Tại sao thời đại ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN DUY VẬT ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP DỆT MAY HÀ NỘI

Ngày đăng: 02:48 - 18/11/2019 Lượt xem: 67.983
Cỡ chữ
Nguyễn Thị Thùy
Khoa Khoa học cơ bản
Trường ĐHCN Dệt May Hà Nội
1. Mở đầu
Tư duy biện chứng duy vật có vai trò to lớn đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của sinh viên. Việc nâng cao năng lực tư duy cho sinh viên là vấn đề quan trọng trong tình hình hiện nay, giúp sinh viên có tư duy khoa học trong quá trình học tập và làm việc sau này. Cụ thể là, nó giúp sinh viên khắc phục lối tư duy siêu hình, phiến diện… để có thể xem xét đối tượng một cách đúng đắn, toàn diện; khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ và thái độ định kiến với cái mới; tránh sự phỏng đoán thiếu cơ sở khoa học và nguy cơ rơi vào ảo tưởng; nhìn nhận đối tượng một cách khách quan và khoa học; giúp việc học tập và nghiên cứu các môn khoa học khác có hiệu quả hơn, đồng thời có khả năng gắn kết lý luận với thực tiễn, gắn học với hành, là cơ sở quan trọng để xây dựng năng lực tư duy, nhận thức và giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra một cách đúng đắn.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức, cùng với sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường. Trước thay đổi đó, đòi hỏi sinh viên không những giỏi về chuyên môn mà còn đòi hỏi khả năng vận dụng tri thức khoa học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn một cách hiệu quả nhất. Vì vậy, việc học tập phương pháp luận duy vật biện chứng ngay từ năm thứ nhất của sinh viên nói chung và sinh viên Trường Đại Học Công Nghiệp Dệt May Hà Nội nói riêng phải được đặc biệt chú trọng.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Phương pháp luận và năng lực tư duy biện chứng
Phương pháp là một hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ những tri thức về các quy luật khách quan dùng để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu đã xác định.
Vậy phương pháp luận là gì? Phương pháp luận (Methodology) là lý luận về phương pháp, là hệ thống những quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn. Trong đó quan trọng nhất là các nguyên lý có quan hệ trực tiếp với thế giới quan, có tác dụng định hướng việc xác định phương hướng nghiên cứu, tìm tòi, lựa chọn và vận dụng phương pháp.
Theo từ điển triết học, khái niệm năng lực được hiểu: “Năng lực là khả năng và điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có, là tổng hợp những phẩm chất tâm - sinh lý tạo cơ sở và khả năng hình thành một hoạt động nào đó; năng lực là tổng hợp những phẩm chất tâm - sinh lý của con người khiến cho nó thích hợp với một loại hình nghề nghiệp nhất định đã hình thành trong lịch sử”.
“Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng, trừu tượng hóa, khái quát hóa và xử lí tri thức trong quá trình phản ánh, tái tạo, phát triển và vận dụng chúng vào những tình huống thực tiễn nhất định” [1; tr18]. Năng lực tư duy giữ vai trò quan trọng trong nhận thức khoa học; là khả năng nắm bắt và vận dụng những tri thức vào cuộc sống; là năng lực phản ánh bằng liên tưởng, phát hiện và xử lí thông tin trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể; là một lực lượng tinh thần đang nhận thức, một cơ chế đang vận động, sự tổng hợp của các quy luật tư duy trên cơ sở quy luật của đời sống hiện thực...
Năng lực tư duy biện chứng là một bộ phận cấu thành năng lực tư duy, nó có vai trò đặc biệt quan trọng đối với chủ thể nhận thức và hoạt động. Năng lực tư duy biện chứng đòi hỏi chủ thể nhận thức không chỉ có tri thức khoa học sâu rộng mà còn phải biết vận dụng linh hoạt, mềm dẻo những tri thức đó vào giải quyết những vấn đề cụ thể trong cuộc sống. Nhưng để có khả năng vận dụng những tri thức chung nhất của phép biện chứng duy vật vào giải quyết những vấn đề cụ thể, đòi hỏi chủ thể nhận thức phải hiểu biết sâu sắc và nắm vững được phép biện chứng duy vật. Có như vậy mới hình thành được năng lực tư duy biện chứng.
Như vậy, năng lực tư duy biện chứng là tổng hợp tất cả các phẩm chất của tư duy ở trình độ cao, khoa học nhằm giải quyết những vấn đề nhận thức và thực tiễn đang đặt ra một cách đúng đắn, kịp thời, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả nhất. Muốn vậy chủ thể tư duy phải: Nắm vững các nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật và vận dụng linh hoạt, sáng tạo những nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật vào nhận thức và giải quyết những vấn đề bức thiết của thực tiễn đặt ra.
Nâng cao năng lực tư duy biện chứng thực chất là nâng cao trình độ hiểu biết về tư duy biện chứng duy vật và vận dụng các phương pháp của tư duy biện chứng duy vật để giải quyết những vấn đề nhận thức và thực tiễn đang đặt ra.Thực tiễn đang đòi hỏi sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên Trường Đại Học Công Nghiệp Dệt May Hà Nội nói riêng phải nỗ lực học hỏi để nâng cao năng lực tư duy biện chứng duy vật góp phần vào việc hình thành tư duy lí luận khoa học cho sinh viên, làm cơ sở động lực cho nhận thức và hành động. Từ đó, giúp sinh viên học tập và nghiên cứu khoa học tốt hơn, nhìn nhận, đánh giá vấn đề đầy đủ, chính xác, biện chứng, sáng tạo và linh hoạt vào các hoạt động của thực tiễn ngành nghề cụ thể.
2.2. Vai trò của phương pháp luận và vai trò năng lực tư duy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của sinh viên
Vai trò của phương pháp luận triết học đối với nhận thức và thực tiễn thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng; lựa chọn và vận dụng các phương pháp để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn; đóng vai trò định hướng trong quá trình tìm tòi, lựa chọn và vận dụng phương pháp. Với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó, triết học đóng vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử. Trang bị thế giới quan đúng đắn mới chỉ là một mặt của triết học Mác - Lênin. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Phương pháp luận của triết học Mác - Lênin đã góp phần quan trọng chỉ đạo, định hướng cho con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Khi khẳng định vai trò của tư duy đối với nhận thức và cải tạo thế giới, V.I.Lênin đã khẳng định: “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan” [7, tr.228]. Điều này cho thấy, một mặt, thông qua hoạt động tư duy, con người có thể nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan; mặt khác, thông qua hoạt động thực tiễn, con người có thể cải biến hiện thực khách quan theo những lợi ích của mình. Cũng từ đó, có thể khẳng định tư duy khoa học, năng lực tư duy khoa học có vai trò quan trọng đối với cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn. Năng lực tư duy biện chứng sẽ giúp cho sinh viên rất nhiều trong quá trình học tập cũng như công tác sau này:
Thứ nhất,luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa học, sáng tạo. Tư duy biện chứng sẽ giúp sinh viên cái nhìn toàn diện, phân biệt tri thức đúng, sai; chỉ ra nguyên nhân cái sai, và khẳng định, phát triển tri thức đúng đắn. Sinh viên tự học, tự nghiên cứu, giải thích thực tiễn biến đổi, đưa ra những giải pháp mà thực tiễn đặt ra…
Thứ hai,có phương pháp học tập, làm việc đúng đắn; sinh viên không còn phải học vẹt, học tủ; mà học hiểu, biết vận dụng, biết đánh giá và sáng tạo ra tri thức mới.
Thứ ba,loại bỏ tư duy siêu hình, cứng nhắc, bảo thủ, trì trệ...
2.3. Nội dung cơ bản rèn luyện phương pháp luận biện chứng duy vật cho sinh viên
Sinh viên có rèn luyện năng lực tư duy qua nhiều môn học, nhưng cơ bản và nền tảng là rèn luyện phương pháp luận biện chứng trong môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin 1.
Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật bao gồm: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật; Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật; Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật; Lý luận nhận thức duy vật biện chứng [2, tr.61-124]. Từ những nội dung này, sinh viên phải biết phương pháp luận được rút ra là gì để vận dụng trong cuộc sống, lao động, học tập của sinh viên. Do đó, rèn luyện phương pháp luận biện chứng duy vật cho sinh viên là rèn luyện các nội dung cơ bản sau:
Một là,rèn luyện cho sinh viên có quan điểm toàn diện trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm toàn diện đòi hỏi sinh viên nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Trong hoạt động thực tế, sinh viên phải sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động vào đối tượng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Mặt khác, chúng ta cần giúp cho sinh viên có thể nhận diện và phê phán quan điểm phiến diện, quan điểm chiết trung, ngụy biện.
Hai là,rèn luyện cho sinh viên có quan điểm lịch sử – cụ thể trong nhận thức và hành động. Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi sinh viên trong nhận thức và xử lý các tình huống, giải thích các hiện tượng cần phải xét đến tính đặc thù của đối tượng nhận thức. Khi nhận thức sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể mà trong đó sự vật sinh ra, tồn tại, phát triển. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của từng mối liên hệ cụ thể, trong tình huống cụ thể.
Ba là,rèn luyện cho sinh viên có quan điểm phát triển trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Quan điểm phát triển đòi hỏi sinh viên không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại của sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng; phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi, khuynh hướng chung là phát triển đi lên, tức phải thấy được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó. Sinh viên phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật thành từng giai đoạn, từ đó có cách tác động phù hợp thúc đẩy sự vật phát triển. Cần giúp sinh viên nhận diện và phê phán quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến trong nhận thức và hành động.
Bốn là,rèn luyện phương pháp luận biện chứng qua nghiên cứu phương pháp luận rút ra từ các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật: cái riêng và cái chung, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực.
