Phân bố trung bình của ung thư ruột kết năm 2024

Ung thư đại trực tràng là bệnh rất phổ biến. Các triệu chứng bao gồm máu trong phân và thay đổi thói quen đại tiện. Nên sàng lọc bằng một trong một số phương pháp cho các quần thể thích hợp. Chẩn đoán bằng nội soi đại tràng. Điều trị gồm phẫu thuật cắt bỏ và hóa trị nếu có di căn hạch.

  • 1. Siegel RL, Miller KD, Jemal A: Cancer statistics, 2020. CA Cancer J Clin 70(1):7–30, 2020. doi: 10.3322/caac.21590

Bệnh nhân trong quần thể có tỷ lệ mắc ung thư đại trực tàng cao ăn chế độ ăn ít chất xơ, nhiều đạm động vật, chất béo và carbohydrate tinh chế. Các chất gây ung thư có thể có trong chế độ ăn uống đã ăn nhưng có nhiều khả năng được tạo ra do tác động của vi khuẩn đối với các chất trong chế độ ăn uống hoặc các chất bài tiết từ mật hoặc từ ruột. Cơ chế chính xác chưa được biết.

Ung thư đại trực tràng lan rộng trực tiếp qua thành ruột, di căn xa theo đường máu, di căn hạch lympho khu vực và lan ra quanh dây thần kinh.

Các triệu chứng và dấu hiệu của ung thư đại trực tràng

Ung thư biểu mô tuyến đại trực tràng thường phát triển chậm và sau một thời gian dài trôi qua mới có biểu hiện triệu chứng khi kích thước u đủ lớn. Các triệu chứng phụ thuộc vào vị trí tổn thương, loại, mức độ và các biến chứng.

Đại tràng phải có đường kính lớn, thành mỏng và chứa dịch lỏng; do đó, triệu chứng tắc ruột thường biểu hiện muộn. Chảy máu thường mơ hồ. Mệt mỏi và suy nhược do thiếu máu nặng có thể chỉ là những phàn nàn duy nhất. Các khối u đôi khi phát triển đủ lớn để có thể sờ thấy qua thành bụng trước khi các triệu chứng khác xuất hiện.

Đại tràng trái có lòng nhỏ hơn, phân ở dạng bán rắn, và ung thư có xu hướng gây tắc nghẽn sớm hơn ở đại tràng phải. Tắc nghẽn bán phần kèm theo đau bụng quặn hoặc tắc hoàn toàn có thể là biểu hiện ban đầu. Phân có thể có vệt máu hoặc lẫn máu. Một số bệnh nhân có các triệu chứng thủng, thường hóa thành (đau khu trú và ấn đau), hoặc hiếm khi bị viêm phúc mạc lan tỏa.

Trong ung thư trực tràng, triệu chứng ban đầu thường gặp nhất là đại tiện ra máu. Bất cứ khi nào có chảy máu trực tràng, ngay cả khi có trĩ rõ hoặc bệnh túi thừa đã biết, ung thư đang cùngtồn tại phải được loại trừ. Có thể có cảm giác buốt mót hoặc cảm giác đại tiện không hết phân. Đau phổ biến khi liên quan đến quanh hậu môn.

Một số bệnh nhân có biểu hiện đầu tiên là các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh di căn (ví dụ: gan to, cổ chướng, sưng hạch thượng đòn).

  • Nội soi đại tràng
  • Nội soi đại tràng
  • Xét nghiệm máu ẩn trong phân
  • Đôi khi nội soi đại tràng sigma ống mềm
  • Đôi khi xét nghiệm ADN trong phân
  • Đôi khi chụp CT đại tràng

Có nhiều lựa chọn cho sàng lọc ung thư đại trực tràng, bao gồm

  • Nội soi đại tràng 10 năm một lần
  • Xét nghiệm máu ẩn trong phân hàng năm (xét nghiệm hóa miễn dịch phân (FIT) được ưu tiên)
  • Nội soi đại tràng sigma ống mềm 5 năm một lần (10 năm một lần nếu kết hợp với FIT)
  • Chụp CT đại tràng 5 năm một lần.
  • Xét nghiệm ADN trong phân kết hợp với FIT 3 năm một lần

Xét nghiệm hóa miễn dịch phân để tìm máu có độ nhạy và độ đặc hiệu với máu người cao hơn xét nghiệm phân dựa trên guaiac cũ, xét nghiệm này bị ảnh hưởng bởi các chất trong chế dộ ăn. Tuy nhiên, xét nghiệm có máu có thể là kết quả của các rối loạn không ác tính (ví dụ: loét, bệnh túi thừa) và xét nghiệm âm tính không loại trừ ung thư vì ung thư không chảy máu liên tục.

