Bộ trưởng, tiếp theo là Thứ trưởng. Trong những năm 1946, 1947, 1948, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Chỉ huy hợp nhất sau đó lại tách ra rồi lại hợp nhất thì người chỉ huy cao nhất Bộ Quốc phòng-Tổng Chỉ huy là Tổng Tư lệnh kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Giúp việc cho Bộ trưởng có các Thứ trưởng, Tổng Tham mưu trưởng.
Sau khi hợp nhất giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Chỉ huy thì tổ chức của Bộ Quốc phòng-Tổng Chỉ huy thống nhất gồm Bộ Tổng Tham mưu đứng đầu là Tổng Tham mưu trưởng, Cục Chính trị và các Cục chuyên ngành trực thuộc Bộ.
Trong thời kỳ này, mô hình tổ chức của Bộ Quốc phòng còn sơ khai, thể hiện định hướng cho sự phát triển lớn mạnh hơn về tổ chức sau này. Các cơ quan, đơn vị mới được thành lập là tiền thân cho sự phát triển của các cơ quan, đơn vị sau này. Bộ Quốc phòng được xây dựng theo mô hình tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, cơ chế ngành dọc chuyên môn, chịu sự chỉ huy trực tiếp của thủ trưởng đơn vị cấp mình và sự chỉ huy gián tiếp của thủ trưởng đơn vị cấp trên theo chuyên ngành.
1950-1975Sửa đổi
Sau khi Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tư lệnh hợp nhất thành Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh, người chỉ huy cao nhất là Tổng Tư lệnh kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Hai cơ quan Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Chính trị là cơ quan đầu ngành về công tác Tham mưu và Chính trị, đứng đầu hai cơ quan là Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
1975-2000Sửa đổi
Sau khi thống nhất đất nước, năm 1976, Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh chấm dứt hoạt động chỉ còn lại Bộ Quốc phòng. Khi đó người chỉ huy cao nhất của Bộ Quốc phòng là Bộ trưởng là người quân sự và là Ủy viên Bộ Chính trị.
Hiện naySửa đổi
Với chủ trương tinh giản biên chế gọn nhẹ của Chính phủ. Từ những năm 2000 đến nay, tổ chức của Bộ Quốc phòng chuyển đổi theo hướng giảm số lượng nhân sự, nâng cao chất lượng, tinh nhuệ, gọn nhẹ, từng bước hiện đại hóa, đáp ứng đủ nhu cầu nhiệm vụ bảo vệ Quốc gia và Quốc tế. Tổ chức của Bộ Quốc phòng theo ngành dọc về cơ quan chuyên môn, có chỉ huy trực tiếp và gián tiếp theo ngành dọc. Người chỉ huy cao nhất Bộ Quốc phòng vẫn là Bộ trưởng đồng thời là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, giúp việc cho Bộ trưởng có các Thứ trưởng, Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.[112] Về tổ chức gồm Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, các Tổng cục, Cục chức năng, quân khu, quân chủng, binh chủng, quân đoàn, Học viện nhà trường và các đơn vị kinh tế trực thuộc Bộ.
Sơ đồ tổ chức
Tổ chức chính quyền hiện naySửa đổi
Tổ chức
|
Ngày thành lập
|
Quân số ước tính
|
Chỉ huy
|
Chính ủy
|
Trụ sở
|
BSX
|
---|
Bộ Tổng Tham mưu
|
7/9/1945
(76năm, 288ngày)
|
12.000
|
Nguyễn Tân Cương
|
|
Số 7 Nguyễn Tri Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
TM
| Tổng cục Chính trị
|
22/12/1944
(77năm, 182ngày)
|
10.000
|
Lương Cường
|
|
Số 7 Nguyễn Tri Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
TC
| Khối Tổng cục (82.000 người)
|
---|
Tổng cục II
|
25/10/1945
(76năm, 240ngày)
|
25.000
|
Phạm Ngọc Hùng
|
Lê Quang Minh
|
Số 19 Phạm Hùng, Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, Hà Nội
|
TN
| Tổng cục Hậu cần
|
11/7/1950
(71năm, 346ngày)
|
15.000
|
Trần Duy Giang
|
Đỗ Văn Thiện
|
Số 5 Nguyễn Tri Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
TH
| Tổng cục Kỹ thuật
|
10/9/1974
(47năm, 285ngày)
|
17.000
|
Trần Minh Đức
|
Trần Duy Hưng
|
Số 5 Nguyễn Tri Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
TT
| Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng
|
15/9/1945
(76năm, 280ngày)
|
25.000
|
Hồ Quang Tuấn
|
Nguyễn Mạnh Hùng
|
Số 7 Nguyễn Tri Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
TK
| Khối Quân chủng và Bộ Tư lệnh (210.000 người)
|
---|
Quân chủng Hải quân
|
7/5/1955
(67năm, 46ngày)
|
70.000
|
Trần Thanh Nghiêm
|
Nguyễn Văn Bổng
|
Số 5 Lý Tự Trọng, Minh Khai, Hồng Bàng, Hải Phòng
