Nhận xét và đánh giá về ngô quyền năm 2024

-Khúc Thừa Dụ kêu gọi nhân dân chiếm thành Tống Bình, tự xưng là Tiết Độ Sứ, xây dựng chính quyền tự chủ.

-906, nhà Đường buộc phong Khúc Thừa Dụ là Tiết Độ Sứ.

-907, Khúc Thừa Dụ mất.

-Khúc Hạo lên thay cha xây dựng đất nước.

Câu 2:

-Chia lại khu vực hành chính.

-Cử người trong coi mọi việc đến tận xã.

-Định lại mức thuế.

-Bãi bỏ các thứ lao dịch thời Bắc thuộc.

-Lập lại sổ hộ khẩu.

-ý nghĩa:

+Người việc tự cai quản, tự quyết định tương lai của mình.

+Chấm dứt trên thực tế ách đô hộ của phong kiến Trung Quốc.

Câu 3:

-Nhà Nam Hán có ý định xâm lượt nước ta từ rất lâu.

-Khúc Thừa Mĩ thuần phục nhà Hậu Lương.

-930:Quân Nam Hán xâm lượt nước ta.

-Khúc Thừa Mĩ chống cự nhưng thất bại, quân Nam Hán chiếm thành Tống Bình.

-931:Dương Đình Nghệ tấn công chiếm thành Tống Bình, đánh tan quân tiếp viện.

-Nhân dân ta giành quyền tự chủ.

-Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết Độ Sứ.

Câu 4:

-937:Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết chết để đoạt chức Tiết Độ Sứ.

-Ngô Quyền kéo quân ra Bắc trị tội Kiều Công Tiễn.

-Kiều Công Tiễn cầu cứu quân Nam Hán.

Câu 5:

-Ngô Quyền nhanh chóng kéo quân vào Đại La(Tống Bình-Hà Nội) giết chết Kiều Công Tiễn chuẩn bị đánh giặc.

-Dự định diệt giặc trên sông Bạch Đằng.

Câu 6:

Diễn biến:

-Cuối 938, thuyền chiến của giặc do Lưu Hoằng Tháo chỉ huy tiến vào nước ta theo cửa biển sông Bạch Đằng.

“Tiền Ngô vương có thể lấy quân mới nhóm hợp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể bảo là một cơn giận mà yên được dân, mưu cũng giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu nhưng mà chính thống của nước Việt ngõ hầu đã nối lại được.”

Trần Quỳnh Mai10 tháng 5 2016 lúc 21:12 Ngô Quyền (còn gọi là Tiền Ngô Vương), là vị vua đầu tiên trong lịch sử nhà Ngô của Việt Nam. Năm 938, ông đã lãnh đạo nhân dân ta đánh quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức chấm dứt hơn một thiên niên kỷ bắc thuộc, mở ra một thời kỳ độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì đất nước từ năm 939 đến năm 944. Sinh năm 898 trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng hào kiệt có trí dũng. Ngô Quyền lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường đang suy yếu và dần tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng của người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành Đại la vào năm 905 và họ Dương vào năm 931. Sau khi trở thành con rể của Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền được tin cậy giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là KIều Công Tiễn, sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành Tỉnh Hải quân Tiết độ sứ. Nhưng vị tân Tiết độ sứ lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán. Thắng lợi của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng năm 938 đã đặt dấu chấm hết cho mọi âm mưu xâm lược của nhà Nam Hán, đồng thời kết thúc thời kỳ bắc thuộc ở nước ta. Năm 939 Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô. Ngô Vương qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Sau cái chết của ông, nhà Ngô suy yếu nhanh chóng, không khống chế được các thế lực cát cứ địa phương và sụp đổ vào năm 965. Ngô Quyền nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu của Việt Nam, là vị "vua đứng đầu các vua", là vị Tổ trung hưng của Việt Nam.

Like (0) Báo cáo sai phạm

trên đất nước ta. Sau chiến thắng này, Ngô Quyền ghi danh vào trang sử hào hùng của dân tộc không chỉ là vị tướng tài năng, mà còn là người đầu tiên "mở nước xưng Vương", đặt nền móng cho độc lập, tự chủ thực sự và lâu dài của dân tộc.

Chấm dứt thời kỳ đô hộ của phong kiến phương Bắc

Thế kỷ X được xem là thế kỷ bản lề cho nền độc lập, tự chủ của dân tộc. Hai cuộc kháng chiến giành thắng lợi của Khúc Thừa Dụ (năm 905) và Dương Đình Nghệ (năm 931) đã bước đầu phá bỏ ách thống trị của chính quyền đô hộ trên đất nước ta. Tuy nhiên, thắng lợi đó nhanh chóng bị dập tắt bởi thù trong, giặc ngoài, sự thiếu quyết đoán trong việc khẳng định quyền tự chủ của dân tộc, cũng như thiếu vắng bộ máy quản lý từ trung ương đến địa phương. Phải đến năm 938, khi Ngô Quyền lãnh đạo toàn thể nhân dân đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng và lên ngôi Vương, đất nước ta mới thoát ách đô hộ của phong kiến phương Bắc.

Ngô Quyền là người làng Cam Lâm (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội), sinh trưởng trong một dòng họ làm hào trưởng có thế lực. Ngô Quyền đã sớm tham gia các cuộc khởi nghĩa với vai trò là vị thuộc tướng dưới thời Dương Đình Nghệ. Sau khi Dương Đình Nghệ bị ám hại bởi Kiều Công Tiễn, nước ta rơi vào tình trạng rối loạn, là cơ sở để nhà Nam Hán nuôi âm mưu xâm lược. Trước tình thế thù trong, giặc ngoài, Ngô Quyền đã tập hợp lực lượng từ Ái Châu tiến ra Giao Châu diệt trừ nội phản, rồi tiếp tục hành quân tới cửa biển Bạch Đằng, đánh đuổi ngoại bang.

