Talet cho rằng cơ sở vật chất đầu tiên của thế giới là gì

Mục lục

  • 1 Đời sống
  • 2 Các học thuyết
    • 2.1 Triết học
      • 2.1.1 Tổng quan
      • 2.1.2 Nước là khởi nguyên
        • 2.1.2.1 Nội dung
        • 2.1.2.2 Ý nghĩa và những nhận xét
      • 2.1.3 Quan niệm đồng nhất
    • 2.2 Hình học
    • 2.3 Thiên văn học
  • 3 Câu nói
  • 4 Tham khảo
  • 5 Liên kết ngoài

Đời sốngSửa đổi

Thales sống trong khoảng thời gian từ năm 625 TCN– 547 TCN, ông sinh ra ở thành phố Miletos, một thành phố cổ trên bờ biển gần cửa sông Maeander (của Thổ Nhĩ Kỳ).

Tuổi thọ của ông không được biết một cách chính xác. Có hai nguồn: một nguồn cho là ông sống khoảng 90 tuổi, còn một nguồn khác cho là ông sống khoảng 80 tuổi.

Các học thuyếtSửa đổi

Trước Thales, người Hy Lạp giải thích nguồn gốc tự nhiên của thế giới, vạn vật qua các câu truyện thần thoại của chúa trời, của các vị thần và các anh hùng. Các hiện tượng như sấm, sét hay động đất được cho là do các vị thần trong tự nhiên.

Triết họcSửa đổi

Tổng quanSửa đổi

Thales là nhà triết học đầu tiên. Ông đã thành lập trường phái Milet. Theo đánh giá của Aristotle, Thales là người sáng lập ra triết học duy vật sơ khai.[2]

Nước là khởi nguyênSửa đổi

Nội dungSửa đổi

Ông quan niệm toàn bộ thế giới của chúng ta được khởi nguồn từ nước. Nước là bản chất chung của tất cả mọi vật, mọi hiện tượng trong thế giới. Mọi cái trên thế gian đều khởi nguồn từ nước và khi bị phân hủy lại biến thành nước. Thales có nói như thế này:

Đối với Thales, thế giới này không gì khác hơn đó là những trạng thái khác nhau của nước. Bao bọc xung quanh chúng ta là các đại dương. Động đất chẳng qua chỉ là sự va chạm giữa Trái Đất và sóng biển trong bão.

Thales cũng cho rằng, Trái Đất cũng chỉ là các đĩa khổng lồ đang trôi nổi trên nước. Ông cũng đưa ra sự phân định cho nó, gồm 5 vùng:

  • Bắc cực nhìn thấy được.
  • Hạ chí
  • Xuân phân
  • Đông chí
  • Nam cực không nhìn thấy được.
Ý nghĩa và những nhận xétSửa đổi

Với quan niệm nước là khởi nguyên của thế giới, của mọi sự vật, hiện tượng. Ông đã đưa yếu tố duy vật vào trong quan niệm triết học giải thích về thế giới. Thế giới được hình thành từ một dạng vật chất cụ thể là nước chứ không phải do chúa trời hay các vị thần.

Xét về mặt bản thể luận, quan niệm của Thales mặc dù còn mộc mạc thô sơ nhưng đã hàm chứa những yếu tố của biện chứng tự phát. Nước đã trở thành một khái niệm triết học, là cái quy định sử chuyển biến từ dạng vật chất này sang dạng vật chất khác, là cái tạo nên sự thống nhất của thế giới, là cái gắn kết cái đơn và cái đa, là sự chứa đựng tiềm tàng giữa cái bản chất và hiện tượng.[3]

Tuy nhiên, nước trong quan niệm của nhà triết học này vẫn còn mang tính thần thoại. Anaximenes cho rằng ở Thales có sự nhầm lẫn giữa bản chất và điều kiện. Theo ông, nước là điều kiện chứ không phải là bản chất của vạn vật như Thales vẫn nghĩ. Thêm vào đó, khi sử dụng khái niệm nước để chỉ nguồn gốc của thế giới, Thales lại không giải thích được những hiện tượng vật lý như từ tính của nam châm hay những hiện tượng khác.[4]

Alexander Ivanovich Herzen đã nhận xét như sau về nước trong triết học của Thales:

[5]

Quan niệm đồng nhấtSửa đổi

Thales đã cho rằng chết không khác gì sống. Đây là một cuộc đối thoại được ghi lại:

[6]

Hình họcSửa đổi

Định lý Thales:
  • Định lý Thales: Nếu một đường thẳng song song với một cạnh của tam giác và cắt hai cạnh còn lại thì nó định ra trên hai cạnh đó các đoạn thẳng tương ứng tỉ lệ.[7]
    • Góc chắn nửa đường tròn thì bằng một góc vuông.
    • Đường kính chia đôi đường tròn thành hai phần bằng nhau.
    • Hai góc đáy của tam giác cân thì bằng nhau.
    • Hai tam giác nếu có hai cặp góc đối và cặp cạnh tương ứng bằng nhau thì bằng nhau (trường hợp góc - cạnh - góc).
    • Hai góc đối đỉnh thì bằng nhau.