|
QH
| Quân chủng Phòng không – Không quân
|
22/10/1963
(58năm, 243ngày)
|
60.000
|
Vũ Văn Kha
|
Trần Ngọc Quyến
|
Số 176 Trường Chinh, Khương Thượng, Đống Đa, Hà Nội
|
QA
| Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng
|
19/11/1958
(63năm, 215ngày)
|
70.000
|
Lê Đức Thái
|
Nguyễn Anh Tuấn
|
Số 4 Trần Hưng Đạo, Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội
|
QB
| Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển
|
28/08/1988
(33năm, 298ngày)
|
50.000
|
Lê Quang Đạo
|
Bùi Quốc Oai
|
Tây Mỗ, Nam Từ Liêm, Hà Nội
|
QC
| Bộ Tư lệnh Tác chiến Không gian mạng
|
8/1/2018
(4năm, 165ngày)
|
10.000
|
Lê Dũng
|
Hồ Văn Đức
|
Số 1 Nguyễn Tri Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
QM
| Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
|
14/5/1976
(46năm, 39ngày)
|
10.000
|
Bùi Hải Sơn
|
Đinh Quốc Hùng
|
Số 2 Ông Ích Khiêm, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
BL
| Khối Quân khu (237.000 người)
| Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội
(Bảo vệ Thủ đô Hà Nội)
|
19/10/1946
(75năm, 246ngày)
|
15.000
|
Nguyễn Quốc Duyệt
|
Nguyễn Trọng Triển
|
Số 8 Phạm Hùng, Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội
|
KT
| Quân khu 1
(Bảo vệ vùng Đông Bắc)
|
16/10/1945
(76năm, 249ngày)
|
35.000
|
Nguyễn Hồng Thái
|
Dương Đình Thông
|
Thị trấn Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên
|
KA
| Quân khu 2
(Bảo vệ vùng Tây Bắc)
|
19/10/1946
(75năm, 246ngày)
|
33.000
|
Phạm Hồng Chương
|
Phạm Đức Duyên
|
Đại lộ Hùng Vương, Vân Phú, TP. Việt Trì, Phú Thọ
|
KB
| Quân khu 3
(Bảo vệ vùng Đồng bằng sông Hồng)
|
31/10/1945
(76năm, 234ngày)
|
27.000
|
Nguyễn Quang Ngọc
|
Nguyễn Quang Cường
|
Đường Lê Duẩn, Bắc Sơn, Kiến An, Hải Phòng.
|
KC
| Quân khu 4
(Bảo vệ vùng Bắc Trung Bộ)
|
15/10/1945
(76năm, 250ngày)
|
35.000
|
Nguyễn Doãn Anh
|
Trần Võ Dũng
|
Số 190 Lê Duẩn, Bến Thủy, TP.Vinh, Nghệ An
|
KD
| Quân khu 5
(Bảo vệ vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên)
|
16/10/1945
(76năm, 249ngày)
|
28.000
|
Thái Đại Ngọc
|
Trịnh Đình Thạch
|
Số 15A Duy Tân, Hòa Cường Bắc, Hải Châu, Đà Nẵng
|
KV
| Quân khu 7
(Bảo vệ vùng Đông Nam Bộ)
|
10/12/1945
(76năm, 194ngày)
|
34.000
|
Nguyễn Trường Thắng
|
Trần Hoài Trung
|
Số 204 Hoàng Văn Thụ, P.9, Phú Nhuận, Hồ Chí Minh
|
KP
| Quân khu 9
(Bảo vệ vùng Tây Nam Bộ)
|
10/12/1945
(76năm, 194ngày)
|
30.000
|
Nguyễn Xuân Dắt
|
Hồ Văn Thái
|
Đường CMT8, An Thới, Bình Thủy, Cần Thơ
|
KK
| Khối Quân đoàn (128.000 người)
| Quân đoàn 1
(Binh đoàn Quyết Thắng)
|
24/10/1973
(48năm, 241ngày)
|
32.000
|
Trương Mạnh Dũng
|
Nguyễn Đức Hưng
|
Xã Trung Sơn, TP. Tam Điệp, Ninh Bình
|
AA
| Quân đoàn 2
(Binh đoàn Hương Giang)
|
17/5/1974
(48năm, 36ngày)
|
32.000
|
Phạm Văn Hóa
|
Trần Danh Khải
|
Thị trấn Vôi, Lạng Giang, Bắc Giang
|
AB
| Quân đoàn 3
(Binh đoàn Tây Nguyên)
|
26/3/1975
(47năm, 88ngày)
|
32.000
|
Nguyễn Anh Tuấn
|
Nguyễn Văn Lanh
|
Đường Lê Duẩn, P. Thắng Lợi, TP. Pleiku, Gia Lai
|
AC
| Quân đoàn 4
(Binh đoàn Cửu Long)
|
20/7/1974
(47năm, 337ngày)
|
32.000
|
Lương Đình Lành
|
Trương Ngọc Hợi
|
Đường Độc Lập, KCN Sóng Thần, P. Dĩ An, TP. Dĩ An, Bình Dương
|
AD
| Khối Binh chủng (56.000 người)
| Binh chủng Pháo binh
|
29/6/1946
(75năm, 358ngày)
|
8.000
|
Nguyễn Hồng Phong
|
Hoàng Quang Thuận
|
Số 17/463 phố Đội Cấn, Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội
|
BP
| Binh chủng Đặc công
|
19/3/1967
(55năm, 95ngày)
|
10.000
|
Hoàng Minh Sơn
|
Vũ Hồng Quang
|
Xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
|
BK
| Binh chủng Tăng - Thiết giáp
|
5/10/1965
(56năm, 260ngày)
|
9.000
|
Đỗ Đình Thanh
|
Nguyễn Đức Dinh
|
Đường Cổ Nhuế, Cổ Nhuế 1, Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
|
BB
| Binh chủng Công binh
|
25/3/1946
(76năm, 89ngày)
|
12.000
|
Trần Trung Hòa
|
Lê Xuân Cát
|
Ngõ 459 phố Đội Cấn, Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội
|
BC
| Binh chủng Thông tin Liên lạc
|
9/9/1945
(76năm, 286ngày)
|
10.000
|
Khúc Đăng Tuấn
|
Trần Minh Tâm
|
Số 1 Giang Văn Minh, Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội.
