Quanh năm gợi thời gian làm việc như thế nào của bà Tú

Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, “Thương vợ” được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất. Cái hay của bài thơ là đã thể hiện được một cách thấm thía, cảm động thái độ trân trọng, tri ân của nhà thơ đối với sự hi sinh, tảo tần của vợ. Quan trọng hơn, từ tác phẩm này người ta thấy hiện lên bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam với những nét phẩm chất điển hình qua hình tượng bà Tú.

Bà Tú tên tật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân dòng dõi nho gia “con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”. Bà nhẫn nại, cam phận làm người vợ thảo hiền, làm chỗ dựa tinh thần cho cuộc đời Tú Xương – một trí thức không gặp thời, long đong trên con đường sự nghiệp.Có lẽ vì thế mà hình tượng người vợ trở thành đề tài quen thuộc trong thơ của Tú Xương. Những bài thơ của ông viết về vợ thường mang nhiều sắc điệu: có khi là lời thủ thỉ tâm tình, lời bông đùa hóm hỉnh, cũng có lúc là nỗi niềm chua chát, xót xa nhưng bao trùm tất cả vẫn là thái độ trân trọng cảm thông, sự hàm ơn chân thành.Nói đến người phụ nữ truyền thống là nhắc đến không gian gia đình, ở đó người vợ có vai trò quan trọng trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp, danh vị của chồng. Bà Tú cũng không phải là ngoại lệ, nhưng vào buổi Tây, Tàu nhốn nháo, không còn đâu cái cảnh thơ mộng “bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ”, bà Tú cũng phải cuốn theo guồng quay của cuộc đời phiền tạp, dạt theo cuộc bươn chải với đổi chác, bán mua:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng”

Hình tượng bà Tú hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian và thời gian công việc. “Quanh năm” không chỉ là độ dài thời lượng mà còn gợi ra cái vòng vô kì hạn của thời gian, nó chứng tỏ cuộc mưu sinh không có hồi kết thúc. Không gian “mom sông” vừa có giá trị tả thực – là doi đất nhô hẳn ra lòng sông, vừa gợi lên không gian sinh tồn bấp bênh, chông chênh.

Cái cách nói “năm con với một chồng” nghe có vẻ hài hước vì người ta ai lại đếm chồng, ai lại xếp chồng ngang hàng con như thế. Nhưng ông Tú đã tự cười mình, trách mình vậy đấy. Tự cho mình là gánh nặng mà bà Tú phải cố gồng hết sức để gánh thêm, tự cho mình là kẻ ăn bám vợ. Thương vợ bao nhiêu lại buồn cho mình bấy nhiêu. Bi kịch này không dễ gì thổ lộ bởi nó làm mất mặt nam nhi lắm. Nhưng ông Tú lại muốn ghi công vợ nên sẵn sàng khuất lấp sau người phụ nữ, sẵn sàng tự kết mình vào hàng những kẻ vô tích sự, ăn bám vợ. Thế mới biết tấm lòng của ông chồng sâu nặng và chân thành đến mức nào. Ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh con cò:

“Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”

Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Nhà thơ vừa tiếp thu, vận dụng văn học dân gian lại vừa có những sáng tạo độc đáo. Với việc dùng từ “thân cò”, tác giả vừa thể hiện danh phận khiêm nhường vừa làm nổi rõ số kiếp lận đận của bà Tú. Trong cấu trúc cú pháp của câu thơ, biện pháp đảo ngữ đã được sử dụng nhằm nhấn mạnh, gia tăng tính chất âm thầm nhọc nhằn trong công việc của bà Tú. Nếu như hình ảnh “đò đông” thể hiện tính chất bấp bênh trong cuộc mưu sinh thì từ láy “eo sèo” đã diễn tả sinh động sự ồn ào, nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn trong công việc hằng ngày mà bà Tú phải chịu đựng.Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương chịu khó, bà Tú trong “Thương vợ” của Tú Xương còn là con người bổn phận vị tha, lấy hi sinh làm hạnh phúc và lẽ sống của mình.Hóa thân vào nhân vật bà Tú, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng trước gia cảnh.

Hiện lên trong tâm trí người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, không trách phận than thân, không phiền lòng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Lời kể công, kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi sinh của bà Tú như càng nổi bật hơn.