Thiên văn họcSửa đổi

Thales là người đầu tiên nghiên cứu về thiên văn học, hiểu biết về hiện tượng nhật thực diễn ra do mặt trăng che khuất mặt trời. Ông cũng nghĩ ra phương pháp đo chiều cao của các kim tự tháp Ai Cập căn cứ vào bóng của chúng. Ông tính được 1 năm có 365 ngày, dự đoán chính xác hiện tượng nhật thực toàn phần sẽ xảy ra vào ngày 25 tháng 5 năm 585 TCN trên xứ Ionie vì vậy đã ngăn được cuộc chiến tương tàn giữa hai thành bang Lydiens và Medes.[2] Thales được coi là người đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu về sự sống ngoài Trái Đất.

Trường phái triết học Milê

Quảng cáo

Một trong những cái nôi triết học đầu tiên của Hy Lạp và La Mã cổ đại là Iônia, một vùng đất rộng lớn nằm trên bán đảo Tiểu Á, chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa Ba Tư cổ đại. Nơi đây đã sinh ra các nhà triết học đầu tiên của phương Tây như các nhà triết học thuộc phái Milê, Hêraclít... Chúng ta sẽ xem xét thế giới quan của từng nhà triết học kể trên. Trường phái Milê, là trường phái của các nhà triết học ở Milê, một địa danh thuộc vùng Iônia, gồm một số nhà triết học tiêu biểu như Talét, Anaximan, Anaximen. Là những người thể hiện quan điểm của các tầng lớp tiến bộ trong giai cấp chủ nô, họ có nhiều tư tưởng khác với các quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên thủy thống trị hồi đó. Họ tìm cách lý giải các vấn đề về bản chất và khởi nguyên của thế giới dựa trên một số các tri thức khoa học sơ khai có được thời đó, coi toàn bộ thế giới chúng ta như một chỉnh thể thống nhất, sinh ra từ một khởi nguyên duy nhất.

Talét (khoảng 625 - 547 tr.CN) được coi là người sáng lập trường phái triết học Milê. Õng là một Iihà toán học, nhà ti. học vùng Iônia thuộc Hy Lạp cổ đại chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa Trung Cận Đông. Qua một sô ít tư liệu về Talét còn lại mà hiện nay còn giữ được thì ông là người đầu tiên khám phá ra lịch một năm gồm 12 tháng, 365 ngày, và là người phát kiến ra định lý nổi tiếng trong toán học mang têu ông.

Talét cho rằng, nguồn gốc của thế giới chúng ta là nước. Nước là bản chất chung của tất thảy mọi vật, mọi hiện tượng trong thế giới. Mọi cái trên thế gian đều sinh ra từ nước và khi bị phân hủy lại biên thành nước. Nước tồn tại vĩnh viễn còn mọi vật do nó tạo nên thì không ngừng biến đổi, sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại tựa như một vòng tuần hoàn biến đổi không ngừng mà nước là nền tảng của vòng tuần hoàn đó.

Bên cạnh những quan niệm mang tính duy vật sơ khai, thế giới quan của Talét còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của các quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên thủy khi ông cho rằng thế giới chúng ta đầy rẫy các vị thần linh. Không lý giải được hiện tượng từ tính của nam châm và hổ phách, ông khẳng định chúng có linh hồn. Các vị thần linh, trong ý tưởng của ông, là những lực lượng hoạt động trong thế giới làm cho mọi sự vật có thể vận động được và biến đổi được.

Tiếp cận với quan điểm nhất nguyên trong nhận thức, Talét cho rằng phải quy toàn bộ các tri thức về một nền tảng duy nhất của chúng. Nhiều lời chưa hẳn thể hiện hiểu biết đúng đắn về sự vật.

Anaximan (khoảng 610 - 546 tr.CN) là học trò của Talét. Ông để lại một tác phẩm triết học được viết dưới dạng văn xuôi bằng tiếng Hy Lạp cổ về giới tự nhiên mà hiện nay chúng ta còn lưu lại được

một vài đoạn. Ông là người tìm ra cách đo thời gian theo bóng nắng mặt trời (điều mà người phương Đông nghĩ ra trước đó ít lâu), tưởng tượng ra dạng hình cầu của vũ trụ.