|
BT
| Binh chủng Hóa học
|
19/4/1958
(64năm, 64ngày)
|
7.000
|
Hà Văn Cử
|
Hoàng Xuân Dũng
|
Phố Phan Văn Trường, Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội
|
BH
| Khối Học viện, Nhà trường (56.000 người)
| Học viện Quốc phòng
(Học viện Quân sự cấp cao)
|
3/1/1977
(45năm, 170ngày)
|
1.000
|
Trần Việt Khoa
|
Lương Đình Hồng
|
Số 93 Hoàng Quốc Việt, Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội
|
HA
| Học viện Lục quân
(Học viện Quân sự cấp trung)
|
7/7/1946
(75năm, 350ngày)
|
3.000
|
Đỗ Minh Xương[113] |
Lê Quang Xuân
|
Phường 9, TP. Đà Lạt, Lâm Đồng
|
HB
| Học viện Chính trị
(Học viện Quân sự cấp trung)
|
25/10/1951
(70năm, 240ngày)
|
3.000
|
Nguyễn Văn Bạo
|
Phạm Tiến Dũng
|
Số 124 Ngô Quyền, Quang Trung, Hà Đông, Hà Nội
|
HC
| Học viện Kỹ thuật Quân sự
(Trường Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn)
|
28/10/1966
(55năm, 237ngày)
|
18.000
|
Nguyễn Công Định
|
Cao Minh Tiến
|
Số 236 Hoàng Quốc Việt, Cổ Nhuế 1, Bắc Từ Liêm, Hà Nội
|
HD
| Học viện Hậu cần
|
15/6/1951
(71năm, 7ngày)
|
5.000
|
Phạm Đức Dũng
|
Dương Đức Thiện
|
Phố Ngọc Thụy, Ngọc Thụy, Long Biên, Hà Nội.
|
HE
| Học viện Quân Y
(Trường Đại học Y dược Lê Hữu Trác)
|
10/3/1949
(73năm, 104ngày)
|
5.000
|
Nguyễn Xuân Kiên[114] |
Nguyễn Viết Lượng
|
Số 104 Phùng Hưng, Phúc La, Hà Đông, Hà Nội
|
HH
| Trường Sĩ quan Chính trị
(Trường Đại học Chính trị)
|
14/1/1976
(46năm, 159ngày)
|
5.000
|
Nguyễn Hùng Oanh
|
Trần Quang Trung
|
Thạch Hòa, Thạch Thất, Hà Nội
|
HN
| Trường Sĩ quan Lục quân 1
(Trường Đại học Trần Quốc Tuấn)
|
15/4/1945
(77năm, 68ngày)
|
10.000
|
Đỗ Viết Toản
|
Lê Văn Duy
|
Xã Cổ Đông, TX. Sơn Tây, Hà Nội
|
HT
| Trường Sĩ quan Lục quân 2
(Trường Đại học Nguyễn Huệ)
|
27/6/1961
(60năm, 360ngày)
|
6.000
|
Nguyễn Ngọc Cả
|
Nguyễn Xuân Sơn
|
P. Tam Phước, TP. Biên Hòa, Đồng Nai
|
HQ
| Các cơ quan trực thuộc, cục chức năng (4.250 người)
| Văn phòng Bộ Quốc phòng
|
25/3/1946
(76năm, 89ngày)
|
700
|
Nguyễn Viết Tuyên
|
|
Số 7 Nguyễn Tri Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
TM
| Thanh tra Bộ Quốc phòng
|
25/1/1948
(74năm, 148ngày)
|
300
|
Lê Đình Thương
|
|
Số 7 Nguyễn Tri Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
TM
| Ban Cơ yếu Chính phủ
|
12/9/1945
(76năm, 283ngày)
|
500
|
Vũ Ngọc Thiềm
|
|
Số 105 Nguyễn Chí Thanh, Láng Hạ, Đống Đa, Hà Nội
|
PK
| Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng
|
29/5/2008
(14năm, 24ngày)
|
200
|
Cao Xuân Thắng
|
|
Số 28 Lý Nam Đế, Cửa Đông, Hà Nội
|
TM
| Cục Điều tra Hình sự
|
19/11/1948
(73năm, 215ngày)
|
200
|
Phạm Văn Thi
|
|
Số 14A8 Lý Nam Đế, Hàng Mã, Ba Đình, Hà Nội
|
TM
| Cục Thi hành án
|
15/6/1993
(29năm, 7ngày)
|
200
|
Nguyễn Bá Tòng
|
|
Ngõ 15 phố Duy Tân, Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội
|
TM
| Cục Kinh tế
|