Tấm lòng thương vợ, ơn vợ không chỉ dừng lại ở việc hiểu, chia sẻ, xót xa, tri ân vợ mà bật ra thành hành động, thành ngôn ngữ trực tiếp. Đó chính là lời chửi đổng cuối bài thơ. Người cất lên tiếng chửi chính là ông Tú. Trước hết là ông chửi thói đời bạc bẽo. Thói đời ở đây là những nếp quen đáng chê trách mặc nhiên cứ được công nhận và chấp nhận. Những đạo “tam tòng”, những “phu xướng phụ tùy”, những định kiến hẹp hòi “trọng nam khinh nữ”…đã khiến cho người phụ nữ xưa phải khổ. Cũng khiến cho những người đàn ông thương vợ như ông Tú không thể “đồng cam cộng khổ” cùng bà một cách thiết thực hơn. Dẫu muốn, chàng Nho sĩ kia cũng không thể “lặn lội thân cò” hay “eo sèo” buôn bán cùng vợ được. Nên chỉ có thể trách mình, ghét mình là kẻ vô tích sự, là “chồng hờ hững”.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

“Thói đời” ở đây phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời đã tạo ra những người chồng hờ hững, để rồi người phụ nữ phải mang gánh nặng trụ cột gia đình. Câu thơ thể hiện nỗi dằn vặt, thái độ chân thành tự trách mình của nhà thơ đồng thời bộc lộ tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của người trí thức: trở thành người thừa ngay trong chính gia đình của mình.

Nhưng đằng sau tiếng chửi mình, chửi đời ấy, chửi xã hội ấy, chúng ta thấy những giọt nước mắt của nỗi đau, của tâm trạng phẫn uất, của bi kịch Tú Xương bật ra qua câu chữ. Hẳn là uất ức lắm mới phải bật lên thành tiếng. Hẳn là giận, đau lắm mới không thể giấu trong lòng. Điều gì biến ông Tú thành kẻ “có cũng như không”? Điều gì biến ông thành kẻ ăn bám con, ăn bám vợ? Bởi Hán học đến thời mạt vận. Bởi thi cử lộn tùng phèo những giá trị thực. Thế là cả đời đi thi rốt cuộc chỉ có cái Tú tài dở dang dang dở. Thế nên tâm sự phẫn uất mới bật lên thành tiếng chửi. Nhưng đó không phải chỉ là lời của một Tú Xương mà còn là bi kịch của một thế hệ. Nói thương vợ là trách mình, là tê tái, đau đớn thương mình là vì vậy.

Có thể nói với “Thương vợ”, Tú Xương đã khắc hoạ rõ nét và sống động hình tượng bà Tú, người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền. Đọc Thương vợ ta mới hiểu thấu lòng ông Tú. Hóa ra đằng sau con người phóng túng ăn chơi kia là cả một chiều sâu tâm trạng. Hóa ra đằng sau tiếng cười trào phúng bật lên thành tiếng là cả nỗi đau thé thái nhân tình. Thương vợ khép lại, nhưng nỗi niềm của Tú Xương hẳn còn đọng lại mãi mai sau. Nỗi đau của thời cuộc còn day dứt nhưng đã là bài toán có lời giải trong xã hội hiện nay. Chỉ có nỗi niềm thương vợ thì vẫn còn mang giá trị nhân sinh trong cuộc sống hiện tại này.

Quanh năm gợi thời gian làm việc như thế nào của bà Tú
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Dưới đây là bài phân tích hình ảnh bà tú trong bài thương vợ để các bạn có thể hiểu hơn về thân phận của người phụ nữ thời phong kiếm hãy cùng wikisecret phân tích nhé.

Viết về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đã từng có rất nhiều những áng thơ văn nói lên nỗi khổ hạnh, buồn tủi của số phận nữ nhi bất hạnh, khổ đau. Nhà thơ Trần Tế Xương cũng vậy, người phụ nữ trong thơ ông không phải ai khác mà chính là người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh của mình. Với những tình cảm chân thành, mộc mạc, ông đã khắc họa lại hình ảnh người vợ vất vả trong bài thơ “Thương vợ” một cách rất chân thực và giàu cảm xúc.

