Quá trình Việt Nam chiếm hữu và thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa diễn ra như thế nào

Việt Nam có hơn 3000 hòn đảo ven bờ và hai quần đảo ngoài khơi là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (1). Luật Biển Việt Nam được kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 đã xác định rõ “Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa…thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam”. Tuy nhiên, việc tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên biển Đông đã, đang và sẽ diễn ra gay gắt; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn…Trong số các chủ thể tranh chấp ở biển Đông, Trung Quốc là quốc gia có tham vọng lớn nhất. Tham vọng đó đã được các nhà lãnh đạo các thế hệ khác nhau từ Mao Trạch Đông đến nay, bằng những biện pháp và phương thức khác nhau thực hiện. Từ hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật, thành lập các đơn vị hành chính đến khẳng định trên thực địa, nhằm từng bước kiểm soát, khống chế tiến đến độc chiếm biển Đông, lấy biển Đông làm bàn đạp tiến ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương…Tình hình này đặt ra cho Việt Nam: một mặt, cần khai thác các chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; nhưng mặt khác, cũng cần phải đấu tranh phản bác lại những quan điểm sai trái của phía Trung Quốc, kể cả quan điểm chính thức và quan điểm của học giả (2). Theo ý nghĩa đó, bài viết này sẽ tập trung phân tích những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

1. Chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

1.1. Các sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi cát vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa (cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam

- “Toản Tập Thiên Nam tứ chí Lộ Đồ Thư”, tập bản đồ Việt Nam do Đỗ Bá, tên chữ là Công Đạo, soạn vẽ vào thế kỷ thứ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: “Giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, độ dài 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển, từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh (3) mỗi lần có gió Tây Nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy,…có gió Đông Bắc thì thương thuyền đi ở phía ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói cả, hàng hóa thì đều ở lại nơi đó” (4).

- Trong “Giáp Ngọ Bình Nam đồ”, bản đồ xứ Đàng Trong do Đoàn quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Bãi Cát vàng cũng được vẽ là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam (5).

- “Phủ biên tạp lục” sách của nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776, viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều đình bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi “xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi, ở ngoài cửa biển có núi gọi là Cù Lao Ré, rộng hơn 30 dặm (đơn vị đo lường thời xưa, tương đương 0,5km), có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh thì đến, phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa. Trước kia có nhiều hải vật và hóa vật của tầu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải”, “Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã Vĩnh An, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày, hoặc vài canh thì đến. Trên núi có suối nước ngọt, trong đảo có bãi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng, rộng lớn, nước trong suốt đáy…các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ ba tháng nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy…Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của Tầu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cùng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của cải ít khi lấy được” (6).

Trong số tư liệu còn tìm thấy ngày nay, có thể kể tờ sai sau đây đề năm 1786 của quan Thượng tướng công: “Sai cai Hội Đức Hầu đội Hoàng Sa dẫn 4 chiếc thuyền câu vượt biển thẳng đến Hoàng Sa và các cù lao trên biển thu lượm đồ vàng, bạc, đồ đồng và đại bác, tiểu bác (chỉ loại pháo cỡ nhỏ), đồi mồi, hải ba cùng cá quý mang về kinh đô dâng nộp theo lệ” (7).

- “Đại Nam nhất thống toàn đồ”, bản đồ nước Việt Nam thời Nguyễn vẽ vào khoảng năm 1838, ghi “Hoàng Sa - Vạn lý Trường Sa” thuộc lãnh thổ Việt Nam, phía ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam thuộc lãnh thổ Việt Nam(8).

- “Đại Nam nhất thống chí”, bộ sách địa lý Việt Nam do Quốc sử quán nhà Nguyễn (1802-1845) soạn xong năm 1882 (phần viết về các tỉnh Trung Bộ được soạn lại và khắc in năm 1909) đã ghi Hoàng Sa là bộ phận lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Đoạn nói về hình thể tỉnh Quảng Ngãi, cuốn sách viết: “Phía Đông tỉnh Quảng Ngãi, có đảo cát (tức đảo Hoàng Sa) liền cát với biển làm hào, phía Tây Nam miền Sơn man có lũy dài vững vàng, phía Nam liền với tỉnh Bình Định, có đèo Bến Đá chắn ngang, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, có ghềnh Sa Thổ làm giới hạn…(9).

“…Đầu đời vua Gia Long phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ; đầu đời Minh Mệnh, thường sai người đi thuyền công đến đấy thăm dò đường biển, thấy một nơi có cồn cát trắng chu vi 1.070 trượng, cây cối xanh tốt, giữa cồn cát có giếng, phía Tây Nam có ngôi miếu cổ, không rõ dựng từ thời nào, có bia khắc 4 chữ “Vạn lý Ba Bình” (Muôn dặm sóng yên). Cồn cát này xưa gọi là Phật Tự Sơn, phía Đông và Tây đều có đá san hô nổi lên một cồn chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 2 thước ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than Thạch. Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền công chở gạch đá đến xây dựng đền, bia đá ở phía trái đền, để ghi dấu và tra hạt các thứ cây ở 3 mặt phải, trái, sau…Nhiều nhà hàng hải, giáo sĩ phương Tây trong những thế kỷ trước đều xác nhận Hoàng Sa (Pracel hay Paracel) thuộc lãnh thổ của Việt Nam. Một giáo sĩ phương Tây đi trên tàu Amphitrite từ Pháp sang Trung Quốc năm 1701 viết một lá thư rằng “Paracel là một quần đảo thuộc vương quốc An Nam” (10).