Năm là,rèn luyện phương pháp luận biện chứng qua nghiên cứu những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.Với quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, giảng viên cần rèn luyện cho sinh viên trong nhận thức và hành động phải biết đi từ những tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất, cách thức tích lũy về lượng (tăng về số lượng, thay đổi cách sắp xếp các yếu tố cấu thành, hay cả hai), phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy thông qua vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Cần khắc phục hai tư tưởng trái ngược nhau là tư tưởng tả khuynh (nôn nóng, bất chấp quy luật, chủ quan duy ý chí) và tư tưởng hữu khuynh (bảo thủ, trì trệ). Với quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, giảng viên cần rèn luyện cho sinh viên hiểu sâu sắc rằng, để nhận thức đúng đắn bản chất của sự vật, hiện tượng và tìm ra phương hướng, giải pháp hiệu quả thì phải nghiên cứu, phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật; phải xem xét sự vật trong thể thống nhất những mặt (nét tương đồng), những khuynh hướng trái ngược nhau, tìm ra những mặt đối lập và những mối liên hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó; phải biết phân loại mâu thuẫn để đưa ra phương pháp đấu tranh cho phù hợp (tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật phát triển). Đối với quy luật phủ định của phủ định, giảng viên cần rèn luyện cho sinh viên nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật là đường “xoáy ốc”, hiểu rõ quá trình phát triển của sự vật không phải lúc nào cũng đi theo đường thẳng, mà nhiều khi diễn ra quanh co, phức tạp, bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau và ở mỗi chu kỳ này, sự vật có những đặc điểm riêng biệt, nên phải có cách tác động phù hợp, phải biết ủng hộ cái mới, đồng thời kế thừa có chọn lọc những cái vốn có tinh hoa của cái cũ…
Sáu là,rèn luyện phương pháp biện chứng cho sinh viên nghiên cứu nội dung Lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Cần rèn luyên sinh viên nắm vững quan điểm thực tiễn, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều. Nhận thức là một quá trình, lặp đi lặp lại không có điểm dừng: từ thực tiễn tới nhận thức – từ nhận thức lại trở về thực tiễn – từ thực tiễn tiếp tục quá trình nhận thức và loài người càng tiến dần đến chân lý. Sinh viên phải nhận thức được chân lý là khách quan, chống những quan điểm chủ quan cho rằng chân lý là thuộc về kẻ mạnh, chân lý thuộc về đa số, chân lý là lý lẽ hợp lý, chân lý gắn với lợi ích…; phê phán chủ nghĩa tuyệt đối và chủ nghĩa tương đối, cần xác định chân lý vừa mang tính tương đối, vừa mang tính tuyệt đối và chân lý là cụ thể. Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể ở mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất định [6, tr.364]. Phương pháp luận biện chứng phải được xét trên lập trường duy vật, nên phải chú ý phần thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
2.4. Vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để nâng cao năng lực tư duy cho sinh viên trường Đại Học Công Nghiệp Dệt May Hà Nội
Sinh viên trường trường Đại Học Công Nghiệp Dệt May Hà Nội với đặc thù là học khối tự nhiên – năng khiếu - nghề - giới tính hơn 80% sinh viên là nữ. Vì vậy khi học thế giới quan và phương pháp luận triết học của học phần những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, họ chỉ mới biết học thuộc lòng những gì giảng viên truyền đạt. Sinh viên hưa hiểu sâu sắc bản chất của những tri thức đã học để có thể rút ra được ý nghĩa thực tiễn, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào từng hoàn cảnh cụ thể trong học tập và sinh hoạt.
Sinh viên chưa thật sự xác định đúng đắn tầm qun trọng của môn học, cho rằng đây là môn học chung, môn học phụ, tri thức khô khan, khó hiểu, không thiết thực với cuộc sống, học cũng không giúp gì cho chuyên môn của họ. Vì thế, nhiều sinh viên không hứng thú, say mê học tập, coi việc học nó là bắt buộc, gò ép, chống đối, có thái độ học tập chưa nghiêm túc nên két quả học tập còn thấp, chủ yếu đạt điểm trung bình và trung bình khá, kết quả khá, giỏi rất ít.
Một số sinh viên còn phạm phải sai lầm khi vận dụng các nguyên tắc của phép biện chứng duy vật vào học tập và nghiên cứu khoa học. Nghĩa là năng lực tư duy biện chứng của họ còn hạn chế, điều đó đã làm cho nhiều sinh viên hiện nay không hiểu và nắm vững nguyên tắc khách quan nên trong cách nghĩ, cách làm của họ còn biểu hiện sự liều lĩnh, vội vàng không xuất phát từ hoàn cảnh thực tế, điều kiện hiện có của gia đình, của bản thân nên rơi vào ảo tưởng.
Khắc phục những hạn chế trên việc vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để nâng cao năng lực tư duy cho sinh viên trường Đại Học Công Nghiệp Dệt May Hà Nội yêu cầu:
Thứ nhất, giảng viên trang bị tri thức đầy đủ về phương pháp luận biện chứng duy vật cho sinh viên. Cần tập trung cho sinh viên nắm vững phương pháp luận được rút ra từ lý luận phép biện chứng duy vật: quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển, quan điểm thực tiễn; phương pháp luận được rút ra từ các cặp phạm trù, các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật… Trong quá trình giảng dạy cần so sánh, phân tích lý luận, nêu vấn đề cho sinh viên giải quyết, sau đó kết luận. Chẳng hạn: Vì sao sự phát triển diễn ra theo đường “xoáy ốc” mà không theo đường thẳng hoặc theo vòng tròn khép kín? Cần đưa ra những cứ liệu cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy để chứng minh.
Thứ hai, giảng viên luyện tập cho sinh viên các phương pháp biện chứng thông qua thực tiễn cách mạng, trong cuộc sống đầy biến đổi không ngừng….Ví dụ: Đảng ta đã vận dụng nguyên tắc khách quan trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam như thế nào? Sinh viên có thể chỉ ra sự vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật như thế nào qua câu nói của Hồ Chí Minh: “… Nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ” [4, tr.479]; “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” [5, tr.234]; hay tìm những câu thơ, tục ngữ, ca dao, danh ngôn phản ánh tư tưởng triết học duy vật biện chứng. Cho một ví dụ trong thực tiễn để làm rõ sự vận động, phát triển của sự vật chịu tác động đồng thời cả ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật; Hay sau khi hoàn thành công việc đồng áng, chị Hà tranh thủ đi thay khóa quần. Sau khi thợ thay xong, chị hỏi cô thợ may: “Hết bao nhiêu tiền để chị trả”. Cô thợ may trả lời: “Dạ, ba mươi ngàn đồng thưa chị”. Chị Hà giãy nảy: “Sao đắt thế? Cách đây vài tháng cô lấy hai mươi ngàn đồng thôi mà”. cô thợ may phân trần: “Thưa chị, dạo này mọi chi phí đều tăng lên gấp đôi, từ lương thực, xăng dầu, tiền điện,tiền nước, tiền thuê cái quán này cũng tăng lên chị à”. Chị Hà tỏ vẻ bực bội: “Giá lương thực, điện nước, xăng dầu, thuê quán đúng là tăng cao nhưng mà có liên quan gì đến việc thay khóa đâu? cô “chém” đắt quá!”. Nói vậy nhưng Chị Hà vẫn móc ví trả tiền. chị ra về mà trong lòng vẫn ấm ức. Chứng kiến câu chuyện của Chị Hà từ đầu tới cuối, sinh viên A cho rằng lập luận của cô thợ may rất biện chứng còn lập luận của Chị Hà thì mang tính siêu hình. Anh (chị) có đồng ý với ý kiến của sinh viên A không? Tại sao?
Thứ ba,giảng viên định hướng cho sinh viên có ý thức tự vận dụng phương pháp luận biện chứng trong quá trình học tập, trong cuộc sống bản thân. Muốn nâng cao năng lực tư duy sinh viên cần nắm vững, áp dụng triệt để phương pháp luận biện chứng duy vật trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Ví dụ: Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích một hiện tượng hóa học, vật lý…; Vận dụng quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể trong quá trình học tập của bản thân cấp 1, cấp 2, cấp 3 (kiến thức, độ tuổi). Trong quy luật phủ định của phủ định có thể định hướng cho sinh viên vận dụng tính kế thừa của phủ định biện chứng trong cuộc sống, học tập của sinh viên; Hoặc bản thân sinh viên cần kế thừa như thế nào về truyền thống văn hóa dân tộc (ví dụ chiếc áo dài, tư tưởng yêu nước, tư tưởng trung với vua hiếu với dân)? Giải thích hiện tượng quả trứng – con gà – quả trứng? Dựa vào phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để rèn luyện đạo đức bản thân. Sinh viên phải nhận thức được bất cứ kết quả nào cũng có nguyên nhân của nó, từ đó sinh viên có ý thức làm việc thiện, tránh việc ác. Luyện tập cho sinh viên biết vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật vào trong thực tiễn, cuộc sống thông qua những vấn đề: Hãy vận dụng phương pháp luận rút ra từ mối liên hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Ví dụ: Yêu cầu sinh viên giải thích tại sao cùng một môn học kiến thức như nhau nhưng bạn A lại có kết quả học thi cao hơn bạn B? Tại sao cùng sản phẩm áo sơ mi nhưng khi bán trên thị trường doanh nghiệp A lại thu được nhiều vốn hơn doanh nghệp B? Hoặc, vận dụng phương pháp luận biện chứng giải thích quan điểm sau: “Sản phẩm dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng tâm lý thích đổi mới, độc đáo của người tiêu dùng. Bên cạnh đấy nhãn mác sản phẩm cũng có ý nghĩa rất lớn đối với tiêu thụ sản phẩm. Người tiêu dùng thường căn cứ vào nhãn mác để đánh giá chất lượng sản phẩm”. Hay, trên cơ sở nội dung phương pháp luận quy luật phủ định của phủ định, anh (chị) hãy nêu một ví dụ trong lĩnh vực may mặc để chứng minh khuynh hướng phát triển của sự vật hiện tượng là vận động đi lên cái mới ra đời thừa kế và thay thế cái cũ?
Thứ tư, giảng viên thường xuyên kiểm tra, đánh giá phương pháp biện chứng cho sinh viên. Có thể kiểm tra bài tập về nhà thông qua thảo luận nhóm, kiểm tra kiến thức bằng câu hỏi ngắn, bài tập trắc nghiệm, hay giải thích một hiện tượng nào đó trong cuộc sống. Ví dụ: Giải thích có hiện tượng học giỏi mà thi trượt đại học trên cơ sở lý luận phép biện chứng duy vật? Hoặc, hãy dựa vào quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử – cụ thể để phân tích nguyên nhân thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Hoặc, dựa vào quan điểm phát triển phân tích quá trình chế tạo máy may, điện thoại… của con người trong lịch sử?
3. Kết luận
Năng lực tư duy biện chứng là sức mạnh không thể thiếu được của mỗi con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, là đòi hỏi bắt buộc ở mỗi người trong quá trình tiến hành nhiệm vụ nhận thức và cải tạo thế giới khách quan, là đòi hỏi của thực tiễn xã hội đối với sinh viên trường Đại học công nghiệp Dệt May trong giai đoạn hiện nay. Để nâng cao năng lực tư duy của sinh viên thông qua rèn luyện phương pháp biện chứng duy vật, giáo viên cần xác định trọng tâm, nắm vững nội dung và phương pháp dạy học, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, thường xuyên kiểm tra sinh viên dưới nhiều hình thức, định hướng vận dụng trong cuộc sống bản thân. Rèn luyện phương pháp biện chứng duy vật cho sinh viên, sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng năng lực nhận thức biện chứng, nâng cao năng lực tư duy biện chứng và giải quyết tốt các vấn đề cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa học của sinh viên sau khi ra trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Bá Thâm (1994). Bàn về năng lực tư duy. Tạp chí Triết học, số 2, tr 8-12.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), “Giáo Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII”, Nxb GP - CXBIPH.
4. Hồ Chí Minh (1974), “Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ”, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh (1996), “Toàn tập, t.5”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. V.I.Lênin (1977), “Toàn tập, t.42”, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
7. V.I.Lênin (1981), “Toàn tập, t.29”, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