Bà vừa là một người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh, vừa là một người mẹ giàu lòng yêu thương. Mọi khó khăn, khổ cực trên cuộc đời này chẳng là gì so với người phụ nữ can đảm, chịu thương chịu khó ấy.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Hình ảnh một người phụ nữ tảo tần, vất vả ở mom sông – nơi ẩn chứa rất nhiều mối hiểm nguy, thậm chí có thể mất mạng bất cứ lúc nào – đã gợi lên bao cảm xúc cho người đọc. Trong thời buổi khó khăn, kiếm được đồng tiền rất cực khổ, nuôi được thân mình thôi đã là vất vả lắm rồi. Vậy mà bà Tú của Tế Xương còn phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. “Đủ” không những đủ ăn mà còn đủ mặc, dù không dư giả hay cao sang nhưng cũng không thiếu thứ gì. Mặt khác, hai vế của câu thơ “năm con với một chồng” giống như một chiếc đòn gánh vô hình nhưng rất dài đang đè nặng lên đôi vai gầy của người phụ nữ đáng thương. Nhưng bà không hề than vãn hay kêu ca nửa lời. Bà cam chịu, hi sinh bằng tất cả tấm lòng nhân ái và yêu thương của mình. Tế Xương đã tự ví bà với “thân cò” – một hình ảnh rất đẹp, rất nhân văn và quen thuộc khi nói về những người nông dân lam lũ, vất vả. Bà lặn lội khi quãng vắng, rồi lại “eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Trong hai câu thơ này, tác giả đã cố tình dùng phép đảo ngữ đẩy hai từ “lặn lội”, “eo sèo” lên đầu câu để nhấn mạnh thêm nữa sự vất vả, bon chen của bà Tú. Người phụ nữ ấy không những yêu chồng, thương còn mà còn rất sắc sảo, nhanh nhẹn. Vì thế bà mới có thể vững chân làm nghề buôn bán quanh năm được. Nhất là trong lúc khó khăn, ai ai cũng cố gắng hết mình để giành giật lấy từng đồng từng xu, bà Tú cũng vậy, bà cũng phải bon chen lắm, nỗ lực lắm mới có thể “nuôi đủ năm con với một chồng”, cộng thêm cả bản thân bà nữa bẩy người. Một mình bà nuôi cả bẩy miệng ăn.

Quanh năm gợi thời gian làm việc như thế nào của bà Tú

Nhưng dù có khổ cực đến đâu đi nữa, người phụ nữ ấy vẫn luôn đứng vững và cam chịu tất cả:

“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không.”

Duyên nợ long đong lận đận, kiếp sống khổ cực, nhọc nhằn nhưng xuyên suốt cả bài thơ, không có một từ nào nói lên sự than thở, kêu than của bà Tú. Người phụ nữ ấy có tấm lòng yêu thương quá lớn. Bà đã hi sinh tất cả cho chồng cho con, hi sinh cả tuổi thanh xuân đầy khát vọng của mình. Dù “năm nắng” hay “mười mưa” bà nào có “quản công”. Một mình bà sẵn sàng gánh vác cả gia đình. Cũng may, trong thời ấy, dù nhiều người phụ nữ khác cũng lam lũ, cũng vất vả nhưng chẳng mấy ai được chồng cảm thông và thương xót như Bà Tú. Chỉ tiếng rằng ngoài tình thương, Tế Xương cũng không thể làm gì giúp vợ được. Thế nên, ông mới tự nhận “Có chồng hờ hững cũng như không”. Bà không cần nói nhưng những việc bà làm đã khiến Tế Xương chồng bà phải khâm phục và nể trọng.

Bà là đại diện cho những người phụ nữ truyền thống của Việt Nam với đức tính chịu thương chịu khó, hi sinh vất vả và giàu lòng yêu thương. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại, do có quá nhiều thứ bon chen, chi phối, một số người đã không còn gìn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, cao quý ấy nữa. Họ sống vì lợi danh, sống ganh đua, chua chát. Không ít kẻ đã trà đạp lên nhau, giẫm chân lên nhau mà sống. Ai cũng vì lợi ích riêng của bản thân mình mà quên đi mất những phẩm giá tốt đẹp vốn có của con người. Chưa kể đến có những bà lười biếng, thích ăn không ngồi rồi, thích hưởng thụ, thích sai khiến người khác phải phục tùng mọi ý muốn của mình. Không mấy ai còn phải vất vả như bà Tú nhưng cũng cũng chẳng có nhiều tấm lòng giàu tình yêu thương và vị tha như vậy nữa.

