Nguyễn lữ là ai

Nguyễn lữ là ai

Đông Định vương Nguyễn Lữ 阮侶, tục gọi là thầy tư Lữ, ông là em của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc và Quang Trung hoàng đế, đồng thời cũng là một trong ba người đặt nền móng kiến lập nhà Tây Sơn. 

Nguyễn lữ là ai
Ông thường được miêu tả là một người ôn hòa, dáng người mảnh khảnh theo học văn võ cùng một thầy với hai người anh. Ông thường hay đi xa giao du đây đó quen biết rộng, lấy nghề thuốc giúp người nên dân chúng gọi ông là thầy tư Lữ. Tương truyền ông xuất gia Minh giáo hay đạo Mani, biết dùng yêu thuật lại hay lên vùng thượng đạo chữa bệnh trừ tà, người Thượng rất kính sợ ông mà tuân theo, vì vậy khi Tây Sơn khởi nghĩa việc xây dựng lực lượng ban đầu không thể không kể đến tay ông.

Ông còn tinh thông nhu thuật, thích quan sát, tìm tòi học hỏi, ông được cho là người đã tạo ra bài Hùng Kê Quyền, một bài quyền mô phỏng đòn thế của những con gà chọi với nhiều miếng điểm, bấm, móc vào các yếu huyệt rất lợi hại. Bài quyền vẫn còn lưu truyền đến ngày nay trong hệ thống võ Bình Định. Không những tham gia xây dựng lực lượng, Nguyễn Lữ còn góp công trong nhiều trận đánh quan trọng thời kì đầu giúp quân Tây Sơn đánh bại chúa Nguyễn tiêu diệt gần hết gia tộc này, chỉ trừ Nguyễn Ánh.

Khi nội bộ anh em nhà Tây Sơn xảy ra mâu thuẫn dẫn đến việc Bắc Bình vương – tức Quang Trung hoàng đế (về sau) bao vây anh trai là Thái Đức đế – tức Tây Sơn vương (về sau) ở thành Quy Nhơn, ông đã đứng ra làm trung gian hòa giải giữa các anh em, sau sự kiện này ông được tấn phong là Đông Định Vương, trấn giữ đất Gia Định.

Sử sách nhà Nguyễn thường chê ông là kẻ hèn kém khi nhiều lần bị chúa Nguyễn Ánh đem quân tái chiếm Gia Định, phải bỏ chạy và cầu viện các anh. Mặc dù vậy quân Tây Sơn ở Nam Bộ dưới quyền ông thực tế đã gây không ít khó khăn cho quân chúa Nguyễn, khi lần cuối đánh mất Gia Định bản thân Nguyễn Lữ đã mang bệnh nặng trong người khi rút đi về đến Quy Nhơn một thời gian ngắn thì qua đời, vì vậy những lời chê của sử Nguyễn có phần phiến diện nhằm bôi nhọ ông mà thôi.

Triều Nguyễn được mở ra, đã tìm mọi cách “xóa” tất cả dấu tích của nhà Tây Sơn, lăng tẩm bị san bằng, sách vở bị đốt hủy. Vì thế, có những chuyện về nhà Tây Sơn đã chìm vào sự mờ ảo của dã sử.

Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, ai là anh?

Trong ba anh em Tây Sơn, ngoài vị trí của Nguyễn Nhạc là anh lớn nhất đã được xác định rõ ràng, thế thứ của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ vẫn gây tranh cãi.

Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, cũng như một số tài liệu khác cho rằng ông Nhạc là anh lớn, kế đến là ông Lữ, còn ông Huệ nhỏ nhất. Nhưng dân địa phương nơi quê nhà của ba anh em Tây Sơn tương truyền vẫn gọi rằng: ông hai Nhạc, chú ba Thơm, thầy tư Lữ.

Bài viết Ít tư liệu về nhà Tây Sơn trong tập san Bách khoa số 259 ra ngày 15.10.1967, tác giả Ngê Bá Lí đã lý giải về việc tại sao lại là “ông, chú, thầy” trong cách dân địa phương gọi 3 ông: “ … Ông, vì Nhạc lớn hơn em kế đến mươi tuổi, lại phải thay cha cầm đầu đoàn buôn trầu; hai, vì ở đây người con đầu không gọi như từ Bắc vào Thừa Thiên là cả, mà là hai … Chú, vì dân địa phương bắt chước Nhạc gọi Huệ là chú ba vốn theo việc học nghề văn nghiệp võ cho đến khi phất cờ khởi nghĩa … Thầy, vì Lữ là người nhân hậu, lại sớm đi tu…

Trên đây chỉ là tài liệu “miệng”, có người nhắc tới một tài liệu mực tàu giấy bản: Nguyễn Siêu, đời Tự Đức trong Phương đình dư địa chí, mục nói về tỉnh Bình Định, có ghi em thứ hai của Nguyễn Văn Nhạc là Huệ, em thứ ba là Lữ”.