Vận dụng phép biện chứng duy vật trong quá trình xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngày đăng: 18/03/2019 03:35
Mặc định Cỡ chữ
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã trải qua hơn ba mươi năm, đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, đã, đang và sẽ đem lại những thay đổi lớn lao cho đất nước và dân tộc. Kết quả quan trọng đó có phần quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của triết học mác xít, trong đó có phép biện chứng duy vật vào xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới.
Ảnh minh họa: internet

Phép biện chứng duy vật là một học thuyết khoa học, là linh hồn của chủ nghĩa Mác, là đỉnh cao của tư duy khoa học mà nhân loại đã đạt được thông qua bộ óc thiên tài của C.Mác vào giữa thế kỷ XIX. Sau đó đã được Ph.Ăngghen bổ sung và hoàn thiện vào cuối thế kỷ XIX và V.I.Lênin phát triển trong điều kiện cách mạng mới vào đầu thế kỷ XX. Sau khi tiếp thu, nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy được hạt nhân của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là Phép biện chứng duy vật với nhận xét rất cô đọng: “chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”(1). Trên cơ sở nắm chắc nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật và nhận thức rõ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng một cách sáng tạo để giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam; đồng thời, Người đặt ra yêu cầu đối với những người cộng sản là phải hiểu biết chắc chắn về phép biện chứng duy vật để vận dụng vào việc phân tích và giải quyết các vấn đề của thực tiễn cách mạng. Có thể nói, với tài năng thiên bẩm của mình, trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sẵn yếu tố duy vật biện chứng nên khi đến với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thì tự nhiên tư duy đó đã thấm nhuần phép biện chứng duy vật một cách khoa học, như Người đã khái quát trong tác phẩm Thường thức chính trị (1950): “Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành”. Người đã sử dụng vũ khí sắc bén đó để giải quyết mọi vấn đề khó khăn, phức tạp trên con đường lãnh đạo cách mạng Việt Nam để giành lấy độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội theo con đường mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra.

Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, thế giới vật chất tồn tại khách quan, các sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động và biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau, cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Do các sự vật và hiện tượng trong thế giới luôn có sự vận động, biến đổi thường xuyên, nên tư duy con người cũng phải luôn luôn đổi mới để theo kịp sự vận động, biến đổi đó, như Ph.Ăngghen đã viết trong tác phẩm Chống Đuy rinh: “Phép biện chứng… là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”, “là chìa khóa để giúp con người nhận thức và chinh phục thế giới”. Cho nên khi xây dựng đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định trước hết đổi mới tư duy cho cán bộ, đảng viên về cả phương pháp tư duy; nhận thức lý luận; cơ chế, chính sách. Phép biện chứng duy vật chính là công cụ hữu hiệu giúp Đảng ta giải quyết thấu đáo ba vấn đề lớn liên quan đến đường lối đổi mới từ năm 1986 đến nay.

