Kính gửi: Ủy ban Kinh tế Quốc hội Trả lời Công văn số 845/UBKT15 của Ủy ban Kinh tế Quốc hội đề nghị góp ý Dự thảo Luật Kinh doanh bảo hiểm (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trên cơ sở góp ý của doanh nghiệp, có một số ý kiến như sau:
Khoản 5 Điều 4 Dự thảo giải thích từ ngữ về “hoạt động đại lý bảo hiểm” theo hướng liệt kê các hoạt động của đại lý. Việc quy định theo hướng liệt kê có thể khiến cho quy định không bao quát được các trường hợp trên thực tế. Ví dụ: đại lý bảo hiểm còn có thể thực hiện các hoạt động như: bàn giao hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng, thống kê, nhập liệu thông tin đơn bảo hiểm, cung cấp nền tảng công nghệ thông tin để khách hàng đăng ký tham gia bảo hiểm/nộp phí bảo hiểm/yêu cầu trả tiền bảo hiểm, hỗ trợ doanh nghiệp bảo hiểm trong việc xác minh việc xảy ra sự kiện bảo hiểm, giải thích hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp khách hàng có thắc mắc về điều kiện điều khoản trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm, … Đây là những công việc chưa được liệt kê trong quy định tại khoản 5 Điều 4. Để đảm bảo quy định phù hợp với thực tế, đề nghị bổ sung quy định dạng quét tại khoản 5 Điều 4 như sau: “Hoạt động đại lý bảo hiểm là một hoặc một số hoạt động bao gồm tư vấn, giới thiệu, chào bán sản phẩm bảo hiểm, thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm, thu phí bảo hiểm, thu thập hồ sơ để phục vụ việc giải quyết bồi thường, trả tiền bảo hiểm và các công việc khác nhằm thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo ủy quyền của doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài”.
Theo quy định tai khoản 2 Điều 19 Dự thảo phải “có bằng chứng xác nhận việc bên mua bảo hiểm đã được doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoái giải thích đầy đủ và hiểu rõ” các nội dung về loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. Đây là nội dung nhận được nhiều ý kiến của doanh nghiệp nhất. Việc yêu cầu phải có bằng chứng xác nhận bên mua đã được giải thích và hiểu rõ các nội dung về loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, mục đích là bảo về quyền lợi của người mua, tuy nhiên quy định này có thể tạo ra sự bất bình đẳng giữa các bên và thủ tục phiền hà khi giao kết hợp đồng. Liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người mua bảo hiểm, Dự thảo đã có nhiều quy định như:
Đề nghị cân nhắc bỏ quy định phải có bằng chứng xác nhận này.
Điểm a khoản 2 Điều 74 Dự thảo quy định khi thay đổi điều lệ của doanh nghiệp, quy chế hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, chi nhánh doanh nghiệp tái bảo hiểm, doanh nghiệp phải thông báo cho Bộ Tài chính. Việc yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo khi thay đổi Điều lệ sẽ chỉ làm gia tăng gánh nặng về thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp, đi ngược lại với định hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính của Việt Nam và cũng không thống nhất với quy định của Luật Doanh nghiệp. Điều lệ của doanh nghiệp là văn bản ghi nhận các nguyên tắc tạo lập, hoạt động và giải thể của một doanh nghiệp, trong đó có nhiều quy định mang tính chất quản lý nội bộ của doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp hiện hành cho phép các doanh nghiệp được tự chủ trong việc sửa đổi Điều lệ mà không cần phải đăng ký/thông báo, trừ trường hợp thay đổi chủ sở hữu. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, các thay đổi quan trọng đã phải thực hiện các thủ tục xin phê duyệt từ Bộ Tài chính, do đó, việc yêu cầu thông báo trước khi thay đổi Điều lệ là không thực sự cần thiết. Do đó, đề nghị bỏ quy định này.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 84 doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần phải thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ. Đây là quy định nhận được phần lớn ý kiến góp ý của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cho rằng việc yêu cầu doanh nghiệp phải thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ là chưa hợp lý, bởi các lý do sau:
Trong Báo cáo Giải trình Mục 2.3 trang 31 giải thích cho yêu cầu bắt buộc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp, cơ quan soạn thảo giải thích Kiểm toán nội bộ là lớp phòng vệ thứ 3 trong mô hình quản trị rủi ro với 3 lớp phòng vệ theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, như được đề cập trong Báo cáo Giải trình (khi giải thích về kinh nghiệm quốc tế), điều cốt lõi của mô hình 3 tuyến phòng vệ là việc kiểm toán nội bộ được thực hành theo những chuẩn mực tốt nhất. Ví dụ: tính độc lập cao nhất đối với người hoặc tập thể thực hiện kiểm toán nội bộ với ban điều hành, quản lý của công ty. Tính độc lập này có thể đạt được bằng nhiều cách tiếp cận, không nhất thiết phải thông qua việc thành lập một bộ phận kiểm toán nội bộ. Ngay cả việc một công ty bảo hiểm được kiểm toán nội bộ bởi các chuyên gia đến từ các công ty khác trong cùng tập đoàn hoặc các công ty cung cấp dịch vụ kiểm toán nội bộ chuyên nghiệp cũng là cách thức để đạt được sự độc lập. Từ những phân tích trên, đề nghị cân nhắc bỏ quy định tại khoản 1 Điều 84 đồng thời cho phép thuê ngoài kiểm toán nội bộ tại Điều 88 Dự thảo.
