Tắc ruột (tiếng Anh là bowel obstruction hoặc intestinal obstruction) là một thuật ngữ y khoa chỉ sự đình trệ của ống tiêu hoá khiến thức ăn bị tắc nghẽn tại đường ruột. Điều này dẫn đến các loại thức ăn, hơi hoặc các chất lỏng khác không thể đi qua ruột non hoặc ruột già. Tắc ruột sơ sinh là hội chứng cấp cứu ngoại khoa phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh do tắc ruột gây nên. Đường ống tiêu hoá của trẻ có thể có một vài dị tật do chưa phát triển đầy đủ những ngày đầu sau khi sinh. Nếu không được điều trị kịp thời, hội chứng tắc ruột sơ sinh sẽ dẫn tới những hậu quả rất nghiêm trọng, bệnh nhi có thể tử vong. Nguyên nhân tắc ruột sơ sinh bao gồm:
Trong số các nguyên nhân kể trên, nguyên nhân chủ yếu trong đa số các trường hợp tắc ruột sơ sinh là lồng ruột. Lồng ruột là trạng thái bệnh lý khi một đoạn ruột chui lồng vào đoạn ruột tiếp theo khiến đường ruột bị bịt nút và thắt nghẹt. Lồng ruột tự phát là nguyên nhân gây tắc ruột thường gặp ở bệnh nhi dưới hai tuổi, đa số là kiểu lồng hồi - đại tràng. Nguyên nhân dẫn đến lồng ruột đến nay vẫn chưa được biết rõ. Tuy nhiên, có một số giả thuyết cho rằng lồng ruột xảy ra là do kích thước ruột có sự mất cân đối, do quá sản tế bào lympho, do polip đại tràng, hoặc do viêm đường hô hấp trên hay bệnh viêm đường ruột do virus (adenovirus, enterovirus, cytomegalovirus, rotavirus). Do nguyên nhân chính dẫn tới tắc ruột sơ sinh là do lồng ruột nên các triệu chứng nổi bật thường gặp ở tắc ruột sơ sinh thường liên quan mật thiết tới bệnh này, bao gồm: Triệu chứng cơ năng:
Cần lưu ý là đại tiện ra máu cũng xảy ra ở nhiều trường hợp khác và thường dễ lầm tưởng bệnh nhi bị bệnh lỵ nên nếu tự ý cho uống thuốc chữa lỵ sẽ làm bệnh không những không khỏi mà còn nặng hơn. Do đó nên đến các cơ sở y tế để có sự tư vấn từ bác sĩ, tránh các trường hợp đáng tiếc có thể xảy ra. Triệu chứng thực thể:
Không phải tất cả các triệu chứng trên đều xuất hiện ở bệnh nhi tắc ruột sơ sinh.Một số trẻ có dấu hiệu đau không rõ ràng hoặc không tiêu phân máu. Nếu phát hiện trễ sau 24-48 giờ thì trẻ thường rất yếu và bệnh rất dễ nhầm với viêm màng não. Vì vậy các chuyên gia khuyến cáo nên đưa trẻ đến các cơ sở y tế để kiểm tra khi có dấu hiệu nghi ngờ tắc ruột sơ sinh.
Tắc ruột sơ sinh có thể được hạn chế bằng một số cách sau: Trước khi sinh:
Sau khi sinh:
Việc chẩn đoán tắc ruột sơ sinh dựa trên các yếu tố lâm sàng đôi khi gặp khó khăn vì không phải bệnh nhi nào cũng có đầy đủ các triệu chứng kể trên. Do đó, các bác sĩ thường sử dụng các phương pháp sau để hỗ trợ chẩn đoán tắc ruột sơ sinh: Chụp X-quang
Siêu âmPhương pháp này được xem là tin cậy và rất chính xác trong việc chẩn đoán lồng ruột (độ nhạy 98-100%). Siêu âm ưu thế hơn chụp X-quang vì ít xâm hại hơn. Chụp cắt lớp vi tính (CT)Là phương pháp chẩn đoán hình ảnh thường được sử dụng cho người lớn, tuy nhiên vẫn có thể áp dụng cho trẻ nhỏ. Cắt lớp vi tính có thể giúp xác định nguyên nhân và hình thái của lồng ruột. Trên đó có thể thấy hình ảnh của tắc ruột non với các quai ruột phía trên chỗ lồng bị dãn có mực nước-hơi, các quai ruột phía dưới chỗ lồng thì xẹp. Điều trị tắc ruột sơ sinh thường được coi là một tình trạng cấp cứu y tế. Để tránh tình trạng mất nước nghiêm trọng cũng như ngăn ngừa lây nhiễm có thể xảy ra khi một phần của ruột đã bị hoại tử do thiếu máu thì việc chăm sóc y tế khẩn cấp là cần thiết. Khi trẻ được đưa đến cơ sở y tế, các bác sĩ sẽ xử trí tắc ruột sơ sinh bằng cách:
Sau đó, tuỳ thuộc vào tình trạng bệnh, các bác sĩ có thể dùng một trong các phương pháp sau để điều trị tắc ruột sơ sinh: Tháo lồng không phẫu thuật: Tháo lồng sẽ được chỉ định trên các trường hợp không có biến chứng. Các chống chỉ định là tắc ruột nặng trên phim X-quang, viêm phúc mạc, bệnh nhi quá yếu hoặc trong tình trạng sốc. Đây là phương pháp an toàn và hiệu quả với tỉ lệ thành công khoảng 50-90%. Các phương pháp tháo lồng có thể được sử dụng là: |