- Giám mục J.L.Taberd, trong bài “Ghi chép về địa lý nước Cochimchine xuất bản năm 1837, cũng mô tả “Pracel hay Pracels” là phần lãnh thổ nước Cochinchine và nói rõ người Cochinchine gọi Pracel hay Paracels là “cát vàng” (11). Trong An Nam đại quốc họa đồ, xuất bản năm 1838, ông đã vẽ một phần của Paracel và ghi “Paracel hay Cát Vàng” (Paracel seu Cát Vàng) ở ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam, vào khu vực quần đảo Hoàng Sa hiện nay (12).

- J.B.Chaigneu, cố vấn của vua Gia Long, năm 1820 đã viết trong phần chú bổ sung vào cuốn “Hồi ký về nước Cochinchine” (Danh từ Cochinchine (tiếng Pháp) hoặc Cochinchina (tiếng Anh) trong tài liệu phương Tây trích dẫn ở đây có 2 nghĩa tùy theo văn cảnh: a) nước Việt Nam thời bấy giờ, sách này dịch là nước Cochinchine; b) xứ Đàng Trong thời bấy giờ, sách này dịch là xứ Cochinchine): “Nước Cochinchine mà nhà vua bấy giờ đã lên ngôi Hoàng Đế gồm xứ Cochinchine và xứ Đông Kinh (tức Đàng Ngoài - Letonkin)…một vài đảo có dân cư không xa bờ biển và quần đảo Paracel do những đảo nhỏ, gềnh và đá không có dân cư hợp thành”(13).

- Trong “bài địa lý vương quốc Cochinchina” (“Bài địa lý vương quốc Cochinchina” Đàng Trong “Tạp chí Hội địa lý Hoàng gia London” (The jounal of the Royal Geography Society of London) tập XIX, 1849, trang 93) của Gutzlaff, xuất bản năm 1849 có đoạn nói rõ Paracel thuộc lãnh thổ Việt Nam và chú thích cả tên Việt Nam là “Cát Vàng” (14).

Tóm lại, các sách địa lý, bản đồ cổ của Việt Nam và nước ngoài đều ghi rất rõ ràng Bãi cát vàng, Hoàng Sa, vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa, Vạn lý Trường sa, Pracel hay Paracels là lãnh thổ thuộc chủ quyền của Việt Nam.

1.2. Với tư cách là người làm chủ, trong nhiều thế kỷ nhà nước phong kiến Việt Nam đã nhiều lần tiến hành điều tra khảo sát địa hình và khai thác tài nguyên trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các sách địa lý và lịch sử của Việt Nam từ thế kỷ XVII đã ghi lại kết quả các cuộc khảo sát đó (15)

- Trong “Toản tập thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” (thế kỷ XVII) có viết: “Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến (Bãi Cát Vàng) để lấy hóa vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn”.

- “Đại Nam thực lục tiền biên”, bộ sử về chúa Nguyễn do Quốc sử quán nhà Nguyễn soạn xong năm 1844, có đoạn viết: “Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi, ở ngoài biển, có hơn 130 bãi cát, cách nhau hoặc một ngày đường, hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa. Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, v.v…”, “Hồi đầu dựng nước, đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, độ 3 ngày đêm thì đến, thu lượm hóa vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải mộ dân ở phường Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn thu lượm hóa vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản”.

- Theo “Đại Nam thực lục chính biên”, bộ sử do Quốc sử quán triều đình nhà Nguyễn biên soạn, viết về các đời vua nhà Nguyễn, phần viết về các đời vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị được soạn xong năm 1848, ghi sự kiện Gia Long chiếm hữu các đảo Hoàng Sa năm 1816, sự kiện Minh Mạng cho xây miếu, dựng bia trồng cây, đo đạc, vẽ bản đồ các đảo này”.

Quyển 52 ghi: “Năm Bính Tý, niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816)…Vua phái thủy quân và đội Hoàng Sa cưỡi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường thủy”.

Quyển 154 ghi: “Tháng 6 mùa Hạ năm Ất Mùi, Minh Mệnh thứ 16 (1835)... dựng đền thờ thần (ở đảo) Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi, Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng nước ngọt, phía Tây Nam có miếu cổ, có tấm bài khắc bốn chữ “Vạn LÝ Ba Bình” (có nghĩa là Muôn dặm sóng yên). Cồn Bạch Sa chu vi 1.070 trượng, tên cũ là Phật tự sơn (Núi chùa Phật), bờ đông, tây, nam đều là đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía Bắc giáp với cồn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cốt cát, gọi là Bàn than thạch

Quyển 165 ghi: “Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mệnh thứ 17 (1836) mùa xuân, tháng Giêng, ngày mồng 1. Bộ công tâu: cương giới mặt biển nước ta có sư Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thể nó xa rộng, mới chỉ được một nơi, cũng chưa rõ ràng. Hàng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng Giêng, xin phái thủy quân và Vệ Giám Thành đáp một chiếc thuyenf ô, nhằm thượng tuần tháng hai, đi dến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa, không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào; Khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi, và nước biển xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thể hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tận đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào đường đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy, trông vào bờ biển, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình”.