1. Cơ sở để Đảng ta đề ra đường lối đổi mới

1.1 Kinh nghiệm tiến hành đổi mới của Đảng Cộng sản Liên Xô

Tính chất chủ quan, nóng vội, vi phạm các quy luật khách quan trong quá trình lãnh đạo đất nước (nhất là trên lĩnh vực kinh tế) là đặc điểm nổi bật trong quá trình đổi mới của Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1921, sau 4 năm thực hiện chính sách “Cộng sản thời chiến” để huy động sức người, sức của phục vụ cho chiến tranh, V.I.Lênin đã nhận ra những thiếu sót, khuyết điểm của Đảng Cộng sản Liên Xô là tư tưởng tả khuynh, nóng vội khi cho rằng có thể tiến ngay lên chủ nghĩa cộng sản nên ông đã kịp thời đưa ra chính sách kinh tế mới (NEP). Chính sách NEP của Đảng Cộng sản Liên Xô thể hiện rõ quan điểm duy vật biện chứng trong giải quyết những mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là, phải vận dụng đúng quy luật khách quan giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, phải đổi mới phương thức quản lý kinh tế, cơ cấu lại các thành phần và loại hình kinh tế trong các ngành nghề để phát triển sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phát triển kinh tế - xã hội… Sau 3 năm thực hiện NEP đã giúp cho nền kinh tế Liên Xô phục hồi nhanh chóng và tạo đà phát triển mạnh mẽ.

Tuy nhiên, sau khi V.I.Lênin qua đời (năm 1924) những người lãnh đạo trong Đảng Cộng sản Liên Xô đã thay thế chính sách NEP bằng chủ trương xóa bỏ chế độ tư hữu, đẩy mạnh phong trào tập thể hóa nông nghiệp và thực hiện quốc hữu hóa toàn bộ các ngành công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải…; tiến hành quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xóa bỏ kinh tế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp một cách bình quân… và họ coi đó là một sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện của nước Nga Xô viết. Có thể thấy, cơ chế quản lý tập trung cao độ khi đó cũng đã phát huy được sức mạnh của nhân dân bằng mệnh lệnh để phát triển kinh tế và tăng cường tiềm lực quân sự, quốc phòng để Hồng quân Liên Xô đánh bại quân đội phát xít giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, làm cho uy tín của phe xã hội chủ nghĩa lên cao kéo dài đến tận những năm 80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, điều đó cũng khiến các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô chủ quan, ngộ nhận rằng chủ nghĩa xã hội đã hoàn toàn thắng lợi và đưa ra lý luận về chủ nghĩa xã hội phát triển, đồng thời tuyên bố có thể đi lên chủ nghĩa cộng sản ở thời điểm đó. Cùng thời điểm này, các nước tư bản chủ nghĩa đã biết tự điều chỉnh để thích nghi, tận dụng triệt để những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, đưa nền kinh tế của họ vượt xa các nước xã hội chủ nghĩa.

Thực tế đó đã tác động mạnh mẽ đến đời sống của nhân dân Liên Xô, làm nảy sinh tư tưởng cải cách, đổi mới trong một số nhà lãnh đạo cấp tiến bấy giờ và khi M.X.Gorbachov lên làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô đã chính thức đề ra công cuộc “cải tổ”. Nhưng thay vì thực hiện việc cải cách theo tinh thần của NEP do V.I.Lênin đề ra trước kia, Đảng Cộng sản Liên Xô lại bị những người lãnh đạo theo chủ nghĩa cơ hội, lợi dụng để “cải tổ” theo hướng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, thực hiện mở rộng dân chủ theo kiểu đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập của phương Tây… làm cho trào lưu dân chủ vô chính phủ phát triển tràn lan, vô nguyên tắc dẫn đến xã hội rối ren, nảy sinh nhiều phe phái tranh giành quyền lực và lợi ích. Thêm vào đó, họ bị các thế lực thù địch, phản động mua chuộc, lợi dụng, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” hòng làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội, phục hồi con đường tư bản chủ nghĩa.

Kết cục của sự nghiệp “cải tổ” là, năm 1991 chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bị tan rã. Đây là thất bại to lớn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng cũng để lại bài học, kinh nghiệm sâu sắc cho những người cộng sản chân chính trong bảo vệ và kiên trì cuộc đấu tranh cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn trung thành và nắm vững quan điểm duy vật biện chứng trong quá trình thực hiện đổi mới. Cần khẳng định rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải là thất bại, sai lầm của của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng. Nhiều học giả ở các nước tư bản chủ nghĩa còn khẳng định rằng, điều đó là minh chứng cho thấy chủ nghĩa Mác - Lênin là đúng đắn, chỉ có những người cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã không hiểu đúng, không vận dụng đúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng.

1.2 Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Nhờ nắm vững phép biện chứng duy vật mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn để lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á (năm 1945); sau đó qua 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lập lại hòa bình ở miền Bắc, Đảng ta đã tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (năm 1954), đồng thời lãnh đạo đấu tranh chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Trải qua 30 năm kiên trì kháng chiến, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thống nhất đất nước, Đảng ta chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (năm 1975). Trước ảnh hưởng của hệ thống xã hội chủ nghĩa và uy tín của Liên Xô lúc bấy giờ, chúng ta đã rập khuôn theo mô hình Xô viết vào Việt Nam một cách máy móc, thiếu sự sáng tạo nên mặc dù cố gắng vận dụng phép biện chứng duy vật vào thực tiễn cách mạng. Đảng ta đã nhận thức được đặc điểm to lớn của Việt Nam là xuất phát điểm quá thấp, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, lại bị ảnh hưởng nặng nề từ chiến tranh… nhưng trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta đã nôn nóng, đốt cháy giai đoạn như: đẩy quan hệ sản xuất lên trước một bước, đẩy nhanh việc cải tạo giai cấp tư sản, đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp, đưa hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao một cách ồ ạt…; quản lý kinh tế bằng phương pháp tập trung, quan liêu, kế hoạch hóa, xóa bỏ thị trường, phân phối bao cấp một cách tràn lan; bộ máy nhà nước quan liêu, xa rời quần chúng… đã đưa đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, lạm phát kéo dài, sản xuất đình trệ, đất nước bị bao vây, cấm vận về kinh tế, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa bị suy giảm nghiêm trọng. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cấp bách là phải tiến hành cải cách, đổi mới trong quản lý kinh tế - xã hội.

Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra chủ trương “đổi mới” một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”(2).

Dưới góc độ duy vật biện chứng có thể nhận thấy đổi mới là một tất yếu lịch sử trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là một chiến lược cách mạng, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa nước ta đi vào đúng quỹ đạo, theo đúng quy luật khách quan của lịch sử.

2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới

Về lý luận: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (năm 1991) đã khẳng định rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”. Bởi vì, chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng; chỉ ra quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người tất yếu sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vạch ra đường lối đúng đắn cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới đứng lên làm cách mạng để giải phóng cho mình và cho cả nhân loại thoát khỏi áp bức bóc lột. Chủ nghĩa xã hội là lý tưởng cao đẹp mà loài người mơ ước còn chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận soi đường, hướng dẫn cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động tìm thấy con đường cách mạng, biến ước mơ đó trở thành hiện thực.