Trong Nước non Bình Định, Quách Tấn cũng viết: “ … Ông Phúc qua đời, ông Nhạc nối nghiệp cha. Ông Huệ tiếp tục đi học. Ông Lữ xuất gia đầu Phật. Ông Nhạc có uy tín trong anh em lái buôn, người ta gọi là ông hai Nhạc. Ông Huệ vì mang tên hoa có hương nên được gọi là chú ba Thơm. Còn ông Lữ đi tu nên gọi là thầy: thầy tư Lữ …”.

Như vậy qua các tài liệu đã dẫn ở trên có thể xác định ông Huệ là anh ông Lữ.

Nguyễn lữ là ai

Cụm tượng ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ tại Bảo tàng Quang Trung (Bình Định)

ẢNH: HOÀNG TRỌNG

Chuyện về lễ Thường tân (lễ Ba vua) được tổ chức bí mật

Khi vua Thái Đức - Nguyễn Nhạc (lên ngôi năm 1776) đóng đô ở thành Hoàng đế (thành cũ Đồ Bàn của Chiêm Thành - thuộc thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), khu đất cũ của gia đình ngày xưa vua Thái Đức cho dựng một ngôi từ đường và được dân làng sở tại chăm sóc. Khi nhà Tây Sơn mất, ngôi từ đường cũng bị triệt hạ. Tuy nhiên dân địa phương lại dựng lên tại đây một ngôi đình làng - theo Nước non Bình Định.

Nhân dân địa phương bí mật thờ ba anh em Tây Sơn tại ngay ngôi đình đó. Nhà Nguyễn từng sắc phong đình thần ở vùng Bình Thành, Bình Khê (địa danh thời Nguyễn, là vùng đất quê hương nhà Tây Sơn - NV) nhưng sắc thần đó không được dân địa phương để trong ngôi đình.

Cũng theo bài viết đã dẫn trong tập san Bách khoa số 259: “ …để che giấu vua tôi nhà Nguyễn, họ thường tổ chức lễ Thường tân tại đình làng rất trọng thể. Lễ này tục gọi là lễ Cơm mới để tỏ lòng nhớ ơn người đã bày ra cách cày cấy… Vì lễ Thường tân nhằm ngày rằm tháng mười một, mà Nguyễn Nhạc mất cũng vào ngày rằm năm Quý Sửu (1793). Nhân ngày qua đời của người anh cả mà giỗ chung cho cả ba anh em, trùng ngày với lễ Cơm mới, tưởng không còn gì hợp lý cho bằng”.

Lễ Thường tân (Cơm mới) xuất phát ở làng cũ của ba anh em Tây Sơn, từ đó thành ra lớn hơn và ý nghĩa hơn ở bất cứ nơi nào khác, và cũng vì người dân nơi đây bí mật dùng lễ này để cúng giỗ ba anh em nhà Tây Sơn, nên họ còn gọi là lễ Ba vua.

Thời chiến tranh chống Pháp, ngôi đình cũng bị phá hủy, đến năm 1960, dân địa phương lại dựng đền thờ ba anh em nhà Tây Sơn trên nền ngôi đình cũ. Đến nay, nơi đây đã trở thành Bảo tàng Quang Trung (ở thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) gồm một quần thể các di tích rất khang trang, bề thế, được nhiều du khách khắp nơi thăm viếng. 