Giữa thời thế xô bồ hỗn độn, hình ảnh bà Tú lại xuất hiện với những câu thơ chân thành, mộc mạc của Tế Xương như một lời động viên, khích lệ và khuyên nhủ những người phụ nữ hãy nhìn nhận lại bản thân mình, hãy cố gắng vươn lên trong mọi hoàn cảnh. Đừng vì đồng tiên hay vì bất kỳ một điều gì khác mà làm mất đi danh dự và phẩm giá cao quý của mình. Mặt khác, những người chồng, người đàn ông cũng hãy cảm thông, thương yêu và quý trọng người phụ nữ của đời mình, hãy cùng nhau sẻ chia và gánh vác mọi chuyện trong gia đình, cũng như trong cuộc sống. Tế Xương thương vợ, nhưng ông không bắt tay làm cùng vợ được. Bởi đó là do thời thế lúc bấy giờ như vậy. Hơn nữa, nghề của ông là viết văn, làm thơ nên ông cũng không có thời gian để làm cùng vợ. Chỉ tiếc rằng, cái nghề của ông không mang lại nhiều tiền bạc, của cải để gánh vác gia đình, để bà Tú bớt vất vả, để thân cò ấy không phải lặn lội hay eo sèo trong những buổi đò đông.

Bài thơ đã khép lại với hình ảnh chân thực về người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh. Bà là một tấm gương sáng cho những người phụ nữ hiện đại soi lại chính mình.

Tú Xương có nhiều bài thơ, bài phú nói về vợ. Bà Tú vốn là “con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”, một người con dâu giỏi làm ăn buôn bán, hiền lành được bà con xa gần mến trọng: “Đầu sông bến bãi, đua tài buôn chín bán mười Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ”.

Bà Tú “Buôn bán ở mom sông”, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng một cảnh đời cơ cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường, người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc. chứ ai “đếm” con, “đếm” chồng (!). Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.

Hình ảnh bà Tú hiện lên trước hết gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc. Thân đàn bà chân yếu tay mềm nhưng bà Tú vẫn phải một mình làm lụng buôn bán, một mình xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ để lặn lội kiếm sống. Cái gian truân khó nhọc được cụ thể hoá bằng thời gian quanh năm, bằng không gian ven sông, quãng vắng, buổi đò đông. Nghĩa là triền miên suốt năm suốt tháng không ngơi không nghỉ, lúc nào cũng đầu tắt mặt tối. Đặt trong những không gian, thời gian trên hình ảnh bà Tú dường như lại càng trở nên nhỏ bé, cô đơn, tội nghiệp hơn. Cái vất vả nhọc nhằn còn được hiện rõ trong gánh nặng mà bà Tú phải gánh trên vai: Một gia đình với năm con và một chồng.

Sự vất vả, lam lũ được thể hiện trong sự bươn chải khi làm việc:

+ “Lặn lội” : Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

+ Hình ảnh “thân cò” : gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn -> gợi tả nỗi đau thân phận và mang tính khái quát

+ “khi quãng vắng” : thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu

=> Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ

+ Eo sèo… buổi đò đông : gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu

-> Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.

=> Thực cảnh mưu sinh của bà Tú : Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

Người phụ nữ sống trong hoàn cảnh rất vất vả. Bà luôn tảo tần, vất vả nơi mom sông – nơi ẩn chứa rất nhiều mối hiểm nguy đến tính mạng. Một người phụ nữ nhưng lại phải đối mặt vô vàn vất vả. Đồng tiền kiếm được vô cùng khó khăn, bà Tú phải làm quần quật để có được số tiền ít ỏi ấy. Và bà Tú phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Chỉ một từ “nuôi đủ” cho ta hiểu rằng nỗi nhọc nhằn của bà vô cùng lớn. Một người phụ nữ không được yên ổn mà luôn phải đối mặt vói muôn vàn vất vả. “Năm con với một chồng” lời thơ sao mà chua xót đến thế. Đó chính là áp lực lớn đè nặng lên đôi vai gầy của người phụ nữ đáng thương! CHỉ một mình bà đối mặt với nỗi cực nhọc này. Nhưng bà không hề than vãn hay kêu ca nửa lời mà luôn cam chịu, hi sinh.