“Vua y lời tâu, phái suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi, chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (Mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ: “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”.

- Cũng trong sách “Đại Nam thực lục chính biên” có ghi: năm 1847, Bồ Công đề trình lên vua Thiệu Trị tờ tâu, trong đó có viết: “xứ Hoàng Sa thuộc vùng biển nước ta. Theo lệ hàng năm có phái binh thuyền ra xem xét thông thuộc đường biển. Năm nay bận nhiều công việc xin hoãn đến năm sau. Vua Thiệu Trị đã phê “Đình” (dừng).

- Trong sách “Đại Nam Nhất thống trí (1882) có ghi: “Đảo Hoàng Sa: ở phía Đông Cù Lao Ré, huyện Bình Sơn. Từ bờ biển Sa Kỳ ra khơi thuận gió, ba bốn ngày đêm có thể đến. Ở đó có hơn 130 đảo nhỏ, cách nhau một ngày đường hoặc vài trống canh. Trong đảo có bãi cát vàng, liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Trường Sa. Trên bãi có giếng nước ngọt, chim biển tụ tập không biết cơ man nào. Sản xuất nhiều hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích… hóa vật của các tầu thuyền bị nạn trôi dạt ở đây”.

Các sách thời Nguyễn như “Lịch triều hiến chương loại chí” (1821), “Hoàng Việt dư địa chí” (1833), Việt Sử Cương Giám Khảo Lược” (1876) cũng mô tả Hoàng Sa tương tự.

Do đặc điểm của Hoàng Sa và Trường Sa có nhiều hải sản quý, lại có nhiều hóa vật của tầu bị đắm như trên đã nói, Nhà nước phong kiến Việt Nam từ lâu đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo này với tư cách một quốc gia làm chủ. Nhiều sách lịch sử và địa lý cổ của Việt Nam đã nói rõ tổ chức, phương thức hoạt động của các đội Hoàng Sa có nhiệm vụ khai thác đó. Kế tiếp các chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn phải liên tiếp đối phó với sự xâm lược của nhà Thanh và của Xiêm, tuy vậy vẫn luôn luôn quan tâm đến việc duy trì và sử dụng các đội Hoàng Sa. Nghĩa là nhà Tây Sơn, nhà nước vẫn tiếp tục tổ chức việc khai thác Hoàng Sa với ý thức thực hiện chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa. Từ khi nắm chính quyền từ năm 1802, đến khi ký kết với Pháp Hiệp ước 1884, các vua nhà Nguyễn ra sức củng cố chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội Hoàng Sa, sau được tăng cường thêm đội Bắc Hải, được duy trì và hoạt động liên tục từ thời các chúa Nguyễn (1558 - 1783) đến nhà Tây Sơn (1786 - 1802) và nhà Nguyễn (1802 - 1945).

Tóm lại, qua các sách lịch sử, địa lý cổ của Việt Nam, cũng như chứng cứ của nhiều nhà hàng hải, giáo sĩ phương Tây nói trên đã viết, đã khẳng định rằng: từ lâu, liên tục trong hàng mấy trăm năm, từ triều đại này đến triều đại khác, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự có mặt của các đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải do Nhà nước thành lập trên hai quần đảo đó, mỗi năm từ 5 đến 6 tháng để hoàn thành một nhiệm vụ do Nhà nước giao, tự nó đã là một bằng chứng hùng hồn, đanh thép về việc Nhà nước Việt Nam thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo đó. Việc chiếm hữu và khai thác đó của Việt Nam không bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào khác, điều đó càng chứng tỏ từ lâu quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã là lãnh thổ Việt Nam (16).

2. Cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Việt Nam

2.1. Thời thuộc Pháp

Từ khi ký với Triều đình nhà Nguyễn, Hiệp ước 06-6-1884, Pháp đại diện quyền lợi của Việt Nam trong quan hệ đối ngoại và việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Liên quan đến biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc, Pháp đã ký với nhà Thanh bản Hiệp ước năm 1887. Đến năm 1895, Pháp lại ký tiếp với nhà Thanh bản Hiệp ước bổ sung. Trong khuôn khổ sự cam kết chung đó, Pháp tiếp tục thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đây là một vài bằng chứng:

- Các pháo hạm của Pháp thường xuyên tiến hành tuần tiễn trong vùng biển Đông, kể cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1899, toàn quyền Đông Dương là Paul Doumer đề nghị với Paris xây tại đảo Hoàng Sa thuộc quần đảo Hoàng Sa một cây đèn biển để hướng dẫn các tàu biển qua lại vùng này, nhưng kế hoạch đó không thực hiện được vì thiếu ngân sách. Năm 1920 các tàu hải quan Đông Dương tăng cường tuần tiễn ở vùng Hoàng Sa để ngăn chặn buôn lậu

- Năm 1925, Viện Hải Dương học Nha Trang cử tàu De Lanessan ra khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa về hải dương học…

- Cũng năm 1925, ngày 3-3, Thượng thư Bộ Binh của triều đình Huế Thân Trọng Huề lại khẳng định Hoàng Sa là lãnh thổ Việt Nam.