Tin liên quan

Đăng nhập

Đăng nhập để trải nghiệm thêm những tính năng hữu ích

Zalo

  • Nóng

  • Mới

  • VIDEO

  • CHỦ ĐỀ

Anh hùng chiến tranh Việt Nam Nguyễn Lữ là ai?
Nguyễn Lữ còn có tên khác là Nguyễn Văn Lữ, là em trai của vua Quang Trung Nguyễn Huệ và Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc của triều đại Tây Sơn, là một trong những triều đại có lịch sử nổi bật về võ công của Việt Nam.
Tổ tiên của Nguyễn Lữ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Yên, Nghệ An. Ông cùng hai người anh trai của mình là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ theo chúa Nguyễn vào miền Nam lập nghiệp khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh vào đất Lê - trịnh đến Nghệ An vào niên hiệu Thịnh Đức, đời vua Lê Thần Tông. Cha của Nguyễn Lữ là Nguyễn Phi Phúc chuyên làm nghề buôn trầu nên kinh tế cũng khá giả. Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có 3 người con trai là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Huệ. Theo nhiều ghi chép thì NGuyễn Lữ là người có tính tình nhân hâụ hơn cả trong 3 anh em. Ông được thầy Trương Văn Hiến chân truyền cho môn miên quyền. Môn này là món sở trường của thầy Trương Công. Khác với hai người anh em trai của mình, Nguyễn Lữ học văn nhiều hơn học võ, chính vì thế tính cách của ông khá hiền hòa và ưa thanh tịnh. Tuy nhiên, ông cũng đã học nhiều môn võ và chuyên về miên quyền. Ngoài ra, ông cũng học về kiếm, nhờ kết hợp giữa miên quyền và kiếm thuật, Nguyễn Lữ đã nổi danh về môn nhu kiếm.

Nguyễn Lữ có đam mê nghiên cứu tôn giáo, vì vậy, khi cho ông qua đời thì ông cũng thôi học, xuất gia theo Minh Giáo hay còn gọi là đạo Ma Ní, dùng các phép thuật để chữa bệnh, trừ tà giống phù thủy. Ông đi truyền đạo và chữa bệnh cho người dân ở khắp vùng Tây Sơn. Người dân thường gọi ông với cái tên thân mật là Thầy Tư Lữ. Trên đường đi truyền đạo, ông đã vượt qua được nhiểu hiểm nguy nhờ có tính cách hiền hòa, cộng với sự tin tưởng vào bản thân và với võ công đặc biệt. Khi gặp côn đồ, ông hết lời khuyên ngăn nên cải tà quy chính, nhưng khi không thể dùng lời nói được nữa thì ông cũng dùng đến vũ lực để thu phục. Nhờ môn miên quyền mà Nguyễn Lữ đã hàng phục được nhiều người, sau này là những anh hùng của nhà Tây Sơn.

Khi Nguyễn Nhạc đứng lên khởi nghĩa, ông về phụ giúp anh trai lo việc lớn. Ông có công thuyết phục các sắc tộc miền Tây Sơn theo nhà Tây Sơn. Việc thuyết phục được tộc trưởng Bốc Kiơm có công lớn của ông. Ông được giao phụ trách về kinh tế, tài chính của quân Tây Sơn cùng Bùi Thị Xuân và Nguyễn Thung.

Khi Tây Sơn tổng hành dinh dời lên Tây Sơn Thượng, ông ở lại Tây Sơn hạ để đôn đốc sản xuất. Ông vừa thông thao tiếng dân tộc lại là một người truyền giáo nên rất thích hợp với sắc tộc miền Tây Sơn thượng. Chính vì thế, ông là người có công lớn trong việc liên kết các sắc tộc với nhà Tây Sơn. Ông cũng dành mọi kế hoạch để nâng cao uy danh cho người anh trai Nguyễn Nhạc. Chính vì thế, Nguyễn nhạc đã được các bộ tộc Tây Sơn suy tôn lên làm vua trời.

Khi chính sự nhà Nguyễn đang rối ren, Nguyễn Nhạc lấy danh nghĩa trừng phạt quyền thần Trương Phúc Loan mà phất cờ khởi nghĩa ở ấp Tây Sơn. Nguyễn Lữ là người có vai trò nhất định trong sự phát triển của quân Tây Sơn trong thời đầu. Từ ấp Tây Sơn, ba anh em họ Nguyễn đã tập hợp lực lượng, ban đầu hầu hét là đồng bào người Thượng đứng lên khởi nghĩa. Sau đó, quân Tây Sơn đã nhận được sự ủng hộ lớn của dân chúng, và đã có cuộc nổi dậy ở nhiều nơi, thắng một số trận chống lại quân chúa Nguyễn.