24/12/1998
(23năm, 180ngày)
|
500
|
Trần Đình Thăng
|
|
Số 28A Điện Biên Phủ, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
TM
| Cục Kế hoạch và Đầu tư
|
20/3/1975
(47năm, 94ngày)
|
700
|
Nguyễn Hồng Lâm
|
|
Số 7 Nguyễn Tri Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
TM
| Cục Tài chính
|
25/3/1946
(76năm, 89ngày)
|
200
|
Lưu Sỹ Quý
|
|
Số 14A9 Lý Nam Đế, Hàng Mã, Hoàn Kiếm, Hà Nội
|
TM
| Cục Khoa học Quân sự
|
10/4/1958
(64năm, 73ngày)
|
200
|
Ngô Văn Giao
|
|
Số 7 Nguyễn Tri Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
TM
| Cục Đối ngoại
|
28/5/1964
(58năm, 25ngày)
|
300
|
Vũ Thành Văn
|
|
Số 33 Phạm Ngũ Lão, Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội
|
PA
| Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam
|
27/5/2014
(8năm, 26ngày)
|
200
|
Hoàng Kim Phụng
|
|
Thạch Hòa, Thạch Thất, Hà Nội
|
PG
| Vụ Pháp chế
|
1/1/1957
(65năm, 172ngày)
|
50
|
Hàn Mạnh Thắng
|
|
Số 7 Nguyễn Tri Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
TM
| Các viện nghiên cứu, bệnh viện (12.700 người)
| Viện Chiến lược Quốc phòng
|
11/1/1990
(32năm, 162ngày)
|
400
|
Vũ Cương Quyết
|
|
Số 3B Hoàng Diệu, Quán Thánh, Ba Đình, Hà Nội
|
TM
| Trung tâm Thông tin Khoa học Quân sự
|
8/4/1982
(40năm, 75ngày)
|
300
|
Nguyễn Văn Anh
|
|
Số 7 Nguyễn Tri Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội
|
TM
| Viện Lịch sử Quân sự
|
28/5/1981
(41năm, 25ngày)
|
500
|
Nguyễn Hoàng Nhiên
|
|
Số 3 Hoàng Diệu, Quán Thánh, Ba Đình, Hà Nội
|
TC
| Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự
|
12/10/1960
(61năm, 253ngày)
|
3.000
|
Nguyễn Trung Kiên
|
|
Số 17, phố Hoàng Sâm, Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội
|
PQ
| Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga
|
7/3/1988
(34năm, 107ngày)
|
1.500
|
Đặng Hồng Triển
|
|
Phố Nguyễn Văn Huyên, Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội
|
PX
| Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
|
1/4/1951
(71năm, 82ngày)
|
4.000
|
Mai Hồng Bàng
|
|
Số 1 Trần Hưng Đạo, Bạch Đằng, Hai Bà Trưng, Hà Nội
|
PP-10
| Bệnh viện Trung ương Quân đội 175
|
26/5/1975
(47năm, 27ngày)
|
2.000
|
Nguyễn Hồng Sơn
|
|
Số 786 Nguyễn Kiệm, P.3, Gò Vấp, Hố Chí Minh
|
PP-40
| Viện Y học cổ truyền Quân đội
|
4/7/1978
(43năm, 353ngày)
|
1.500
|
Phạm Xuân Phong
|
|
Số 442 phố Kim Giang, Đại Kim, Hoàng Mai, Hà Nội
|
PP-60
| Các đơn vị kinh tế (216.000 người)
| Công ty TNHH MTV Tư vấn thiết kế và Đầu tư xây dựng (Viện Thiết kế)[115] |
23/1/1955
(67năm, 150ngày)
|
1.500
|
Hoàng Tuấn
|
|
Số 21 Lê Văn Lương, Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội
|
PM
| Tổng Công ty Thành An (Binh đoàn 11)
|
11/6/1982
(40năm, 11ngày)
|
15.000
|
Nguyễn Quốc Dũng
|
Vũ Văn Điềm
|
Số 141 Hồ Đắc Di, Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội.