Đức tính cao đẹp của bà Tú được nhà thơ thể hiện khá rõ trong hai câu thừa và hai câu thực.

Phẩm chất cao đẹp của bà Tú càng cao cả hơn trong hoàn cảnh vất vả, cực khổ, gian nan:

Nuôi đủ năm con với một chồng

Chữ “nuôi” đã đủ để nói lên những gì về một người phụ nữ tần tảo vì gia đình. Lời văn vừa hóm hỉnh nhưng cũng mang nặng nỗi niềm suy tư khi cuộc sống khổ cực như vậy một người chồng như Tú Xương không giúp được nhiều cho bà. Câu thơ cũng nói lên niềm hạnh phúc của một người vợ đảm đang, hi sinh tất cả cho chồng, cho con. Đó như lời Tú Xương nói lên hộ vợ mình vậy.
Ở bà Tú sự đảm đang tháo vát đi liền với đức hi sinh, thể hiện ở việc bất chấp gian khó, chạy vạy buôn bán để nuôi chồng con. Song dường như những lời thơ miêu tả còn chưa đủ, Tú Xương còn bình luận tiếp:

Năm nắng mười mưa dám quản công

Thành ngữ “năm nắng mười mưa” vốn đã có hàm nghĩa chỉ sự gian lao, vất vả nay được dùng trong trường hợp của bà Tú nó còn nổi bật được đức chịu thương, chịu khó hết lòng vì chồng con của bà Tú. Nhưng với bà Tú đó lại là niềm hạnh phúc của một người vợ vì gia đình. Tú Xương đã thay vợ mình nói lên điều này.
==> Trần Tế Xương nói hộ những nỗi thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn đời. Người phụ nữ Việt Nam là vậy, bà Tú Xương là vậy, họ coi “giang sơn nhà chồng” là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác không so đo oán than

Từ khóa tìm kiếm : phân tích hình ảnh bà tú trong bài thương vợ, bà tú trong thương vợ bán gì, phân tích hình ảnh bà tú, phân tích hình ảnh bà tú trong bài thơ thương vợ, phân tích bà tú trong thương vợ, phân tích hình tượng bà tú trong thương vợ, bà tú làm nghề gì, bà tú trong thương vợ là ai, phân tích hình ảnh bà tú trong bài thơ thương vợ của trần tế xương, bà tú vợ trần tế xương, hình ảnh người vợ vất vả, hình ảnh bà tú được gợi lên như thế nào trong hai câu thơ đầu, bà tú buôn bán gì, phân tích bà tú, “tác giả đã sử dụng những hình ảnh nào để khắc họa cuộc đời thân phận của bà tú,” hình ảnh mom sông, phan tich hinh anh ba tu trong tho thuong vo, phân tích hình ảnh của bà tú trong thương vợ, “hình ảnh bà tú được gợi lên như thế nào trong hai câu thơ đầu của bài thơ thương vợ,” phân tích hình ảnh người vợ trong thương vợ, phân tích hình ảnh người phụ nữ trong bài thơ thương vợ, phân tích vẻ đẹp của bà tú trong thương vợ, bà tú bán gì, “vẻ đẹp của người phụ nữ việt nam được thể hiện qua hình ảnh bà tú như thế nào,” phân tích hình ảnh bà tú trong thương vợ, phân tích hình tượng bà tú, phân tích những câu thơ nói lên đức tính cao đẹp của bà tú, hãy tưởng tượng và tái hiện lại hoàn cảnh công việc làm ăn của bà tú, “dòng nào nói không đúng về hình ảnh bà tú được gợi lên trong câu thơ lặn lội thân cò khi quãng vắng,” hình ảnh bài thương vợ, phân tích hình tượng nhân vật bà tú, hình ảnh trần tế xương, hình ảnh bà tú trong bài thơ thương vợ, phân tích hình ảnh bà tú qua bài thơ thương vợ, phân tích thương vợ, hình ảnh của bà tú trong bài thơ thương vợ, bà tú người phụ nữ truyền thống, phân tích vẻ đẹp bà tú, phân tích bài thơ thương vợ,