Về thực tiễn: sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trên thực tế chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực dẫn tới hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới bị tan rã chỉ là nhất thời, vì xu thế tất yếu của lịch sử nhân loại vẫn đang hướng tới một xã hội văn minh, tiến bộ hơn mà ở đó con người được giải phóng một cách triệt để, tự do phát triển một cách toàn diện. Do đó, không thể đồng nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu; hay đồng nhất sự tan rã của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu với sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Ngày nay chủ nghĩa tư bản vẫn đang trong quá trình tự điều chỉnh để thích nghi và phát triển trong điều kiện mới với những đặc điểm nổi bật như: toàn cầu hóa, kinh tế tri thức, tiến bộ vượt bậc của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư… Song những đặc điểm đó ngày càng khoét sâu mâu thuẫn nội tại cơ bản của chủ nghĩa tư bản mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra, đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân của quan hệ sản xuất. Những giải pháp mà chủ nghĩa tư bản đang sử dụng để duy trì sự tồn tại dần vượt khỏi giới hạn thích nghi của nó. Chính những phương tiện mà chủ nghĩa tư bản tạo ra để duy trì sự tồn tại của mình lại là “cỗ xe không phanh” đang trên đà lao dốc đưa chủ nghĩa tư bản đến chỗ tự phủ định chính mình - Đó chính là biện chứng khách quan của lịch sử. Hay hiểu theo quan điểm biện chứng duy vật thì chủ nghĩa tư bản hiện đại đang “thai nghén” chủ nghĩa xã hội với những tiền đề vật chất và những yếu tố thuận lợi cho chủ nghĩa xã hội nảy sinh và phát triển ngay trong lòng nó. Điều này rất đúng với các nước tư bản phát triển cao. Nhưng các nước này không thể tự phát chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội được mà phải thông qua cuộc cách mạng xã hội của quần chúng nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh đạo thì mới có thể lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản.

Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn diễn ra gay gắt. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc và các nước thuộc địa trước đây đã chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển và giữa các nước đế quốc, các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn vẫn đang diễn ra gay gắt vì mục tiêu lợi nhuận. Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động ở trong từng quốc gia và trên phạm vi quốc tế đang ngày càng được mở rộng, thành cuộc đấu tranh rộng rãi của các tầng lớp nhân dân chống lại giai cấp tư sản vì chủ nghĩa tư bản hiện đại có hiệu suất bóc lột giá trị thặng dư rất cao, với sự hỗ trợ đắc lực của khoa học công nghệ thì máy móc tự động hóa đang dần thay thế lao động chân tay làm cho nhân công ngày càng dư thừa, thất nghiệp… làm cho xã hội ngày càng có sự phân cực rõ rệt, khoảng cách giàu - nghèo ngày càng tăng. Tất cả những đặc điểm mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại không hề làm mất đi bản chất bóc lột, bất công. Vì vậy, Đảng ta đã nhận định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”(3) và “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(4).

3. Giải quyết những mối quan hệ biện chứng trong công cuộc đổi mới

Tổng kết 30 năm qua đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết 8 mối quan hệ lớn, đó là: quan hệ đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Điều đó cho thấy, trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã “bước đầu xác định được mối quan hệ hữu cơ, mối liên hệ nội tại giữa tám mối quan hệ lớn, đáp ứng yêu cầu của phát triển đất nước với sự chi phối và thúc đẩy lẫn nhau giữa các quan hệ. Trong từng mối quan hệ đều có hai mặt thống nhất và mâu thuẫn. Các mối quan hệ không chỉ tác động, chi phối lẫn nhau theo tương tác nhân - quả, mà còn thâm nhập, giao thoa, quy định lẫn nhau. Điều quan trọng trong nhận thức các mối quan hệ là ở chỗ, tất cả các quan hệ đều thống nhất ở mục tiêu phát triển, đều tất yếu thông qua đổi mới, đều phục vụ cho lợi ích cao nhất: phát triển đất nước, vì lợi ích của nhân dân và của dân tộc”(5).

Từ nhận thức về 8 mối quan hệ lớn và mối liên hệ hữu cơ giữa chúng, Đảng ta xác định rõ mục tiêu của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay là: “Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”(6). Điều đó giúp cho chúng ta thấy rõ: “Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân”(7). Thực tiễn của hơn 30 năm đổi mới cho thấy, việc vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề mâu thuẫn nội tại nảy sinh trong quá trình đổi mới là hoàn toàn phù hợp. Trên quan điểm duy vật biện chứng để tổng kết, đánh giá Đảng ta đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm quan trọng làm tiền đề, từ đó xác định phương hướng cho chặng đường tiếp theo của sự nghiệp đổi mới, đó là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương, chính sách xử lý hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta”(8).

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng đặt ra vừa là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật. Để triển khai một cách hiệu quả, đòi hỏi các thế hệ cách mạng hiện nay phải nắm được bản chất của phép biện chứng duy vật, không ngừng học tập và rèn luyện mới có thể vận dụng một cách đúng đắn phương pháp biện chứng duy vật vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra mà không rơi vào ngụy biện, chiết trung… để thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội./.

ThS. Vũ Tuấn - Học viện Kỹ thuật quân sự

-------------------------------------
Ghi chú:
(1) Dẫn theo Hồ Chí Minh truyện, bản dịch Trung văn của Trương Niệm Thức, Bát Nguyệt xuất bản xã, Thượng Hải, tháng 6/1949.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb CTQG-ST, H.1987, tr.30.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.65.
(4),(7),(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.16-17, tr.65, tr.17.
(5),(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb CTQG, H.2015, tr.182, tr.183.

tcnn.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Trong thời đại ngày nay, phải chăng chủ nghĩa Mác-Lênin - tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời?

(ĐCSVN) - Để tăng cường xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị tư tưởng, hơn lúc nào hết, chúng ta phải mài sắc vũ khí tư tưởng lý luận, đấu tranh phản bác các quan điểm tư tưởng phản động sai trái, bảo vệ, kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ở nước ta, công cuộc đổi mới, xét về phương diện lý luận là sự kế thừavà phát triển sáng tạo bản chất tư tưởng cách mạng và khoa học của Mác, Lênin và Hồ Chí Minh .

(Ảnh: Báo Tuổi trẻ online)

1- Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin

Những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, lịch sử nhân loại đã chứng kiến một tổn thất to lớn: Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào. Thực trạng này đặt chủ nghĩa Mác-Lênin trước những thách thức khắc nghiệt của lịch sử. Trong bối cảnh này, cựu Tổng thống Mỹ R.Nixơn - tác giả của chiến lược: "Chiến thắng không cần chiến tranh" cho đây là thời cơ lớn phải "Chớp lấy" để "Chủ động tấn công, cam kết có phân biệt với từng nước, từng khu vực. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa đã tan vỡ và các nước xã hội chủ nghĩa còn lại thì phải thừa thắng tấn tới, tiếp cận, chuyển hóa".

“Diễn biến hòa bình” là chiến lược tiến công của chủ nghĩa đế quốc, nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội mà không cần chiến tranh vũ trang, là cuộc chiến tranh không khói súng. Khâu đột phá của chiến lược này là tấn công trên mặt trận tư tưởng-lý luận nhằm phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phủ định sự lãnh đạo của Đảng; bóp méo, xuyên tạc lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng; bôi nhọ, hạ bệ uy tín của lãnh đạo; phá vỡ niềm tin của nhân dân đối với Đảng; xây dựng "ngọn cờ" cho các tổ chức chính trị đối lập, kích động bạo loạn lật đổ.

Thực hiện âm mưu chiến lược trên, các nhà chính trị và tư tưởng tư sản phản động phối hợp với những phần tử cơ hội chính trị trong nước, thông qua các phương tiện báo chí, xuất bản ở nước ngoài và nhất là trên mạng xã hội, tung ra hàng loạt các quan điểm tư tưởng phản động, sai trái.

Là đỉnh cao trí tuệ của nhân loại, là thế giới quan, phương pháp luận vạch phương hướng đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản, hiện thực mục tiêu giải phóng giai cấp - xóa bóc lột, giải phóng xã hội - xóa áp bức bất công, giải phóng con người mang lại tự do, ấm no hạnh phúc cho mọi con người, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta. Do đó, các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội tập trung chống phá rất điên cuồng với các thủ đoạn thâm hiểm và các luận điệu giả khoa học, xuyên tạc vu khống, mị dân để phê phán, phủ định từ nguồn gốc hình thành, đến phê phán từng nguyên lý, từng bộ phận cơ bản hợp thành, đến phê phán phủ định toàn bộ nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị và "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng ta có nguyên nhân từ âm mưu "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng lý luận của các thế lực thù địch.