|
AV
| Tổng Công ty Xây dựng Trường Sơn (Binh đoàn 12)
|
19/5/1959
(63năm, 34ngày)
|
15.000
|
Nguyễn Hữu Ngọc
|
Vũ Phúc Hậu
|
Số 475 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân, Hà Nội
|
AT
| Tổng Công ty 15 (Binh đoàn 15)
|
20/2/1985
(37năm, 122ngày)
|
17.000[116] |
Hoàng Văn Sỹ
|
|
Đường Trần Đại Nghĩa, Yên Thế, TP. Pleiku, Gia Lai
|
AN
| Tổng Công ty 16 (Binh đoàn 16)
|
8/12/1998
(23năm, 196ngày)
|
12.000[117] |
Phạm Ngọc Tuấn
|
|
Xã Đồng Tiến, huyện Đồng Phú, Bình Phước
|
AX
| Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam (Binh đoàn 18)
|
1/6/1989
(33năm, 21ngày)
|
8.000
|
Kiều Đặng Hùng
|
|
Số 172 Trường Chinh, Khương Thượng, Đống Đa, Hà Nội
|
AM
| Tổng Công ty 36
|
23/8/2011
(10năm, 303ngày)
|
8.000[118] |
Nguyễn Đăng Giáp
|
|
Số 141 Hồ Đắc Di, Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội
|
CA
| Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội
|
4/11/1994
(27năm, 230ngày)
|
6.000[119] |
Lưu Trung Thái
|
|
Số 21 phố Cát Linh, Cát Linh, Đống Đa, Hà Nội
|
CB
| Tổng Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp Vạn Xuân (VAXUCO)
|
10/08/1991
(30năm, 316ngày)
|
17.000
|
Nguyễn Trọng Cường
|
|
Số 33B Phạm Ngũ Lão, Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội
|
CD
| Tổng Công ty Đông Bắc
|
24/12/1994
(27năm, 180ngày)
|
12.000[120] |
Phương Kim Minh
|
|
Đường Hải Phượng, Hồng Hải, TP. Hạ Long, Quảng Ninh
|
CH
| Tổng Công ty Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp Quốc phòng (GAET)
|
23/8/2011
(10năm, 303ngày)
|
1.500
|
Phan Tiến Thọ
|
|
Số 102 Kim Mã Thượng, Cống Vị, Ba Đình, Hà Nội
|
CK
| Tổng Công ty Thái Sơn
|
22/4/1991
(31năm, 61ngày)
|
1.000
|
Phạm Gặp
|
|
Số 3 đường 3/2, P.11, Q.10, TP.HCM
|
CM
| Tổng Công ty Đầu tư phát triển Nhà và Đô thị
|
17/9/1987
(34năm, 278ngày)
|
3.000
|
Nguyễn Ngọc Dũng
|
|
Số 68 Nguyễn Cơ Thạch, KĐT Mỹ Đình 1, Cầu Diễn, Nam Từ Liêm, Hà Nội
|
CN
| Tổng Công ty 319
|
7/3/1979
(43năm, 107ngày)
|
10.000
|
Trần Đăng Tú
|
|
Số 63 Lê Văn Lương, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội
|
CP
| Công ty Ứng dụng Kỹ thuật và Sản xuất (TECAPRO)
|
14/11/1988
(33năm, 220ngày)
|
1.000
|
Nguyễn Tiến Thắng
|
|
Số 18A đường Cộng Hòa, P.12, Tân Bình, TP.HCM
|
CT
| Tổng Công ty Xây dựng Lũng Lô
|
16/11/1989
(32năm, 218ngày)
|
9.000
|
Tăng Văn Chúc
|
|
Số 162 Trường Chinh, Khương Thượng, Đống Đa, Hà Nội
|
CV
| Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội
|
1/6/1989
(33năm, 21ngày)
|
25.000
|
Tào Đức Thắng[121] |
|
Ngõ 3 Phố Tôn Thất Thuyết, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội
|
VT
|
Tổ chức quốc tế tham giaSửa đổi
- Hội nghị Tư lệnh Lực lượng Quốc phòng các nước ASEAN (ACDFIM)
Khu Kinh tế Quốc phòngSửa đổi
Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh (QP-AN) vừa là chủ trương, đường lối, quan điểm, vừa là giải pháp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ chức thực hiện nội dung kết hợp đó đều được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu mới. Đây là chủ trương chiến lược hết sức quan trọng, được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội của Đảng. Trong quá trình xây dựng, mỗi lĩnh vực kinh tế, xã hội, QP-AN đều có mục tiêu riêng. Nhưng khi kết hợp với nhau thì cần phải có sự gắn kết hài hòa các mục tiêu cụ thể để phục vụ cho mục tiêu chung.[122] Qua đó, có thể khái quát mục tiêu kết hợp kinh tế với QP-AN trong thời kỳ Hội nhập quốc tế là: xây dựng kinh tế phát triển nhanh, bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nắm vững mục tiêu chung đó là cơ sở để điều chỉnh đúng mức mối quan hệ giữa các lĩnh vực trong quá trình thực hiện sự kết hợp. Hơn nữa, cần nhận rõ những yếu tố tác động mới đối với quá trình thực hiện kết hợp kinh tế với QP-AN. Đó là tác động của toàn cầu hóa dẫn đến ảnh hưởng ngày càng lớn của kinh tế thế giới đối với nền kinh tế nước ta; là mối quan hệ giữa cạnh tranh với hợp tác và phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; là tốc độ gia tăng đầu tư kinh tế, xâm nhập thị trường của các nước vào nước ta; là sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế trong nước liên quan đến đối tượng kết hợp; là tính chất đa dạng, đan xen của nhiệm vụ QP-AN, đối ngoại trong mối quan hệ kết hợp. Và cần phải kết hợp toàn diện, nhưng cần tập trung vào trọng điểm.[122] Hiện nay, các khu kinh tế, quốc phòng này không những mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao mà còn góp phần xây dựng buôn làng có thế trận phòng thủ vững chắc.[123]
- Mẫu Sơn (Lạng Sơn)[124]
- Bảo Lạc-Bảo Lâm (Cao Bằng)[124]
- Mường Chà (Điện Biên)[124]
- Vị Xuyên (Hà Giang)[124]
- Mường Lát (Thanh Hóa)[124]
|
|
- Bát Sát (Lào Cai)[124]
- Sông Mã (Sơn La)[124]
- Phong Thổ (Lai Châu)[124]
- Bắc Hải Sơn (Quảng Ninh)[124]
|
|
- Bình Liêu-Quảng Hà-Móng Cái (Quảng Ninh)[124]
- Khe Sanh (Quảng Trị)[124]