Sách Đại Việt sử lược ghi: "Quân Nam Hán lợi dụng sự rối loạn trong nước Đại Việt, đã cử một đội chiến thuyền lớn do Hoằng Tháo dẫn đầu. Vua Nam Hán đích thân cầm một đạo quân khác đóng tại Hải Môn trấn làm hậu thuẫn. Ngô Quyền đã bày thế trận trên cơ sở lợi dụng địa hình tự nhiên ở vùng cửa sông Bạch Đằng, kết hợp với bãi cọc nhân tạo để dồn quân giặc vào tình thế bị động, từ đó tiêu diệt giặc và chặn đứng đường rút chạy của chúng…”.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Khi nước thủy triều lên, Ngô Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ địch đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy liều chết chiến đấu. Quân Hoằng Tháo không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền mắc phải cọc lật úp, tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa. Ngô Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt, giết Hoằng Tháo tại trận".

Đánh giá về ý nghĩa chiến thắng Bạch Đằng trong lịch sử đánh giặc giữ nước và sự nghiệp dựng xây đất nước, mở đầu kỷ nguyên độc lập tự chủ của dân tộc, Ngô Thì Sĩ trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho rằng: "Vua Ngô Quyền giết giặc nội phản để trả thù cho chúa, đuổi quân ngoại xâm để cứu nạn cho nước, xây dựng quốc gia, đem lại chính thống, công nghiệp thực là vĩ đại". Sử gia Lê Văn Hưu cũng nhận xét: "Tiền Ngô vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng Vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy".

Nhà nước quân chủ đầu tiên ở Việt Nam

Ngay sau khi đánh thắng quân Nam Hán, Ngô Quyền đã chọn Cổ Loa làm kinh đô của đất nước. Cổ Loa, nay thuộc Đông Anh (Hà Nội), vốn là kinh đô của nước Âu Lạc thời vua Thục. Đóng đô ở Cổ Loa, Ngô Quyền không chỉ tận dụng những thành quả của quá khứ và giảm thiểu thời gian, công sức đầu tư xây dựng một kinh thành mới, mà còn thể hiện một tinh thần cảnh giác cao độ. Đại La là trung tâm cai trị của triều đình, là nơi có nhiều thương nhân Trung Hoa sinh sống. Do đó, nếu chọn Đại La giống họ Khúc và họ Dương thì khó tránh gặp phải nội ứng của chính quyền phương Bắc.

Hơn nữa, điều quan trọng là Ngô Quyền muốn khẳng định việc trở về với cội nguồn của dân tộc, tỏ rõ ý nguyện tiếp tục sự nghiệp dựng nước và giữ nước thời Văn Lang - Âu Lạc, chính thức cắt hẳn sự ảnh hưởng của triều đình phương Bắc.

Năm 905, Khúc Thừa Dụ đã lật đổ được chính quyền đô hộ nhà Đường, tự xưng là Tiết độ sứ, bắt đầu có ý thức xây dựng cơ sở cho một nước độc lập. Song, Khúc Thừa Dụ cũng như Dương Đình Nghệ sau đó đều chỉ xưng là Tiết độ sứ hay Tĩnh hải quân Tiết độ sứ - một chức quan nắm quyền quản lý ở một châu do chính quyền đô hộ áp đặt, tức là chưa thoát khỏi sự ràng buộc của chính quyền phương Bắc.

Chỉ đến mùa xuân năm 939, sau chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền xưng Vương (tức là vua của một nước), tự khẳng định nước ta là một vương quốc độc lập. Bắt đầu từ đây, bộ máy nhà nước quân chủ độc lập đầu tiên chính thức được hình thành. Triều đình dưới thời Ngô Quyền có bộ máy gồm đầy đủ quan chức văn, võ; có quy định nghi lễ, phẩm phục…

Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Mùa xuân, vua bắt đầu xưng Vương, lập Dương Thị làm Hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục". Sách Việt sử tiêu án cũng chép: "Vương giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương Thị làm Hoàng hậu, đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô ở Cổ Loa thành, làm vua được 6 năm rồi mất".

Về cương vực đất nước, với nhà nước còn non trẻ, Ngô Quyền chỉ thực sự tập trung thế lực ở vùng trung du Bắc Bộ, vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng sông Mã, sông Lam, chủ yếu ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Để quản lý vùng đất này, Ngô Quyền đã thiết lập bộ máy chính quyền ở các địa phương do các tướng lĩnh thân cận giữ. Chẳng hạn, vùng Đông Bắc do Ngô Xương Ngập cai quản; Hải Dương do Phạm Công Lệnh trấn trị; Đinh Công Trứ ở châu Hoan - Nghệ An…

Việc Ngô Quyền xưng Vương, chế định triều nghi, phẩm phục, đặt các chức quan cai trị từ trung ương đến địa phương đã khẳng định nền độc lập chủ quyền của dân tộc, đặt cơ sở cho các nhà nước quân chủ sau này. Mặt khác, thông qua việc chọn Cổ Loa là đất đóng đô, Ngô Quyền đã viết tiếp trang sử hào hùng dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nhà nước do Ngô Quyền sáng lập được xem như một nhà nước quân chủ mở đầu của kỷ nguyên văn minh Đại Việt.