Xét nghiệm ADN trong phân phát hiện các đột biến DNA và các chất chỉ điểm methyl hóa từ một khối u ở đại tràng. Xét nghiệm thường được kết hợp với FIT và xét nghiệm kết hợp được chấp thuận để sàng lọc các bệnh nhân có nguy cơ trung bình. Những bệnh nhân có xét nghiệm DNA-FIT trong phân dương tính nên được tái khám nội soi đại tràng trong vòng 6 tháng để làm giảm nguy cơ bỏ sót ung thư đại tràng giai đoạn cuối. Gần 10% số bệnh nhân có kết quả xét nghiệm DNA-FIT trong phân dương tính có kết quả nội soi đại tràng bình thường; những bệnh nhân này có thể làm lại xét nghiệm DNA-FIT trong phân trong 1 năm hoặc nội soi đại tràng lại trong 3 năm. Nếu các xét nghiệm này âm tính, họ có thể quay trở lại lịch trình sàng lọc ung thư đại tràng nguy cơ trung bình.

Nội soi đại tràng bằng viên nang video có nhiều vấn đề về kỹ thuật và hiện tại chưa được chấp thuận là một kiểm tra sàng lọc.

Xét nghiệm máu (ví dụ, xét nghiệm septin 9) đã được chấp thuận để sàng lọc bệnh nhân có nguy cơ trung bình nhưng không được sử dụng rộng rãi vì độ nhạy không phù hợp.

  • Sinh thiết qua nội soi đại tràng
  • CT để đánh giá mức độ phát triển và lan rộng của khối u
  • Xét nghiệm di truyền

Những bệnh nhân có xét nghiệm máu ẩn trong phân dương tính cần nội soi đại tràng, cũng như những bệnh nhân có tổn thương nhìn thấy khi soi đại tràngsigma hoặc nghiên cứu hình ảnh. Tất cả các tổn thương cần được cắt bỏ hoàn toàn để kiểm tra mô học. Nếu tổn thương không cuống hoặc không thể cắt bỏ khi nội soi, phẫu thuật cắt bỏ nên được xem xét kỹ lưỡng.

Chụp X-quang có thụt barít, đặc biệt là chụp đối quang kép, có thể phát hiện nhiều tổn thương nhưng ít chính xác hơn so với nội soi đại tràng và hiện tại kĩ thuật này chưa được chấp thuận để theo dõi bệnh nhân có xét nghiệm máu ẩn trong phân dương tính.

Khi có chẩn đoán ung thư, bệnh nhân cần chụp CT bụng, chụp X-quang ngực và làm các xét nghiệm thường quy khác để xem có bệnh di căn và thiếu máu và để đánh giá tình trạng toàn thân.

Nồng độ kháng nguyên ung thư biểu mô phôi (CEA) trong huyết thanh tăng cao ở 70% số bệnh nhân bị ung thư đại trực tràng, nhưng xét nghiệm này không nhạy và không đặc hiệu và do đó không được khuyến cáo để sàng lọc. Tuy nhiên, nếu nồng độ CEA cao trước phẫu thuật và giảm sau cắt khối u đại tràng, theo dõi nồng độ CEA có thể giúp phát hiện ung thư tái phát sớm hơn. CA 19-9 và CA 125 là các chất chỉ điểm khối u khác có thể được sử dụng tương tự.

Tiên lượng phụ thuộc chủ yếu vào giai đoạn bệnh ( xem Bảng: ). Tỷ lệ sống sót 5 năm đối với ung thư giới hạn ở mức tiếp cận với niêm mạc là 90%; với phần lan rộng qua thành ruột là 70 đến 80%; có hạch dương tính là 30 đến 50%; và với bệnh di căn là < 20%.