- Aso-A lưới (Thừa Thiên Huế)[124]
- Kỳ Sơn (Nghệ An)[124]
|
|
|
Tùy viên Quốc phòngSửa đổi
Tính đến tháng 3 năm 2009, có hơn 20 quốc gia [125] mà Việt Nam cử Tùy viên Quốc phòng hoạt động tại đó cụ thể như sau:
- Lào
- Campuchia
- Indonesia
- Malaysia
- Myanmar
|
|
- Philippines
- Singapore
- Thái Lan
- Trung Quốc
- Hàn Quốc
|
|
- CHDCND Triều Tiên
- Nhật Bản
- Ấn Độ
- Hoa Kỳ
- Brasil
|
|
- Cuba
- Nga
- Ukraina
- Bulgaria
- Pháp
|
|
- Nam Phi
- Úc
- Algérie
- Đức
- Tây Ban Nha
|
|
- Cộng hòa Séc
- Belarus
- Venezuela
- Brunei
|
|
|
Bộ trưởng qua các thời kỳSửa đổi
- Bài chi tiết: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (Việt Nam)
Thứ trưởng qua các thời kỳSửa đổi
- Bài chi tiết: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (Việt Nam)
Xem thêmSửa đổi
- Bộ Quốc phòng
- Bộ Tổng Tham mưu
- Tổng cục Chính trị
- Quân đội nhân dân Việt Nam
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (Việt Nam)
- Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (Việt Nam)
- Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
Tham khảoSửa đổi
- Bộ Sách Lịch sử Quân sự Việt Nam, 14 tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, HN, 1996, 2013, 2014.
- Bách khoa Toàn thư Quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015 gồm 6 tập (Lịch sử Quân sự; Địa lý Quân sự; Hậu cần-Kỹ thuật Quân sự; Chính trị-Nhân vật-Tổ chức Lực lượng vũ trang; Nghệ thuật Quân sự; Tổng dẫn).
- Lịch sử Tư tưởng Quân sự Việt Nam, 5 tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, HN, 2014.
- Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.
- 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam - Biên niên sự kiện, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2004.
- Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1 và Tập 2, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 1994.
- Lịch sử Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam Tập 1, Tập 2, Tập 3, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN 2009, 2010, 2011.
- Lịch sử Công tác Đảng, công tác chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2002.
- Lịch sử Tổng cục Kỹ thuật (1974-2014), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2014.
- Lịch sử Tổng cục Chính trị (1944-2014), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2014.
- Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2015.
- Bộ Tổng Tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, HN, 2011.
- Lịch sử Quân giới Việt Nam (1954-1975), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 1995.
- Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2007.
- Lịch sử Đoàn 559-Bộ đội Trường Sơn-đường Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 1999.
- Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, HN, 1996.
- Những vị tướng lừng danh trong Lịch sử dân tộc, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2014.
- Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước-Thắng lợi và bài học, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, HN, 1995.
- Lịch sử Công tác đảng, công tác chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2002.
- Biên niên sự kiện lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam 1954-1975, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 1992.
- Việt Nam những sự kiện 1945-1986, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, HN, 1990.
Chú thíchSửa đổi
- ^ a b http://mod.gov.vn/wps/portal/!ut/p/b1/04_Sj9CPykssy0xPLMnMz0vMAfGjzOLdHP2CLJwMHQ0sPAzNDDyNPVzMwsKCjd3dDYEKIoEKDHAARwNC-sP1o8BKnN0dPUzMfQwMLHzcTQ08HT1CgywDjY0NHI2hCvBY4eeRn5uqX5AbYZBl4qgIANpeImk!/dl4/d5/L2dBISEvZ0FBIS9nQSEh/
- ^ “NGHỊ QUYẾT VỀ PHÂN BỔ NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG NĂM 2021”. Thư viện pháp luật.
- ^ “Phong tướng quá nhiều”.
- ^ Theo Luật Quốc phòng 2018
- ^ “Quốc dân đại hội Tân Trào (8-1945)”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
- ^ “Chính phủ lâm thời ra mắt Quốc dân đồng bào ngày 2-9-1945”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
- ^ "40 năm chiến đấu và trưởng thành của Bộ Tổng Tham mưu", Tạp chí QĐND số tháng 9 năm 1985, trang 17.
- ^ Trần Trọng Trung, Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2011. Chương I: Những ngày trứng nước
- ^ "Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong cuộc Kháng chiến chống Pháp (1945-1954)", Hà Nội, 1991
- ^ Chính phủ liên hiệp kháng chiến (thành lập ngày 2-3-1946)
- ^ Sắc lệnh số 34 1946
- ^ Sắc lệnh số 35 1946
- ^ “Sắc lệnh 60 năm 1946”.
- ^ “Giới thiệu chung Binh chủng pháo binh”.
- ^ a b “Tên gọi qua các thời kỳ”.
- ^ Sắc lệnh 229
- ^ Sắc lệnh 230
- ^ a b c d “Thông qua hiến pháp”.
- ^ “Giới thiệu chung Quân khu 7”.
- ^ “Lịch sử thành lập, chiến đấu và trưởng thành của LLVT Quân khu 9”.
- ^ “Chủ động tiến công, phát động toàn quốc kháng chiến (19-12-1946)”.