Để tăng cường xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị tư tưởng, hơn lúc nào hết, chúng ta phải mài sắc vũ khí tư tưởng lý luận, đấu tranh phản bác các quan điểm tư tưởng phản động sai trái, bảo vệ, kiên định vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Sau sự kiện chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các nhà tư tưởng tư sản tung ra hàng loạt các luận điểm phản động sai trái, tua đi, tua lại một số luận điểm sau đây:

- Sự tận cùng của lịch sử - sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại vĩnh viễn của chủ nghĩa tư bản! (Fukuyama).

- Thuyết về các nền văn minh của Tốphlơ phủ định học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.

- Thuyết về chủ nghĩa tư bản nhân dân, chủ nghĩa tư bản mới phủ định học thuyết giá trị thặng dư…

- Nhiều luận thuyết xuyên tạc và phủ định học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp.

- Một số tài liệu, sách báo, phim ảnh của các tổ chức phản động người Việt ở nước ngoài trong chiến dịch: No Hochiminh! nhằm bôi nhọ, hạ bệ thần tượng và phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tất cả các luận thuyết, các quan điểm, luận điểm sai trái trên đều nhằm mục đích quy kết: Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ có nghĩa là chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời! Bác Hồ đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là nguyên nhân gây ra cảnh huynh đệ tương tàn. Lựa chọn chủ nghĩa xã hội là đưa dân tộc Việt Nam đến chỗ chết!

Để tập trung phản bác các luận điểm phản động, sai trái trên, các chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng cần kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng trên cơ sở thấu triệt những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh:

Sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trước hết là ở hệ thống các quan điểm khoa học của Mác, Ăngghen, Lênin trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Ngày nay, không ít những người chống chủ nghĩa Mác hoặc do những động cơ chính trị vụ lợi, hoặc do sự non kém về tri thức đã không thấy rằng chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là một sản phẩm cá nhân thuần túy mà là sự kế thừa phát triển thiên tài những trào lưu tư tưởng tiên tiến nhất của nhân loại thế kỷ XIX. C.Mác, Ph.Ăngghen đã nghiên cứu và kế thừa kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Hêghen và L.Phơiơbắc. Như Ph.Ăngghen đã nhận định: C.Mác vĩ đại bởi vì ông “biết đứng trên vai của những người khổng lồ", đó là D.Ricacđo, A.Smit, O.Xanhximông, G.Fourier, Ph.Ăngghen và L.Phơiơbắc.

Học thuyết Mác cũng như tất cả các học thuyết khác, chẳng những không thể vượt qua những hạn chế của lịch sử, mà còn có thể có những khiếm khuyết nào đó, song tính bền vững của những tư tưởng Mác-xít so với các tư tưởng khác là ở chỗ nó dựa trên thế giới quan khoa học tức là phép biện chứng duy vật. Đúng như C.Mác đã nói, đối với triết học biện chứng thì không có gì vĩnh viễn không thay đổi, là tuyệt đối cả. Chính Mác, Ăngghen và V.I.Lênin đã nêu một tấm gương lớn về tinh thần khiêm tốn, khoa học. Các ông luôn tự kiểm tra mình, tự phê phán và vượt lên chính mình để vươn tới chân lý khách quan. Sự vận động của lịch sử nhân loại ngày nay đang tiếp tục cung cấp những tư liệu mới cho các quan điểm của Mác về phương thức sản xuất ra của cải vật chất, quyết định sự tồn tại của xã hội. Sự thay đổi của phương thức sản xuất vật chất tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi về cơ cấu giai cấp, cấu trúc kinh tế, nội dung chính trị, đạo đức, lối sống và tư duy của con người. Quan điểm duy vật lịch sử của Mác chẳng những đã lý giải một cách chính xác sự vận động của lịch sử, mà còn là chìa khóa của tương lai học.

Các quan hệ xã hội, dân tộc ngày nay đã thay đổi sâu sắc so với thời đại Mác sống. Đó là điều hiển nhiên. Sự thay đổi đó không phải chỉ do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, do sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại, mà còn do ảnh hưởng to lớn của chủ nghĩa xã hội, hiện thực của sự phát triển ý thức dân tộc. Tuy nhiên, điều đó không làm cho những tư tưởng của Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về dân chủ và nhà nước… trở nên lạc hậu. Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội và sự sụp đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa ở một số nước, một mặt nói lên rằng, một khi xa rời những tư tưởng của Mác tất yếu phải trả giá đắt; mặt khác cũng chứng minh rằng, đấu tranh giai cấp, thiết lập chế độ xã hội do nhân dân làm chủ là con đường hiện thực và tất yếu, nhưng đầy gian khổ để đi đến giải phóng hoàn toàn xã hội. Không thể có con đường nào khác.

Đối với học thuyết kinh tế của Mác, trong khi một số người ra sức bài bác, thậm chí xuyên tạc rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại thay đổi về chất, nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là nhà nước phúc lợi chung, do đó học thuyết của Mác đã trở nên lỗi thời, thì nhiều nhà kinh tế lớn lại dựa vào Mác để phát triển các luận điểm của mình. Thậm chí có nhà kinh tế của chủ nghĩa tư bản nói rằng: Mác là một trong những người khổng lồ đã làm một cuộc cách mạng trong kinh tế học (R.A.Samuenson): "Nếu không có sự phân tích của Mác thì mâu thuẫn trung tâm của chủ nghĩa tư bản (giữa lao động và tư bản), tình trạng bất bình đẳng giữa nước giàu và nước nghèo vẫn sẽ là một thực tế khó hiểu (M.Galô).

Chúng ta không phủ nhận rằng, ngày nay dựa trên việc sử dụng các thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có sự thay đổi. Song nếu phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư, thì sẽ phạm phải sai lầm nghiêm trọng cả về khoa học và chính trị. Cho dù ngày nay, người ta có thể đưa lao động quản lý của nhà tư bản vào cơ cấu của giá trị thặng dư, thì chắc chắn rằng phần đóng góp đó cũng không thể bao gồm toàn bộ giá trị thặng dư. Nếu xóa bỏ khái niệm đó, thì chúng ta, thậm chí không thể giải thích được tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa. Và không thể quên rằng giá trị thặng dư còn phản ánh một phương diện khác của sản xuất, nói chung - đó là, không một nền kinh tế nào muốn phát triển lại không dựa trên sản phẩm thặng dư.

Về mặt chính trị, việc phủ nhận giá trị thặng dư, có nghĩa là không còn lý do nào để xóa bỏ cái cơ cấu xã hội đang đè nặng lên hơn 90% nhân loại. Thái độ đúng đắn là tiếp tục sự nghiệp của Mác, bằng hoạt động khoa học và thực tiễn, tìm kiếm các giải pháp, bước đi thích hợp, từ hạn chế đi đến xóa bỏ sự bóc lột, đồng thời vẫn duy trì các động lực của sự phát triển.

Theo Mác, chủ nghĩa cộng sản ra đời không ngoài quá trình lịch sử tự nhiên. Đó là sự phủ định biện chứng, chứ không phải là phủ định siêu hình chủ nghĩa tư bản. Học thuyết Mác đề cao vai trò tích cực của con người - trước hết là sự nhận thức các quy luật khách quan. Tiếp thu tư tưởng của Mác, Lênin đã chỉ rõ biện chứng cách mạng là bản chất học thuyết Mác. Theo Người, giai cấp công nhân và nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức có thể tiến hành các cuộc cách mạng để giành lấy những tiền đề cho một sự phát triển ngắn hơn, ít đau khổ hơn con đường tư bản chủ nghĩa.

Nội dung, tính chất một số vấn đề đang đặt ra đối với sự nghiệp cách mạng ngày nay đã khác với thời đại Mác sống. Cuộc đấu tranh nhằm giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức chuyển sang một giai đoạn mới với những hình thái mới. Hơn bao giờ hết, nhưng chỉ dẫn của Mác và Lênin về sự đa dạng của loại hình đấu tranh, về khả năng lựa chọn các con đường phát triển và về nhịp độ cải biến xã hội trên con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản lại trở nên hết sức quý báu đối với chúng ta.