Phân giai đoạn ung thư đại trực tràng *

Giai đoạn

Khối u (xâm lấn tối đa)

Di căn hạch vùng

Di căn xa

0

Tis

N0

M0

I

T1 hoặc T2

N0

M0

II

T3

N0

M0

III

Bất kỳ T hoặc

Bất kỳ N

M0

T4

N0

M0

IV

Bất kỳ T

Bất kỳ N

M1

* Phân loại TNM:

  • Tis \=ưng thư mô tại chỗ; T1 \= dưới niêm mạc; T2 \= cơ niêm; T3 \= thâm nhập vào tất cả các lớp (đối với ung thư trực tràng, bao gồm cả mô quanh trực tràng); T4 \= các cơ quan lân cận hoặc phúc mạc.
  • N0 \= không di căn hạch; N1 \= 1–3 hạch vùng; N2 \= ≥ 4 hạch vùng; N3 \= hạch đỉnh hoặc hạch thân có mạch.
  • M0 \= không di căn; M1 \= có di căn.
  • Phẫu thuật cắt bỏ, đôi khi kết hợp với hóa trị, xạ trị hoặc cả hai

Phẫu thuật có thể chữa khỏi hoàn toàn ở 70% số bệnh nhân khi khối u chưa di căn. Cố gắng chữa khỏi bao gồm cắt bỏ rộng khối u và dẫn lưu bạch huyết vùng kèm nối lại các đoạn ruột.

Vì ung thư trực tràng, Phẫu thuật cắt bảo tồn cơ thắt có thể được thực hiện ở những bệnh nhân ung thư trực tràng có bờ xa ≥ 1,0 cm, thay vì chiều dài 5 cm thông thường, mà không có nguy cơ tái phát tại chỗ đáng kể hoặc giảm khả năng sống thêm lâu dài. Thủ thuật bảo tồn cơ thắt đã được thực hiện ở những bệnh nhân bị ung thư trực tràng có bờ xa < 1cm, nhưng những bệnh nhân này có nguy cơ tái phát cục bộ cao hơn và giảm khả năng sống lâu dài. Vấn đề với các thủ thuật bảo tồn cơ thắt thường mang tính chức năng nhiều hơn (ví dụ như rò rỉ phân, đại tiện không tự chủ) hơn là về mặt ung thư (ví dụ, tái phát tại chỗ, giảm thời gian sống thêm). Nếu có tái phát tại chỗ hoặc chức năng ruột kém dung nạp sau thủ thuật bảo tồn cơ thắt, thì thực hiện thủ thuật cắt trực tràng đường bụng-tầng sinh môn (APR) kèm theo phẫu thuật cắt đại tràng vĩnh viễn ( ).

Với di căn gan, việc cắt bỏ một số lượng hạn chế (1 đến 3) di căn gan được khuyến cáo ở một số bệnh nhân không suy nhược được chọn làm thủ thuật tiếp theo. Tiêu chí bao gồm những bệnh nhân có khối u nguyên phát đã được cắt bỏ, có di căn gan ở một thùy gan và không có di căn ngoài gan. Chỉ có một số ít bệnh nhân di căn gan đáp ứng các tiêu chuẩn này, nhưng trong những trường hợp như vậy tỷ lệ sống thêm 5 năm sau phẫu thuật là 25%.

Hóa trị cải thiện thời gian sống thêm ít nhất từ 10 đến 30% ở những bệnh nhân ung thư đại tràng có hạch bạch huyết dương tính. Bệnh nhân ung thư trực tràng có 1 đến 4 hạch bạch huyết dương tính có hiệu quả từ việc kết hợp xạ trị và hóa trị; khi phát hiện\> 4 hạch dương tính, các phương pháp phối hợp ít hiệu quả hơn. Xạ trị và hóa trị trước phẫu thuật để cải thiện tỷ lệ có khả năng cắt bỏ của ung thư trực tràng hoặc giảm tỷ lệ di căn hạch bạch huyết là tiêu chuẩn.

Sàng lọc bổ sung để phát hiện tái phát nên bao gồm bệnh sử, khám thực thể và nồng độ kháng nguyên ung thư biểu mô phôi huyết thanh 3 tháng một lần trong 3 năm và sau đó 6 tháng một lần trong 2 năm. Các nghiên cứu hình ảnh (CT hoặc MRI) thường được khuyến cáo cách nhau 1 năm nhưng không chắc chắn có lợi cho việc theo dõi định kỳ trong trường hợp không có bất thường khi khám hoặc xét nghiệm máu.