- ^ “Sắc lệnh 47 năm 1947”.
- ^ “Sắc lệnh 90 năm 1947”.
- ^ “Sắc lệnh 236 ngày 5/8/1947”.
- ^ “Sắc lệnh 165 năm 1948”.
- ^ “Truyền thống 50 năm Quân chủng phòng không- không quân”.
- ^ “Giới thiệu Học viện Quân y”.
- ^ “Sắc lệnh 14 năm 1949”.
- ^ “Sắc lệnh 50/SL ngày 18/6/1949 tổ chức của Bộ Quốc phòng”.
- ^ “Sắc lệnh 121 năm 1950”.
- ^ a b c d e f “Về tổ chức của BQP”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2014.
- ^ “Lịch sử hình thành và phát triển Bệnh viện Trung ương Quân đội 108”.
- ^ “Giới thiệu Học viện Hậu cần”.
- ^ “Học viện Chính trị cần tự xây dựng mình vững mạnh về chính trị”.
- ^ “Sắc lệnh 221 năm 1955”.
- ^ “Cuộc giáng trả đanh thép của Quân chủng Hải quân Việt Nam 40 năm trước”. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2015.
- ^ a b “SẮC LỆNH 60 ngày 10/4/1958”.
- ^ a b “Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển khoa học quân sự đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”.
- ^ a b c d e “Quá trình hình thành và phát triển BCHC”.
- ^ a b c d e “Quá trình hình thành và phát triển Bộ đội Biên phòng”.
- ^ Quyết định 754-TTg năm 1995 về việc chuyển giao bộ đội biên phòng sang Bộ Quốc phòng quản lý do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- ^ “Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng 50 năm xây dựng và trưởng thành”.
- ^ “TÓM TẮT LỊCH SỬ BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
- ^ a b “Trường sĩ quan lục quân 2: Đơn vị "Trung dũng, sáng tạo, đoàn kết, kỷ luật, dạy tốt, học tốt"”.
- ^ a b “Bộ Chỉ huy Miền hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chống Mỹ”.
- ^ a b “Cục Đối ngoại Kỷ niệm 50 năm ngày thành lập và đón nhận Huân chương Quân công hạng Nhất”.
- ^ a b c “Giới thiệu chung BCTTG”.
- ^ Quyết định 146-CP năm 1966 về việc mở Phân hiệu đại học Bách Khoa đào tạo cán bộ cho các lực lượng vũ trang nhân dân do Hội đồng Chính phủ ban hành
- ^ a b c d e “ĐẠI HỌC KỸ THUẬT LÊ QUÝ ĐÔN”.
- ^ “Giới thiệu chung Binh chủng Đặc công”.
- ^ “Nâng cao hiệu quả công tác tiêu chuẩn, đo lường, bảo đảm chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật của quân đội”.
- ^ “Người vun đắp truyền thống "Thần tốc - Quyết thắng" của Quân đoàn 1”.
- ^ a b c “Quân đoàn 2 - "Thần tốc, táo bạo, quyết thắng"”.
- ^ Lịch sử Tổng cục Kỹ thuật (1974-2014), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HN, 2014, trang 13-14.
- ^ “Cục Kế hoạch và Đầu tư đón nhận Huân chương Quân công hạng Ba”.
- ^ a b c “Quân đoàn 3 - "Quyết thắng, sáng tạo, đoàn kết, thống nhất, nghiêm túc, tự lực"”.
- ^ a b “Quân đoàn 4 - "Trung thành, đoàn kết, anh dũng, sáng tạo, tự lực, quyết thắng"”.
- ^ “Lịch sử Hình Thành Và Phát triển Bệnh viện 175”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Bệnh viện Quân y 175 đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất”.
- ^ “Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được thành lập, vừa xây dựng, vừa trưởng thành, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị đặc biệt (1975-1991)”.
- ^ “VIỆN Y HỌC CỔ TRUYỀN QUÂN ĐỘI”.
- ^ “Giới thiệu chung TCT319”.
- ^ “Kỷ niệm 30 năm Ngày truyền thống Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (28-5-1981 - 28-5-2011)”.
- ^ a b c d e “GIỚI THIỆU CHUNG TCT Thành An”.
- ^ a b “Viện Quan hệ Quốc tế về Quốc phòng với công tác đối ngoại quốc phòng trong thời kỳ mới”.
- ^ Quy định số 50-QĐ/TW ngày 21/11/2011 về tổ chức cơ quan chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam
- ^ “Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng - Bước tiến mới trong quản lý Quốc phòng hiện nay”.
- ^ “Tuyên bố Chủ tịch Hội nghị ADMM+ lần thứ nhất”.
- ^ “ADMM+: 3 năm nhìn lại”.
- ^ “ADMM+: Một cấu trúc khu vực mới”.
- ^ “Ra mắt báo điện tử Bộ Quốc phòng”.
- ^ “Ra mắt báo điện tử Quốc phòng và Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng phiên bản tiếng Anh”.
- ^ “Việt Nam thêm lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc”.
- ^ “Bộ Quốc phòng tổ chức Lễ thành lập Trung tâm gìn giữ hòa bình Việt Nam”.
- ^ “Đối thoại Chính sách Quốc phòng Việt Nam-Hoa Kỳ năm 2014”.