Là một học thuyết cách mạng, sức sống của chủ nghĩa Mác còn ở các trào lưu cách mạng hiện thực. Cho dù chủ nghĩa xã hội hiện thực là một mô hình có những khuyết tật và sai lệch so với tư tưởng của Mác, nhưng nó đã có những cống hiến lớn đối với sự phát triển của nhân loại. Mặc dù một loạt nước xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ, song vẫn còn hàng triệu triệu người vững tin ở tương lai của chủ nghĩa xã hội. Ngay ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, sau "cuộc cách mạng nhung", phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh, thắng cử của nhiều Đảng xã hội dân chủ ở châu Âu, một cuộc đấu tranh mới cho lý tưởng cộng sản lại bắt đầu.

Cuộc đấu tranh chống tư bản độc quyền giành quyền dân sinh, dân chủ ở các nước tư bản phát triển cũng như cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc ở các nước nghèo là những trào lưu hình thành do ảnh hưởng của học thuyết Mác - Lênin được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, các trào lưu đó vẫn tồn tại và phát triển. Đó là khuynh hướng lịch sử không thể đảo ngược.

Sức sống của học thuyết Mác đang thể hiện một cách sinh động trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng của những người cộng sản chống lại những biểu hiện mới của chủ nghĩa cơ hội, xét lại, cũng như những biểu hiện mới của chủ nghĩa giáo điều, để bảo vệ và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin.

Ở nước ta, công cuộc đổi mới, xét về phương diện lý luận là sự kế thừa và phát triển sáng tạo bản chất tư tưởng cách mạng và khoa học của Mác, Lênin và Hồ Chí Minh. Tư tưởng xuyên suốt đường lối đổi mới là giải phóng và phát triển - giải phóng và phát triển mọi tiềm năng của đất nước, từng bước hiện thực hóa mục tiêu cao đẹp là phấn đấu để mọi người Việt Nam ai cũng có cơm ăn, ăn no tiến đến ăn ngon; ai cũng có áo mặc, mặc đủ tiến đến mặc đẹp; ai cũng có nhà ở, tiến đến ở khang trang; ai cũng được học hành để không ngừng nâng cao dân trí; ai có bệnh đều được chăm sóc, mọi người sống trong tự do, nhân ái, chan hòa.

Sau sự nghiệp giải phóng dân tộc, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới. Nội dung, tính chất của cuộc đấu tranh cách mạng đã thay đổi về cơ bản. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo nên một cơ chế có động lực mạnh mẽ: kết hợp hài hòa các lợi ích vật chất và nhân đạo hơn quan hệ xã hội; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đảm bảo một xã hội có kỷ cương và thực hiện trên thực tế quyền làm chủ của nhân dân; dân chủ hóa toàn diện xã hội, phát huy mạnh mẽ sức mạnh của cả cộng đồng và sức mạnh của từng con người Việt Nam được giải phóng; thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, hòa hợp dân tộc; đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù; từng bước hoàn thiện mô hình mới của Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

2- Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam

Từ bối cảnh lịch sử dân tộc ta đầu thế kỷ XX, từ sự thất bại của hàng loạt các phong trào yêu nước của các sĩ phu Việt Nam, từ việc người thanh niên ưu tú của dân tộc Nguyễn Tất Thành với lòng yêu nước thương dân nồng nàn, với khát vọng độc lập tự do cháy bỏng, với sự mẫn cảm của một thiên tài trí tuệ quyết định ra đi tìm con đường cứu nước mới. Từ toàn bộ hoạt động cách mạng sôi nổi, hào hùng của Nguyễn Ái Quốc đến Hồ Chí Minh…,chúng ta có thể đi tới một nhận thức sáng tỏ: Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp tinh hoa văn hóa Việt Nam mà cốt lõi là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh hoa văn hóa nhân loại. Sự kết hợp tuyệt với này chính là cuộc gặp gỡ lịch sử của tinh hoa văn hóa, khí phách của dân tộc Việt Nam với đỉnh cao của trí tuệ thời đại.

Từ hệ thống các quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh và trong toàn bộ hoạt động cách mạng của Người, chúng ta nhận thức sâu sắc rằng tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng sáng tạo mà đặc sắc hơn là sự phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam - hoàn cảnh có tính phổ biến của hàng trăm dân tộc trên thế giới bị chủ nghĩa thực dân thống trị. Tìm hiểu những quan điểm tư tưởng lý luận cách mạng của Bác Hồ, chúng ta càng thấm thía sự phát triển sáng tạo và những đóng góp vô giá của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Khi nghiên cứu bản chất và quy luật phát triển của chủ nghĩa tư bản, C.Mác đưa ra khẩu hiệu lịch sử: Giai cấp vô sản toàn thế giới đoàn kết lại; đến V.I.Lênin, khi nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc đã đưa ra khẩu hiệu: Giai cấp vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Với Bác Hồ, từ sự phát hiện và thấu hiểu đòi hỏi bức xúc của dân tộc Việt Nam và hàng trăm dân tộc bị chủ nghĩa thực dân thống trị trong thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, đã đi tới quan điểm tư tưởng: Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Ở đây, độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội.

Trong diễn văn kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Bác, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã nêu bật: Đây là đóng góp lớn nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với hệ tư tưởng Mác - Lênin. Với ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không chỉ mang lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc mà trong từng bước phải mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Độc lập dân tộc là mục tiêu, là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.

Trong chiến lược cách mạng, Mác dự báo khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa đồng thời ở một loạt nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Đến Lênin, trong điều kiện mới đã đưa ra luận điểm: Cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra và thắng lợi ở một vài nước, thậm chí một nước tư bản trung bình nếu nước đó tập trung những mâu thuẫn cơ bản nhất của thời đại, là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc.

Từ sự phát triển cực kỳ quan trọng về chủ nghĩa đế quốc là con đỉa hai đầu, một đầu hút máu nhân dân lao động chính quốc, một đầu hút máu các dân tộc thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo chiến lược cách mạng thế giới khi Người khẳng định: Cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là một bộ phận của cách mạng thế giới. Phong trào giải phóng dân tộc là một trong hai cánh chim. Cách mạng giải phóng dân tộc không thụ động chờ sự giúp đỡ của cách mạng ở chính quốc, mà phải chủ động giành thắng lợi và giúp đỡ hỗ trợ cho phong trào cách mạng ở chính quốc.

V.I.Lênin đã tổng kết nguyên lý hình thành Đảng Cộng sản: Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân. Đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam - ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, đại đa số là nông dân, giai cấp công nhân tuy nhỏ bé nhưng là giai cấp duy nhất gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng, đã đi tới một sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo nguyên lý Đảng kiểu mới của Lênin, xây dựng thành công một Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

Từ sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo này mà ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Từ thực tế cách mạng Việt Nam, Người luôn luôn coi trọng việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, bồi dưỡng, rèn luyện năng lực và phẩm chất cho đảng viên. Nhờ vậy, mặc dù Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa đa số đảng viên không phải là công nhân nhưng bản chất giai cấp công nhân và vai trò tiên phong cách mạng của Đảng vẫn được giữ vững. Và chính trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta trở thành người lãnh đạo duy nhất của dân tộc Việt Nam, được toàn thể dân tộc Việt Nam coi là Đảng của mình, là người lãnh đạo duy nhất của dân tộc mình.

Càng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, càng nhận thức sâu sắc sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin của Người, chúng ta càng kiên định nguyên lý: Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý; cách mạng là sáng tạo, là đổi mới; giáo điều, rập khuôn, máy móc là thất bại.

Di sản quý báu nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam và toàn nhân loại chính là tư tưởng của Người mà bộ phận cốt lõi là hệ thống các quan điểm tư tưởng lý luận cách mạng của Người. Xin được nêu lên những nội dung cơ bản của tư tưởng lý luận cách mạng Hồ Chí Minh.

a) Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng suốt đời chiến đấu vì dân, vì nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đây chính là hệ thống mục tiêu, lý tưởng của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới mà Bác Hồ đã tìm ra.