Khi phẫu thuật triệt căn không thể thực hiện được hoặc bệnh nhân có nguy cơ phẫu thuật không thể chấp nhận được, phẫu thuật giảm nhẹ hạn chế (ví dụ, để làm giảm tắc nghẽn hoặc cắt một khu vực bị thủng) có thể được chỉ định; thời gian sống thêm trung vị là 7 tháng. Một số khối u gây tắc nghẽn có thể phẫu thuật cắt khối u bằng điện đông hoặc để khai thông bằng stent. Hóa trị liệu có thể làm nhỏ các khối u và kéo dài thời gian sống thêm trong vài tháng.

Các loại thuốc mới được sử dụng đơn độc hoặc phối hợp bao gồm capecitabine (tiền chất 5-fluorouracil), irinotecan và oxaliplatin. Các kháng thể đơn dòng như bevacizumab, cetuximab và panitumumab cũng đang được sử dụng với một số hiệu quả. Không có phác đồ nào có hiệu quả rõ ràng hơn để kéo dài sự sống ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng di căn, mặc dù một số phác đồ đã được chứng minh là có tác dụng trì hoãn sự tiến triển của bệnh. Hóa trị cho bệnh ung thư đại tràng tiến triển nên được kiểm soát bởi một chuyên gia hóa trị liệu có kinh nghiệm, người có khả năng tiếp cận với các loại thuốc nghiên cứu.

Khi ung thư di căn gan được xác định, nhưng không thể phẫu thuật cắt bỏ, điều trị truyền hóa chất động mạch gan bằng floxuridine hoặc hạt vi cầu phóng xạ ngắt quãng tại khoa chẩn đoán hình ảnh hoặc truyền hóa chất liên tục qua bơm tiêm cấy dưới da hoặc đeo ngoài cơ thể có hiệu quả hơn so với hóa chất toàn thân; tuy nhiên, lợi ích của các phương pháp điều trị này vẫn chưa rõ ràng. Khi khối u di căn cả ngoài gan, truyền hóa chất qua động mạch trong gan không hiệu quả hơn so với hóa trị liệu theo đường toàn thân. Đối với một số bệnh nhân được chọn với ≤ 3 tổn thương gan, có thể cân nhắc điều trị bằng bức xạ lập thể hoặc cắt đốt bằng nhiệt sử dụng tần số vô tuyến hoặc phương pháp điều trị vi sóng.

  • 1. Bujko K, Rutkowski A, Chang GJ, et al: Is the 1-cm rule of distal bowel resection margin in rectal cancer based on clinical evidence? A systematic review. Ann Surg Oncol 19(3):801–808, 2012. doi: 10.1245/s10434-011-2035-2
  • 2. Kahi CJ, Boland R, Dominitz JA, et al: Colonoscopy surveillance after colorectal cancer resection: Recommendations of the US multi-society task force on colorectal cancer. Gastroenterology 150:758–768, 2016. doi: 10.1053/j.gastro.2016.01.001
  • Ung thư đại trực tràng (CRC) là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất ở các nước Phương Tây, thường phát sinh từ các polyp tuyến.
  • Tổn thương bên phải thường biểu hiện bằng chảy máu và thiếu máu; tổn thương bên trái thường biểu hiện với các triệu chứng tắc nghẽn (ví dụ, đau bụng quặn).
  • Nên bắt đầu sàng lọc định kỳ ở tuổi 45 đối với những bệnh nhân có nguy cơ trung bình; các phương pháp thông thường là nội soi đại tràng hoặc xét nghiệm tìm máu ẩn trong phân hàng năm và/hoặc nội soi đại tràng sigma ống mềm.
  • Nồng độ kháng nguyên ung thư biểu mô phôi (CEA) huyết thanh thường tăng cao nhưng không đủ đặc hiệu để sàng lọc; tuy nhiên, sau khi điều trị, theo dõi nồng độ CEA có thể giúp phát hiện bệnh tái phát.
  • Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ, đôi khi kết hợp với hóa trị và/hoặc xạ trị; kết quả rất khác nhau tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh.

Sau đây là một số nguồn tài nguyên tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của các tài nguyên này.