- ^ “Đối thoại quốc phòng Việt Nam - Ấn Độ lần thứ 9”.
- ^ “Việt Nam-Israel ký kết thỏa thuận hợp tác quốc phòng”.
- ^ “Đại tướng Phùng Quang Thanh kết thúc tốt đẹp chuyến đi dự ADMM-9 và khai mạc LIMA 2015”.
- ^ “Khai trương "Cổng Thông tin điện tử Ngành Chính sách Quân đội"”.
- ^ “Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ thăm chính thức Việt Nam”.
- ^ “Hình ảnh toàn cảnh Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ thăm Việt Nam”.
- ^ “Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ thăm chính thức Việt Nam”.
- ^ “Bước phát triển mới trong quan hệ quốc phòng Việt Nam- Hoa Kỳ”.
- ^ “Bộ Quốc phòng Việt Nam và Hoa Kỳ ký Tuyên bố Tầm nhìn chung”.
- ^ “Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt để Lễ kỷ niệm 70 năm Quốc khánh 2/9 thành công tốt đẹp”.
- ^ “Lễ diễu binh, diễu hành 2/9 có gì đặc biệt?”.
- ^ “Mít tinh, diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9”.
- ^ “Kinh phí tổ chức lễ diễu binh, diễu hành 2/9 là bao nhiêu?”.
- ^ “Lễ mít tinh, diễu binh mừng Quốc khánh 2/9”.
- ^ “Những con số ấn tượng kỷ niệm 70 năm Quốc khánh 2/9”.
- ^ “Lễ diễu binh, diễu hành 2/9 có gì đặc biệt”.
- ^ “30.000 người tham gia diễu binh, diễu hành kỷ niệm Quốc khánh 2/9”.
- ^ “Bộ Quốc phòng sắp xếp lại hàng loạt đơn vị”.
- ^ “Bảng xếp hạng quân đội thế giới - Theo Globalfirepower”.
- ^ “Giới thiệu Quân đội Nhân dan Việt Nam”.
- ^ Dựa trên sự ước lượng từ các đơn vị trực thuộc năm 2014
- ^ a b c d “Công bố Ngân sách Quốc phòng Việt Nam”.
- ^ a b “Vì sao ngân sách quốc phòng VN tăng”.
- ^ “BXH Quân sự Thế giới Theo globalfirepower”.
- ^ a b “Việt Nam tăng ngân sách quốc phòng, Mỹ có cơ hội lớn?”.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên soha.vn
- ^ a b “Về một số yếu tố ảnh hưởng đến chi ngân sách quốc phòng của các quốc gia và những vấn đề đặt ra ở Việt Nam”.
- ^ “Việt Nam chi bao nhiêu cho quốc phòng 5/2014,Báo Zing.vn”.
- ^ “Dự báo ngân sách quốc phòng VN 2011-2016”.
- ^ “Dự báo ngân sách quốc phòng Việt Nam 2011-2016”.
- ^ “Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 1998”.
- ^ “Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2004”.
- ^ “Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2009, Cổng TTĐT Bộ Quốc phòng”.
- ^ a b c d e f g h i Theo Sách trắng Quốc phòng của Việt Nam năm 2009
- ^ a b c d e f g h i “Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2009”.
- ^ a b “Chương VI: Tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam”.
- ^ “Quân ủy TW: Đẩy mạnh 3 khâu đột phá trong năm 2015”.
- ^ “Bổ nhiệm Giám đốc Học viện Lục quân; Tư lệnh Quân đoàn 1”. Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 30 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2021.
- ^ Thụy Du (5 tháng 5 năm 2022). “Bổ nhiệm Cục trưởng Cục Quân y làm Giám đốc Học viện Quân y”. Báo Tiến Phong. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2022.
- ^ VIỆT CƯỜNG (25 tháng 3 năm 2022). “Viện Thiết kế Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị Người lao động năm 2022”. Quân đội nhân dân. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2022.
- ^ “Phong trào Thi đua quyết thắng ở Binh đoàn 15 - Truyền hình Gia Lai”. Truyền hình Gia Lai. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Binh đoàn 16 vững vàng trên dải đất biên giới Tây Nam”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2014. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Mô hình mới trong quản lý các doanh nghiệp quân đội”. Báo Điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
- ^ “MBB”. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Tổng công ty Đông Bắc: Doanh nghiệp điển hình làm theo lời Bác”. Báo điện tử Diễn đàn Doanh nghiệp. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
- ^ Thu Hằng (25 tháng 12 năm 2021). “Đại tá Tào Đức Thắng làm Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel”. Vietnamnet. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b “Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh trong thời kỳ hội nhập quốc tế”.
- ^ “Phát triển kinh tế gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân”.
- ^ a b c d e f g h i j k l m Theo Sách trắng Quốc phòng năm 2009, trang 112
- ^ “Tuỳ viên Quốc phòng Việt Nam tại nước ngoài (tính đến tháng 3 năm 2009)”.
Liên kết ngoàiSửa đổi
- Cổng TTĐT Bộ Quốc phòng
- Báo Quân đội nhân dân
- Tạp chí quốc phòng toàn dân
- Cục Kinh tế, Bộ Quốc phòng
- Cục Chính sách, Bộ Quốc phòng
- Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng
- Danh sách các doanh nghiệp quân đội
- Cơ cấu, tổ chức của Quân đội nhân dân Việt Nam
|