- Năm 1927, tàu De Lanessan ra khảo sát khoa học quần đảo Trường Sa.

- Năm 1929, phái đoàn Perrier - De Rouville đề nghị đặt 4 cây đèn biển ở 4 góc của quần đảo Hoàng Sa (Đảo Tri Tôn, đảo Đá Bắc, đảo Linh Côn, bãi Bom Bay).

- Năm 1930, tàu thông báo La Malicieuse tới quần đảo Hoàng Sa.

- Tháng 3-1931, tàu Inconstantra ra quần đảo Hoàng Sa.

- Tháng 6-1931, tàu De Lanessan ra quần đảo Hoàng Sa.

- Tháng 5-1932, pháo hạm Alerte ra quần đảo Hoàng Sa.

- Từ ngày 13-4-1930 đến ngày 12-4-1933, chính phủ Pháp đã cử các đơn vị hải quân lần lượt ra đóng ở các đảo chính trong quần đảo Trường Sa: Trường Sa (spratley), An Bang (Caye d’ Amboine), Itu Aba, nhóm Song Tử (Groupe de deux iles) (Tức đảo Song Tử Tây và đảo Song Tử Đông), đảo Loại Ta và Thị Tứ.

- Ngày 21-12-1933, Thống đốc Nam Kỳ M j.Krautheimer ký Nghị định sáp nhập các đảo Trường Sa, An Bang, HuAba, nhóm Song Tử, Loại Ta và Thị Tứ vào địa phận tỉnh Bà Rịa (nay thuộc tỉnh Đồng Nai).

- Năm 1937, nhà đương cục Pháp cử kỹ sư công chính Gauthier ra quần đảo Hoàng Sa nghiên cứu chỗ xây dựng đèn biển, lập bãi Thủy Phi cơ.

- Tháng 2-1937, tuần dương hạm Lamotte Piquet do Phó Đô Đốc IStava chỉ huy thăm đảo Hoàng Sa.

- Ngày 29-3-1938, vua Bảo Đại ký dụ tách quần đảo Hoàng Sa ra khỏi địa hạt tỉnh Nam Nghĩa đặt vào tỉnh Thừa Thiên.

- Ngày 15-6-1938, toàn quyền Đông Dương Sules Brévié ký nghị định thành lập một đơn vị hành chính tại quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.

- Năm 1938, Pháp dựng bia chủ quyền, xây dựng xong đèn biển, trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Hoàng Sa (Ile Pattle) trong quần đảo Hoàng Sa, xây dựng trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Itu Aba, trong quần đảo Trường Sa.

Hàng chữ trên bia: “Cộng hòa Pháp, Vương quốc An Nam, quần đảo Hoàng Sa, 1816- đảo Pattle - 1938 (Năm 1816 là năm vua Gia Long thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo Hoàng Sa, năm 1938 là năm dựng bia).

- Ngày 5-5-1939, toàn quyền Đông Dương jules Brévié ký nghị định sửa đổi nghị định ngày 15/6/1938 nói trên và thành lập tại quần đảo Hoàng Sa hai cơ quan đại lý “Croissant và các đảo phụ thuộc”, “Amphitrite và các đảo phụ thuộc”.

Tóm lại, suốt trong thời gian đại diện Việt Nam về mặt đối ngoại, Pháp luôn luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và phản kháng những hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo đó như: ngày 04/12/1931 và ngày 24/4/1932, Pháp phản kháng chính phủ Trung Quốc về việc chính quyền Quảng Đông lúc đó có ý định cho đấu thầu khai thác phân chim trên quần đảo Hoàng Sa. Ngày 24/7/1933, Pháp thông báo cho Nhật việc Pháp đưa quân ra đóng các đảo chính trong quần đảo Trường Sa. Ngày 04/4/1939, Pháp đã phản kháng Nhật đặt một số đảo trong quần đảo Trường Sa thuộc quyền tài phán của Nhật (17)

2.2. Từ sau thế chiến thứ II (1945)

- Khi trở lại Đông Dương sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945) , đến năm 1947, Pháp đã yêu cầu đại diện quân đồng minh ở Việt Nam là quân Trung Hoa Dân quốc rút khỏi các đảo của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ đã chiếm đóng trái phép cuối năm 1946, và Pháp đã cho quân đội đến thay thế quân đội Trung Hoa Dân quốc, đã xây dựng các trạm khí tượng và đài vô tuyến điện tại quần đảo Hoàng Sa.

- Ngày 7-9-1951, Trưởng đoàn đại biểu của Chính phủ Bảo Đại là Trần Văn Hữu tuyên bố tại Hội nghị San Francisco về việc ký hòa ước với Nhật Bản rằng từ lâu quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam: “…và cũng vì cần dứt khoát lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. Tuyên bố đó của trưởng đoàn đại biểu của chính phủ Bảo Đại, ông Trần Văn Hữu đã không gặp sự chống đối hoặc bảo lưu nào của đại diện 51 quốc gia tham dự Hội nghị.