Điểm a khoản 2 Điều 85 Dự thảo quy định về yêu cầu của hệ thống quản trị rủi ro của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, chi nhánh doanh nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài đó là “có khả năng xác định và lượng hóa rủi ro phù hợp với tính chất, phạm vi và mức độ phức tạp của rủi ro phát sinh từ hoạt động kinh doanh, các tác động đến vốn, an toàn hoạt động và an toàn tài chính”. Doanh nghiệp cho rằng, giới hạn rủi ro có thể xác định theo phương pháp định lượng hoặc định tính (cao, trung bình, thấp), tùy thuộc vào từng loại rủi ro và khả năng thu thập dữ liệu để đánh giá cho từng loại rủi ro. Một số loại rủi ro như rủi ro tuân thủ, rủi ro danh tiếng, rủi ro hoạt động rất khó có thể lượng hóa được các ảnh hưởng, tác động của rủi ro đến vốn, kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như rủi ro tín dụng hay rủi ro thị trường. Vì vậy, đề nghị sửa đổi quy định trên theo hướng: “Có khả năng xác định và đánh giá mức độ rủi ro phù hợp với tính chất, phạm vi và mức độ phức tạp của các rủi ro phát sinh từ hoạt động kinh doanh, các tác động đến vốn, an toàn hoạt động và an toàn tài chính và các tác động khác tới hoạt động kinh doanh;”
Quản lý chặt chẽ hoạt động thuê ngoài là cần thiết, nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, một số quy định tại Dự thảo dường như đang được thiết kế chặt chẽ quá mức cần thiết, can thiệp khá sâu vào quyền tự chủ của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, cụ thể:
Điểm a khoản 2 Điều 88 Dự thảo quy định quy chế quản lý hoạt động thuê ngoài phải được “Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm … phê duyệt”. Việc quy định cụ thể Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên phê duyệt quy chế này là không cần thiết và dường như can thiệp vào quy trình nội bộ của doanh nghiệp. Với mục tiêu quản lý nhà nước, yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm có quy chế quản lý hoạt động thuê ngoài và quy chế này phải tuân thủ các nguyên tắc quản lý rủi ro là phù hợp, còn cấp có thẩm quyền nào của doanh nghiệp phê duyệt quy chế này Nhà nước không cần can thiệp. Đề nghị bỏ cụm từ “Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm” trong quy định tại điểm a khoản 2 Điều 88 Dự thảo.
Điểm đ khoản 2 Điều 88 Dự thảo quy định “bên nhận thuê ngoài phải đảm bảo tự thực hiện tối thiểu 75% giá trị công việc nhận thuê ngoài …”. Quy định này được hiểu nhằm kiểm soát chất lượng và việc cung cấp dịch vụ của bên nhận thuê ngoài, tuy nhiên việc Dự thảo quy định cứng tỷ lệ % tối thiểu bên nhận thuê ngoài phải tự thực hiện dường như đang can thiệp vào quyền tự do thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 88 Dự thảo “doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh doanh ng hiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, chi nhánh doanh nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài vẫn phải chịu trách nhiệm cuối cùng và duy nhất đối với bên mua bảo hiểm” đối với trường hợp thực hiện thuê ngoài. Với quy định này thì việc kiểm soát chất lượng và thực hiện dịch vụ của bên nhận thuê ngoài, tự bản thân doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm sẽ phải ý thức và kiểm soát để đảm bảo chất lượng của quy trình, hoạt động thuê ngoài. Đề nghị bỏ quy định trên.