Năm 1773, nhờ có kế sách hay mà quân Tây Sơn đã chiếm được thành Quy Nhơn. Với tài lãnh đạo của Nguyễn Nhạc, tài quân sự của Nguyễn Huệ mà quân Tây Sơn đã nhanh chóng mở rộng địa bạn ra toàn Nam Trung bộ, đã nhiều lần đánh bại quân Nguyễn. khi chúa Trịnh điều quân vào Nam, Nguyễn Nhạc đã giảng hòa với nhà Trịnh để tập trung đánh nhà Nguyễn. Đầu năm 1776, Nguyễn Lữ nhận lệnh của Nguyễn Nhạc mang quân theo đường thủy tiến đánh Gia Định. Nguyễn Phúc Thuần bị quân Tây Sơn đánh bất ngờ nên bỏ chạy về Trần Biên- Biên Hòa. Nguyễn Lữ tiến vào thành, kiểm điểm kho tàng và thu thập quân lương rồi chuyển về Quy Nhơn. Sau đó, ông điều quân xuống Long Hồ để đánh quân Nguyễn, bắt sống tên tướng Nguyễn là Bùi Hữu Lễ. Chúa Nguyễn sợ quá đã bỏ chạy về Bà Rịa. Nguyễn Lữ tiếp tục sau quân đi truy kích, Nguyễn Phúc Thuần phải lẩn trốn vào nhà giáo sĩ người Tây Ban Nha. Vì quân Tây Sơn không muốn phạm tới những người đi theo Công giáo nên Thuần mới thoát được nạn này.

Thoát nạn, Nguyễn Phúc Thuần sai Đỗ Thanh Sơn đi mộ quân cần vương, sau đó sai người đến cầu cứu Mạc Thiên Tứ, Tống Phúc Hiệp, Lý Tài. Nguyễn Lữ nghe tin quan địch từ các trấn kéo về đã ra lệnh rút quân về Quy Nhơn. Trận tập kích Gia Định mặc dù không chiếm hẳn được Nam bộ nhưng đã khiến quân Nguyễn rơi vào thế bị đông, phải lui về nam bộ.

Sau khi chiếm được gia định và giết hai chúa Nguyễn, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế vào năm 1778, lấy niên hiệu là Thái Đức Hoàng đế. Trong sự nghiệp dựng nước của quân Tây Sơn, Nguyễn Lữ mặc dù không nổi tiếng như hai người anh em của mình, nhưng ông cũng đã có nhiều công lao to lớn. Ông từng giữ chức Đông Định Vương trấn giữ Gia Định.


Bạn gái/ vợ/ người yêu Anh hùng chiến tranh Việt Nam Nguyễn Lữ là ai?
Thông tin này hiện đang được cập nhật!

Anh hùng chiến tranh Việt Nam Nguyễn Lữ cao bao nhiêu, nặng bao nhiêu? Chiều cao: đang cập nhậtCân nặng: đang cập nhật

Số đo 3 vòng: đang cập nhật

Anh hùng chiến tranh Việt Nam Nguyễn Lữ sinh năm bao nhiêu, bao nhiêu tuổi? Nguyễn Lữ sinh ngày ?-?-1754 (đã mất).

Anh hùng chiến tranh Việt Nam Nguyễn Lữ sinh ở đâu, con giáp/ cung hoàng đạo gì?


Nguyễn Lữ sinh ra tại Tỉnh Nghệ An, nước Việt Nam. Em sống và làm việc chủ yếu ở Tỉnh Đồng Nai, nước Việt Nam. Em sinh thuộc cung (chưa rõ), cầm tinh con (giáp) chó (Giáp Tuất 1754). Nguyễn Lữ xếp hạng nổi tiếng thứ 65645 trên thế giới và thứ 4 trong danh sách Anh hùng chiến tranh Việt Nam nổi tiếng.

Người nổi tiếng theo ngày sinh:
12345678910111213141516171819202122232425262728293031 / 123456789101112 196219631964196519661967196819691970197119721973197419751976197719781979198019811982198319841985198619871988198919901991199219931994199519961997199819992000200120022003200420052006200720082009201020112012201320142015201620172018

Nguyễn lữ là ai

Ảnh tượng anh hùng chiến tranh Việt Nam Nguyễn Lữ
Nguyễn lữ là ai

Tượng ba anh em họ Nguyễn

Thông tin/ profile đầy đủ và mới nhất của Nguyễn Lữ được nguoinoitieng.tv cập nhật liên tục. Các thông tin về Anh hùng chiến tranh Việt Nam Nguyễn Lữ có thể chưa đủ hoặc chưa chính xác và chỉ mang tính tham khảo, nếu bạn thấy thông tin là chưa chính xác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua email: .