- Năm 1953, tàu Ingénieur en chef Girod của Pháp khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa về hải dương, địa chất, địa lý, môi sinh.

- Chính phủ Sài Gòn, sau đó là cả chính phủ Sài Gòn và chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng đều thực hiện chủ quyền của Việt Nam. Dưới đây là một vài bằng chứng: i) Ngày 16/6/1956, Bộ Ngoại giao chính quyền Sài Gòn đã kịch liệt phản đối việc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam; ii) Năm 1956, lực lượng hải quân của chính quyền Sài Gòn tiếp quản các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi Pháp rút quân về nước. Sở hầm mỏ, kỹ nghệ và tiểu công nghiệp miền Nam tổ chức một cuộc khảo sát với sự giúp đỡ của hải quân chính quyền Sài Gòn trên 4 đảo: Hoàng Sa (Pattle), Quang Ảnh (Money), Hữu Nhật (Robert), Duy Mộng (Drumond), iii) ngày 22/10/1956, chính quyền Sài Gòn đặt quần Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy; iv) ngày 13/7/1961, chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Hoàng Sa, trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, vào tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy tên là xã Định Hải, trực thuộc quận Hòa Vang và đặt dưới quyền một phái viên hành chính; v) từ năm 1961 đến năm 1963 chính quyền Sài Gòn lần lượt cho xây dựng bia chủ quyền ở các đảo chính của quần đảo Trường Sa như: Trường Sa, An Bang, Song Tử Tây v.v…; vi) ngày 21/10/1969 chính quyền Sài Gòn sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long cũng thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam; vii) ngày 22/5/1959, chính quyền Sài Gòn đã bắt giữ trong một thời gian 82 “ngư dân” Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hòa trong quần đảo Hoàng Sa; viii) ngày 20/4/1971 chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo đó trong cuộc họp báo ngày 13/7/1971; ix) tháng 7/1973, Viện Khảo cứu nông nghiệp thuộc Bộ Phát triển Nông nghiệp và Điền địa Sài Gòn tiến hành khảo sát đảo Nam Ai (Nam Yết) thuộc quần đảo Trường Sa; x) Tháng 8/1973, với sự hợp tác của công ty Nhật Bản Maruben Corporation, Bộ Kế hoạch và Phát triển Quốc gia Sài Gòn tiến hành khảo sát phốt phát ở quần đảo Hoàng Sa; xi) ngày 6/9/1973, chính quyền Sài Gòn đã sáp nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Ai, Sinh Tồn và các đảo phụ cận vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy; xii) ngày 19/01/1974, lực lượng quân sự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chiếm đóng nhóm Tây Nam của quần đảo Hoàng Sa, và cũng trong ngày này, chính quyền Sài Gòn tuyên bố lên án Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngày 26/01/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ, ngày 14/2/1974 tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam; xiii) tháng 9/1975, đoàn đại biểu chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại Hội nghị khí tượng Colombo tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam và yêu cầu Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) tiếp tục ghi tên trạm khí tượng Hoàng Sa của Việt Nam trong danh mục trạm khí tượng của Tổ chức Khí tượng Thế giới (trước đây đã được đăng ký trong hệ thống các trạm của WMO dưới biển số 48.860; xiv) Về quản lý hành chính, năm 1982, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau này, khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa; xv) Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã nhiều lần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoặc trong các công hàm gửi các bên liên quan, trong các tuyên bố của Bộ Ngoại giao, trong các Hội nghị của Tổ chức Khí tượng Thế giới (ở Genève (tháng 6/1980), của Hội nghị Địa chất Thế giới ở Paris (tháng 7/1980) v.v. Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần công bố “Sách Trắng” (năm 1979, 1981, 1988) về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, khẳng định hai quần đảo này là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam, Việt Nam có đầy đủ chủ quyền đối với hai quần đảo này, phù hợp với các quy định của luật pháp và thực tiễn quốc tế, ngày 14/3/1988 Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam ra tuyên bố lên án Trung Quốc gây xung đột vũ trang tại Trường Sa và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, tháng 4/2007, Chính phủ Việt Nam quyết định thành lập thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa (18); xvi) Luật Biển Việt Nam được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 đã xác định rõ “Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam” (19); xvii) ngày 02/5/2014, Trung Quốc ngang nhiên kéo giàn khoan Hải Dương 981 tới vị trí cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 17 hải lý về phía Nam, cách đảo Lý Sơn của tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam khoảng 120 hải lý. Đây là vị trí nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo công ước luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982. Để bảo vệ giàn khoan HD 981, Trung Quốc đã huy động tới 80 tàu thuyền các loại, trong đó có 07 tàu quân sự, tàu tuần tiễu tên lửa tấn công nhanh 753, 33 tàu hải cảnh cùng nhiều tàu vận tải và ngư binh. Hằng ngày Trung Quốc còn điều động hàng chục tốp máy bay hoạt động trên bầu trời khu vực đó. Có thời điểm, số lượng tàu hộ tống của Trung Quốc lên tới hơn 100 chiếc. Ngày 05/5/2014, Việt Nam tổ chức họp báo, trong đó người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã khẳng định mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển của Việt Nam khi chưa được phép của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị. Ngày 15/5/2014, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình tuyên bố Việt Nam đã đưa công hàm phản đối Trung Quốc ra Liên Hợp Quốc. Ngày 20/5/2014 phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh Liên Hợp Quốc tại Genéva đã gửi thông báo đến Văn phòng Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và các tổ chức quốc tế khác, cũng như các cơ quan báo chí có trụ sở tại Genéva, về sự kiện Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam tại Biển Đông. Trước tình hình đó, dư luận quốc tế đã lên án hành động xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, các nước như Mỹ, Nhật, Philippin, Ấn Độ, Indonesia đã lên án hành động bất chấp luật pháp quốc tế, gây mất ổn định và làm gia tăng căng thẳng trong khu vực của Bắc Kinh. Trước những sức ép ngày càng lớn từ dư luận trong nước và quốc tế, Trung Quốc không còn con đường nào khác, ngày 16/7/2014 đã phải rút giàn khoan phi pháp HD 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.(20); xix) Tháng 7/2019, Trung Quốc điều nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam, trong 3 tháng, đến ngày 25/10/2019, Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã lên tiếng về thông tin nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc đã rút khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trong thông cáo phát đi chiều 25/10, người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao Lê Thị Thu Hằng nêu rõ: “Liên quan đến hoạt động của nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc, người phát ngôn của bộ ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng. Mọi hoạt động trong vùng biển Việt Nam được xác định theo công ước của LHQ về luật biển (UNCLOS) 1982, không được sự cho phép của Chính phủ Việt Nam đều là hành động xâm phạm chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Việt Nam yêu cầu các bên liên quan tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam và không tái diễn vi phạm”. Trong khi đó, khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam, mà Trung Quốc gọi là “Bãi Vạn An” thực chất là bãi ngầm, là một phần của đáy biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định phù hợp với UNCLOS 1982. “Đây hoàn toàn không phải là khu vực tranh chấp hay có chồng lấn, Trung Quốc không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào để đưa ra yêu cầu đối với khu vực này. UNCLOS 1982 và thực tiễn xét xử thời gian qua đã khẳng định rõ điều này” (Trích thông báo của phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam chiều 25/10/2019 Nguyễn Thị Thu Hằng) (21).