Hệ thống mục tiêu lý tưởng này được hình thành ở Bác không phải là ngẫu nhiên mà trong những điều kiện lịch sử nhất định: Từ truyền thống tinh hoa văn hóa dân tộc, truyền thống của gia đình, quê hương; từ thực tiễn sôi động của dân tộc và của thế giới đương thời mà Người đã trải qua. Và điều quan trọng đặc biệt là hệ thống mục tiêu lý tưởng này được hình thành đầy đủ hoàn thiện trên cơ sở khoa học khi diễn ra cuộc gặp gỡ lịch sử: Nguyễn Ái Quốc - Người con ưu tú của dân tộc Việt Nam với lòng yêu nước thương dân nồng nàn, với chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mác-Lênin - đỉnh cao trí tuệ của thời đại.

b) Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ tìm ra và xác định được hệ thống mục tiêu lý tưởng cho dân tộc và cách mạng Việt Nam trong thời đại mới mà Người còn tìm ra con đường để thực hiện mục tiêu lý tưởng cao đẹp này - con đường gắn chặt độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không còn con đường nào khác, con đường cách mạng vô sản". Với tư tưởng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa quốc gia và quốc tế, kết hợp được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.

Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là tư tưởng xuyên suốt lịch sử cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay và từ nay về sau.

Để hiểu sâu sắc tư tưởng về con đường cách mạng, con đường giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần nhận thức sân sắc luận điểm vô cùng quan trọng của Bác trong tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Ở đây, độc lập dân tộc là mục tiêu hàng đầu, là điều kiện tiên quyết. Năm 1941, khi về nước cùng Trung ương trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tại Hội nghị Trung ương 8, sau khi phân tích rõ bối cảnh và mâu thuẫn cơ bản chủ yếu nhất của xã hội Việt Nam, Bác Hồ đã khẳng định: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được". Vào đầu năm 1945, khi tình thế thời cơ cách mạng đã xuất hiện, Bác Hồ đi tới quyết định lịch sử: Lúc này dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng quyết giành độc lập cho dân tộc!

Không có gì quý hơn độc lập, tự do không chỉ là mục tiêu hàng đầu, tiên quyết, là phương châm chỉ đạo cuộc đấu tranh giành độc lập mà còn là lời hịch thiêng liêng của lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tiếng gọi thiêng liêng này đã động viên được sức mạnh vĩ đại của toàn dân tộc để giành và bảo vệ cuộc sống của mình. Ngày nay, ý nghĩa và tầm vóc của tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" đã vượt ra khỏi không gian của Việt Nam, được nhiều dân tộc trên thế giới thừa nhận là chân lý của thời đại.

Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt và Điều tệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng - trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, ngay từ Cương lĩnh đầu tiên này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một luận điểm cơ bản: "Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Luận điểm đã chỉ rõ sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với tư cách một chế độ chính trị.

Trong thời gian ngắn lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những quan điểm rất cơ bản và sâu sắc về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Những quan niệm của Bác về chủ nghĩa xã hội như: "Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc", "nước độc lập mà dân không hưởng tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa lý gì", "chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những tập quán không tốt dần được xóa bỏ", "chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây lấy", "chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh".

Những quan niệm cơ bản trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức từng bước hiện thực hóa.

Về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những quan điểm tư tưởng vô cùng quan trọng. Trước hết đó là những luận điểm của Người về điểm xuất phát, đặc điểm lớn nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ: "Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất, sản xuất là mặt trận chính của chúng ta hiện nay"; "sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm". Nhiệm vụ quan trọng nhất là phải xây dựng nền tảng vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội… Có công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có khoa học tiên tiến. "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa", Bác cũng để lại những luận điểm rất quan trọng về các thành phần kinh tế, về phát triển kinh tế quốc doanh làm nền tảng, về quản lý kinh tế và khuyến khích nhân dân làm giàu: Người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn trở thành khá giả và giàu có, người giàu có thì giàu có hơn… Những tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

c) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho cách mạng Việt Nam sự sáng tạo vĩ đại về phương pháp cách mạng. Sau khi có đường lối cách mạng đúng rồi thì phương pháp cách mạng có vai trò quyết định đối với thành bại của cách mạng.

Tư tưởng về phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh rất phong phú và sâu sắc. Có thể tiếp cận hai phương pháp cách mạng rất cơ bản sau đây:

Phương pháp tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp được thể hiện trong cuộc chiến đấu giành độc lập và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đó là việc tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp của bạo lực chính trị của quần chúng kết hợp với bạo lực vũ trang, sức mạnh của truyền thống kết hợp với sức mạnh của hiện đại, sức mạnh của dân tộc kết hợp sức mạnh của quốc tế; toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến; đánh địch trên ba mặt trận, ba mũi giáp công, ba vùng chiến lược…

Ngày nay, trong xây dựng kinh tế, phát huy nền kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là phương pháp tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế.

Tư tưởng của Người về phương pháp cách mạng biết thắng từng bước tiến tới thắng lợi hoàn toàn thể hiện trong hai cuộc kháng chiến: Đánh bại từng bước, đánh thắng từng âm mưu, đánh đổ từng bộ phận, tiến lên giành thắng lợi, hoàn toàn.

"Đánh cho Mỹ cút

Đánh cho ngụy nhào

Tiến lên chiến sỹ, đồng bào

Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn"

d) Chủ tịch Hồ Chí Minh, không những là nhà tư tưởng vĩ đại mà còn là nhà tổ chức thiên tài. Bác đã để lại hệ thống các quan điểm tư tưởng về lực lượng cách mạng và xây dựng các tổ chức cách mạng. Đó là những tư tưởng lớn của Người về Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng kiểu mới; tư tưởng của Người về nhà nước cách mạng và xây dựng Nhà nước mang bản chất cách mạng của dân, do dân, vì dân, tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công"; tư tưởng của Người về lực lượng vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về nghệ thuật quân sự; tư tưởng của Người về xây dựng các đoàn thể cách mạng của công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ…

Tư tưởng xuyên suốt của Người trong xây dựng các tổ chức lực lượng cách mạng, đó là tư tưởng bao trùm: Nước lấy dân làm gốc, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; mọi việc đều do dân và vì dân; nhân dân là lực lượng quyết định thắng lợi của cách mạng. "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong".

e) Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý, lấy sự hợp lòng dân, phù hợp với hoàn cảnh thực tế làm thước đo cho sự đúng đắn và hiệu quả của mọi đường lối chủ trương, chính sách.

f) Một trong những di sản vô giá Bác Hồ để lại cho Đảng ta, dân tộc ta đó là tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tác phong Hồ Chí Minh. Toàn bộ hoạt động cách mạng và cuộc đời của Người, Bác đã để lại một tấm gương cao đẹp sáng ngời về đạo đức cách mạng, tư tưởng về đạo đức cách mạng và phong cách hoạt động cách mạng.

Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ "Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang". Theo Người, đạo đức còn là "nền tảng", là "cái gốc", là "sức mạnh" của người cán bộ cách mạng và của Đảng cách mạng. Tư tưởng đạo đức bao trùm của Người là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; suốt đời sống vì dân, vì nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải phóng xã hội, giải phóng con người, đó là "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục", đó là "cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư".

Toàn bộ cuộc đời và hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn để lại tấm gương mẫu mực về phong cách hoạt động cách mạng mà những phong cách tiêu biểu là: Lý luận liên hệ với thực tế; học đi đôi với hành; nói đi đôi với làm. Quán triệt sâu sắc những giá trị tư tưởng nói trên của Bác Hồ, chúng ta càng hiểu sâu sắc rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh - một di sản vô giá Bác Hồ để lại cho Đảng ta, dân tộc ta - là sản phẩm của sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.

Ngày nay, quán triệt những tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, chúng ta kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Người đã lựa chọn; kiên quyết đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng thành công một nước Việt Nam hùng cường, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó chính là cách tốt nhất biểu hiện lòng trung thành vô hạn của chúng ta với lý tưởng và sự nghiệp của Người.

3. Để đấu tranh phê phán bác bỏ các luận điểm phản động sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, hơn lúc nào hết mọi cán bộ, đảng viên cần kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng sáng tạo và phát triển sáng tạo nền tảng tư tưởng của Đảng để hình thành và hoàn thiện cương lĩnh, đường lối đúng đắn trong thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam. Từng bước hiện thực hóa thắng lợi 8 đặc trưng, 8 định hướng xây dựng CNXH trong sự nghiệp, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

PGS.TS Đào Duy Quát

Video liên quan

Chủ đề