Khoản 2 Điều 99 Dự thảo quy định khi nhận yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, Tòa sán sẽ “mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và áp dụng ngay thủ tục thanh lý ài sản của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm mà không tổ chức hội nghị chủ nợ và thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh”. Theo quy định tại khoản 5 Điều 99 Dự thảo thì những nội dung về phá sản không quy định tại Điều 99 sẽ áp dụng theo quy định của Luật Phá sản, trừ quy định về hội nghị chủ nợ và thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, quy định tại Điều 99 Dự thảo và Luật Phá sản 2014 lại rất khó để áp dụng cùng nhau. Cụ thể: Theo quy định của Luật Phá sản 2014, Tòa án phải tuyên bố doanh nghiệp phá sản rồi mới tiến hành thanh lý tài sản. Trong khi đó, Điều 99 Dự thảo lại quy định Tòa sẽ tiến hành thanh lý tài sản ngay sau khi mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Tức là, thời điểm này doanh nghiệp bảo hiểm chưa bị tuyên bố phá sản. Như vậy, quy định tại Dự thảo sẽ không rõ thời điểm nào doanh nghiệp bảo hiểm sẽ “bị tuyên bố là phá sản” hay là doanh nghiệp bảo hiểm không cần bị tuyên bố phá sản? Trong Báo cáo giải trình, cơ quan soạn thảo đang sửa đổi quy định theo hướng “tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, tuyên bố doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm phá sản và áp dụng ngay thủ tục thanh lý tài sản”. Hướng sửa đổi này là hợp lý, tuy nhiên Dự thảo vẫn chưa thể hiện được định hướng này, đề nghị xem xét lại quy định tại Điều 99 Dự thảo.
Điểm a khoản 2 Điều 102 Dự thảo quy định doanh nghiệp phải công khai thường xuyên “quy tắc, điều khoản, biểu phí của từng sản phẩm bảo hiểm đang cung cấp”. Quy định này cần được cân nhắc lại ở một số điểm sau:
Từ những phân tích trên, đề nghị cân nhắc bỏ quy định tại điểm a khoản 2 Điều 102 Dự thảo. Khoản 3 Điều 102 Dự thảo quy định doanh nghiệp phải công khai thường xuyên “thông tin về an toàn vốn: các mục tiêu, chính sách đánh giá mức độ đủ vốn; vốn thực có và tỷ lệ an toàn vốn”. Một số doanh nghiệp cho rằng, không rõ mục tiêu khi yêu cầu cung cấp các thông tin này. Mặt khác, quy định này không rõ về thời điểm doanh nghiệp phải công bố các thông tin này, vì thông tin về vốn thực có và tỷ lệ an toàn vốn sẽ thay đổi theo kỳ đánh giá. Doanh nghiệp cho rằng không nên yêu cầu doanh nghiệp phải công bố các thông tin về vốn, bởi vì cơ quan quản lý đã có thông tin này thông qua các báo cáo của doanh nghiệp và nếu phải áp dụng các biện pháp khắc phục, doanh nghiệp đã phải công bố thông tin theo quy định về công bố thông tin bất thường. Do vậy, đề nghị bỏ quy định tại khoản 3 Điều 102 Dự thảo.
Điểm b khoản 2 Điều 123 Dự thảo quy định, tổ chức hoạt động đại lý bảo hiểm phải đáp ứng điều kiện ”đã đăng ký ngành, nghề kinh doanh hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Đối với các tổ chức hoạt động trong ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì giấy phép, giấy chứng nhận hoặc văn bản xác nhận, chấp thuận khác (nếu có) của cơ quan có thẩm quyền có nội dung hoạt động đại lý bảo hiểm”. Đề nghị xem xét lại quy định này ở các điểm:
Từ những phân tích trên, đề nghị bỏ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 123 Dự thảo. Điểm d khoản 2 Điều 123 Dự thảo quy định điều kiện của đại lý bảo hiểm sẽ phải đáp ứng ”các điều kiện về nhân sự, ký quỹ và các điều kiện khác theo quy định Chính phủ”. Đề nghị cân nhắc lại quy định này khi trao quyền cho Chính phủ quy định thêm về điều kiện của đại lý bảo hiểm. Điều này sẽ khiến cho doanh nghiệp không nhận biết được các điều kiện mình phải đáp ứng tại thời điểm Luật ban hành và cũng làm suy giảm hiệu lực của Luật khi trao quyền cho Chính phủ quy định thêm về điều kiện kinh doanh. Đề nghị cân nhắc quy định tất cả các điều kiện kinh doanh của hoạt động đại lý bảo hiểm tại Luật, trao quyền cho Chính phủ quy định chi tiết. Trên đây là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Luật Kinh doanh bảo hiểm. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện. Ngoài ra VCCI gửi kèm theo đây các ý kiến góp ý của doanh nghiệp, rất mong Quý Cơ quan cân nhắc, xem xét để hoàn thiện Dự thảo. Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan. |