3. Người Trung Quốc luận giải về chủ quyền ở Tây Sa, Nam Sa (Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam) (22)

Nhóm những nhà nghiên cứu khoa học xã hội của Việt Nam do GS. Hoài Sa chủ trì, đã tiến hành chuyến khảo sát đến các Trường Đại học các hệ thống thư viện, các Viện nghiên cứu, Bộ, Ngành, địa phương ở Đài Loan năm 2018, đã xuất bản cuốn sách “Xuất bản phẩm Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông - Cái nhìn tổng quan” Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, xuất bản tại Hà Nội, năm 2019. Cuốn sách có nhiều nhận xét lý thú về tình hình nghiên cứu và đánh giá của người Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông. Theo nhóm nghiên cứu, vì vấn đề tranh chấp ở Biển Đông bao gồm quần đảo Hoàng Sa (TQ gọi là Tây Sa) và quần đảo Trường Sa (TQ gọi là Nam Sa) diễn ra ngày càng gay go, phức tạp, nên các tài liệu của Trung Quốc liên quan đến vấn đề này xuất hiện ngày càng nhiều. Nếu như trước thập kỷ 80 của thế kỷ XX, các tài liệu của Trung Quốc chủ yếu tập trung trong “Sách Trắng” của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc “Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với quần đảo Nam Sa và Tây Sa”, thì từ thập kỷ 90 trở lại đây đã xuất hiện nhiều bài nghiên cứu trên báo chí Trung ương, địa phương, các tạp chí chuyên ngành, tạp chí của các trường Đại học với nội dung phong phú. Bên cạnh số lượng sách báo chuyên khảo, tính đến ngày 4/6/2016, Trung Quốc đã công bố 39.686 bài tạp chí nghiên cứu về Nam Hải (Biển Đông), trong đó trước năm 1980 chỉ có 197 bài, tính đến hết năm 2015, tổng số luận văn thạc sĩ có liên quan đến vấn đề Nam Hải (Biển Đông) là 3042, luận án Tiến sĩ là 1003. Nội dung các tài liệu, luận văn, luận án về chủ đề Biển Đông, bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa tập trung vào hai chủ đề chính sau đây:

Thứ nhất, nghiên cứu về lịch sử của vấn đề, nhằm xây dựng những “chứng cứ lịch sử” để chứng minh cho cái gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa”.

Thứ hai, nghiên cứu những cơ sở pháp lý của vấn đề nhằm tìm ra những “chỗ dựa pháp lý” để chứng minh cho cái gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa”.

- Ở chủ đề căn cứ lịch sử, các xuất bản phẩm của Trung Quốc đã đưa ra các luận điểm ngụy biện như sau:

Thứ nhất, ngụy biện rằng người Trung Quốc phát hiện ra quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và quần đảo Nam Sa (Trường Sa) sớm nhất, từ thời Hán Vũ Đế, thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông chính là dựa trên cơ sở này, rồi dần dần hình thành trong thời kỳ lịch sử lâu dài và từng bước thực hiện theo cơ sở lý luận đó. Những tác phẩm tiêu biểu như: “Quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc” của Tác giả Lâm Kim Chi, xuất bản năm 1980. Cuốn sách “Cống hiến lịch sử của ngư dân Hải Nam phát hiện và khai thác quần đảo Tây Sa và Nam Sa” của tác giả Hà Ký Sinh, xuất bản năm 1981. Cuốn sách “Tây Sa không phải là Hoàng Sa” của Quách Vĩnh Phương, xuất bản năm 1980. Đặc biệt cuốn sách “Hội biên sử liệu các đảo Nam Hải của nước ta” do tác giả Hàn Chấn Hoa chủ biên, xuất bản năm 1988 của NXB Đông Phương đã ngụy tạo những “chỗ dựa lịch sử”để chứng minh cho cái gọi là chủ quyền đối với quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Đây là kết quả công trình hợp tác của 20 cơ quan, đơn vị nghiên cứu, Học Viện, Trường Đại học, Thư viện, Bảo tàng Quốc gia và bảo tàng địa phương với quá trình biên soạn công phu lên tới hàng chục năm, từ tháng 5/1975 sơ thảo, tháng 4/1985 sửa chữa bản thảo, tháng 6/1985 viết thành bản chính thức. Họ đã thu thập tất cả các tài liệu, kể cả ở nước ngoài, mà họ cho rằng đó là ghi chép về các đảo ở Biển Đông trong sử sách trong và ngoài nước, gồm sách, tạp chí, phương chí, bản đồ, văn kiện lưu trữ, bản sao, ảnh, bài báo (cắt ra) cho đến các tư liệu điều tra, trích dẫn đến 17.000 sử liệu, sau đó phân loại chỉnh lý, biên soạn thành Hội biên tư liệu, coi đó là “bằng chứng lịch sử” nhằm ngụy biện rằng các đảo ở Biển Đông xưa nay vốn là lãnh thổ của Trung Quốc (23).

Thứ hai, Trung Quốc đã ngụy biện cho rằng nhân dân Trung Quốc đã đến các đảo này khai thác làm ăn từ lâu đời. Từ thời Đường, Tống nhân dân Trung Quốc đã sinh sống và hoạt động sản xuất đánh bắt cá ở quần đảo Tây Sa và Nam Sa.

Học giả Trung Quốc đã dẫn chứng các sử liệu của Trung Quốc ghi chép về cái gọi là “tình hình nhân dân Trung Quốc đi lại, sản xuất ở quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ hàng ngàn năm nay, cũng như vị trí, tình hình phân bố các đảo của hai quần đảo này”. Các tác phẩm đó gồm: “Mộng lương lục “đời Tống, “Đảo Di chí lược” đời Nguyên, “Đông Tây dương khảo”, “Thuận Phong tương tống” đời Minh, “Chỉ Nam chính pháp”, “Hải quốc văn kiến lục” đời Thanh, “Canh lộ bộ” của ngư dân các thời kỳ. Trung Quốc đã ngụy biện rằng, những tác phẩm trên không chỉ tiếp tục gọi quần đảo Tây Sa và Nam Sa là “Cửu Nhũ Loa Châu”, “Thạch Đường”, “Thiên Lý Thạch Đường”, “Vạn lý Thạch Đường”, “Trường Sa”, “Thiên lý Trường Sa”, “Vạn Lý Trường Sa”…mà còn đặt ra nhiều tên gọi với hình tượng sinh động cho các đảo, đá ngầm, cát, bãi. Những năm gần đây, ở quần đảo Tây Sa đã phát hiện di chỉ sinh sống và những đồ dùng sinh hoạt như đồ sứ, dao, nồi đời Đường, Tống của Trung Quốc và di tích lịch sử như Giếng nước, miếu thờ, bia mộ. Cuối cùng, Trung Quốc ngụy biện rằng “chỉ nhân dân Trung Quốc đã sinh sống và hoạt động sản xuất đánh bắt cá ở quần đảo Tây Sa, Nam Sa từ thời Đường, Tống”(24).

Thứ ba, Trung Quốc đã ngụy biện rằng chính quyền các triều đại Trung Quốc đã tiến hành quản lý hai quần đảo này. Từ thời Bắc Tống (năm 960-1127), hải quân Trung Quốc đã tuần tra biển đến vùng quần đảo Tây Sa. Đời Nguyên (1279), Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đích thân cử nhà thiên văn nổi tiếng, đồng tri Thái sử Viện sự Quách Thủ Kính đến tiến hành đo trắc địa ở Nam Hải. Đến đời Minh, Thanh, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc sở hữu Vạn Châu, Phủ Quỳnh Châu, tỉnh Quảng Đông. Chính quyền nhà Thanh ở Trung Quốc đã phản đối nước ngoài có hoạt động ở vùng biển Tây Sa, Nam Sa. Trung Quốc đã thể hiện quần đảo Tây Sa và Nam Sa trong nhiều bản đồ quan phương (vào đời Thanh)…(25).

Thứ tư, Trung Quốc đã ngụy biện rằng Chính phủ, nhân dân Trung Quốc đã phản đối “sự xâm lược của nước ngoài” đối với quần đảo Tây Sa, Nam Sa và “thu hồi” các đảo từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (năm 1945).

Thứ năm, Trung Quốc đã ngụy biện rằng chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa, Nam Sa đã được quốc tế công nhận. Sự công nhận này được thể hiện qua các hội nghị quốc tế, qua sách vở và bản đồ do nước ngoài xuất bản (26).

- Ở chủ đề căn cứ pháp lý, các xuất bản phẩm của Trung Quốc đã đưa ra các luận điểm ngụy biện như sau:

Ngay từ thập niên 1990 thế kỷ XX, khi tranh chấp giữa Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực Biển Đông tăng lên, thì các nghiên cứu vấn đề Biển Đông dưới góc độ luật quốc tế cũng được chú trọng ở Trung Quốc. Một số sách chuyên khảo chủ yếu nhằm ngụy biện cho cái gọi là “cho chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông dưới góc độ luật quốc tế”. Một số công trình khác có mục đích nhằm phản bác các tuyên bố chủ quyền của các nước trong khu vực này. Tuy nhiên, trong những năm gần đây (khoảng từ năm 2010 trở lại đây) đã xuất hiện rất nhiều những luận văn, luận án liên quan đến các nội dung như: vấn đề pháp lý liên quan tới đường chữ U, vấn đề phân định biên giới trên biển dưới góc độ luật quốc tế hoặc sử dụng luật quốc tế để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông giữa Trung Quốc và các nước khác. Có thể kể đến một số công trình như: “Suy nghĩ về vấn đề luật quốc tế trong giải quyết tranh chấp ở Nam Hải” của tác giả Tu Phương; “Nghiên cứu phân tích pháp lý quốc tế của vấn đề Nam Hải và đối sách của nước ta” của Trương Hải Đình; “Phân tích luật quốc tế của vấn đề phân định ở Nam Hải” của Phó Côn Thành…Khái quát các nghiên cứu về căn cứ pháp lý của vấn đề Biển Đông, chủ yếu bao gồm những nội dung sau đây: Áp dụng những quy định của luật pháp quốc tế bảo vệ cái gọi là chủ quyền “hợp pháp chính đáng” của Trung Quốc, phản đối các nước khác đưa ra những yêu sách chủ quyền trái luật pháp ở Biển Đông, và nghiên cứu “Công ước luật biển của Liên Hợp Quốc” và những ứng dụng của luật quốc tế có liên quan trong giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông của Trung Quốc. Cụ thể là: i) Các nghiên cứu nhằm ngụy biện cho cái gọi là chủ quyền liên quan ở Biển Đông của Trung Quốc và căn cứ pháp luật phân định biên giới trên biển; ii) Một số nghiên cứu trên cơ sở sử dụng luật quốc tế có liên quan và Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc nhằm chứng minh chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông; iii) Vấn đề áp dụng Công ước Luật biển và các quy định luật quốc tế có liên quan giải quyết vấn đề Biển Đông (27).

Tóm lại, các nhà học giả Trung Quốc trong các tác phẩm của mình đều ngụy biện rằng, nếu áp dụng luật quốc tế và Công ước Luật biển thì Trung Quốc sẽ không thể nào khẳng định được chủ quyền một cách vô lý của mình. Điều này cũng phần nào giúp lý giải cho việc Trung Quốc từ trước đến nay luôn chủ trương giải quyết tranh chấp thông qua con đường đàm phán song phương, từ đó dễ dàng giành ưu thế, giúp cho việc thực hiện âm mưu bành trướng lãnh thổ trên Biển Đông. Trung Quốc rất lo sợ giải quyết bằng cơ chế đa phương quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Sau khi thất bại do phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực Liên Hợp Quốc tháng 7/2016, những luận điệu về “đường lưỡi bò”, “đường 9 đoạn” “chữ U” của Trung Quốc đã được Trung Quốc chuyển sang sử dụng yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với “Tứ Sa”, bao gồm 4 nhóm đảo: Đông Sa (quần đảo Pratas), Tây Sa (quần đảo Hoàng Sa), Nam Sa (quần đảo Trường Sa) và Trung Sa (bãi Macclesfield), đồng thời Trung Quốc cũng đòi hỏi quyền được hưởng vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Như vậy Trung Quốc sẽ làm chủ gần như toàn bộ Biển Đông. Âm mưu dùng “Tứ Sa” để thay thế “đường lưỡi bò” của Trung Quốc đã gây sự phản ứng mạnh mẽ cho các nước trong khu vực Biển Đông. Các nước và dư luận quốc tế đang lên án, đấu tranh với Trung Quốc về âm mưu này, và cho rằng “Tứ Sa” không có cơ sở pháp lý, đang cố ý gây nhập nhằng, thể hiện mưu đồ bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông, trong đó bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.

(còn tiếp)

PGS. TS. Đinh Công Tuấn

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quốc tế

Trường Đại học Đại Nam

Video liên quan

Chủ đề