Khác với Talét, Anaximan cho rằng, nguồn gốc và cơ sở của mọi sự vật là apeirôn. Ông không nói rõ apeirôn là cái gì cụ thể mà chỉ khẳng định đó là một cái vô định hình, vô cùng tận, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt. Tất cả các tác giả thời cổ khi nói về Anaximan đều cho rằng apeirôrt của ông là cái mang tính vật chất. Một số người cho rằng đó là hỗn hợp của các yếu tố như đất, nước, lửa, không khí. Có người cho rằng, đó là một cái trung gian giữa lửa và không khí. Arixtốt và một số người khác coi apeirôn là một cái không xác định.

Theo Anaximan, mọi sự vật không chỉ có bản chất chung là apeirôn, mà còn xuất hiện từ nó. Tự bản thân apeirôn sinh ra mọi cái, đồng thời là cơ sở vận động của chúng. Apeirôn là nguồn gốc và sự thống nhất của các sự vật đối lập nhau như nóng - lạnh, sinh ra - chết đi... Toàn bộ vũ trụ được cấu từ apeirôn tồn tại như một vòng tuần hoàn biến đổi không ngừng. Phê phán các quan niệm trực quan của thần thoại và tôn giáo nguyên thủy về thế giới, Anaximan cho rằng những gì bề ngoài mà thế giới hiện ra trước mắt chúng ta chưa hẳn là bản thân thế giới một cách đích thực. Tuy nhiên, cũng như Talét (và điều này khó tránh khỏi đối với các nhà triết học cổ đại sơ khai), Anaxirrían còn chịu ảnh hưởng của các quan niệm thần thoại và tôn giáo, khẳng định tồn tại điểm tận cùng giới hạn của thế giới. Mọi sự vật theo ông đều sinh ra từ apeirôn và có lỗi lầm với nhau, nhưng lỗi lầm của chúng phá vỡ các chuẩn mực và giới hạn của chúng. Mọi cái cuối cùng đều trở thành apeirôn. Theo nghĩa này, apeirôn trở thành một cái ít nhiều mang tính thần bí.

Anaxiraan có nhiều tiên đoán về nguồn gốc sự sống, cho rằng, mọi sinh vật trên trái đất lúc đầu xuất hiện dưới biển, sau đó một số loài lên sống trên cạn. Con người được sinh ra từ một loài cá to, lúc nhờ sông dưới nước, sau đó lên sống trên đất liền. Các quan niệm này còn ngây thơ vì trình độ phát triển khoa học thời đó còn quá thấp.

Anaximen (khoảng 588 - 525 tr.CN), (là học trò của Anaximan), lại coi không khí là bản chất chung của tất thảy mọi vật, không khí là cái vô định hình mà bản thân apeirôn cũng chỉ là tính chất của không khí. Khi nào không khí loãng đi thì nó trở thành lửa, sau đó là một dạng ête, còn nếu đặc lại thì nó cấu thành gió, mây, sau đó là nước, đất, đá.... Thực chất mặt trời củng chỉ là đất bị đốt cháy do chuyển động quá nhanh.

Coi không khí là nguồn gốc và bản chất chung của mọi vật, Anaximen cho rằng thậm chí linh hồn của người cũng chỉ là không khí, vì thế người ta không thể sống nếu như không thở, ngay cả các vị thần linh cũng đều sinh ra từ không khí.

Anaximen có nhiều tiên đoán khoa học, coi mưa đá là kết quả kết băng của các tia nước trên cao, và khi băng đó bị không khí làm tan ra thì tạo thành tuyết. Ông không đồng ý với Anaximan khi ông này cho rằng các vì sao ở xa chung ta hơn so với mặt trời và mặt trăng.

Nhìn chung các nhà triết học phái Mile, và nói chung các nhà triết học cổ Hy Lạp và La Mã thòi kỳ đầu - như Ảngghen nhận xét - có nhiều quan niệm duy vật nhưng sơ khai và tự phát. Họ coi thế giới như một chỉnh thể thống nhất và tìm cách giải thích bản chất và nguồn gốc của chỉnh thể đó trong một dạng vật chất cụ thể, coi thế giới như sự thống nhất của các sự vật muôn màu muôn vẻ. Mặc dầu còn ngây thơ, nhưng những quan niệm của họ đặt nền móng cho sự phát triển của các tư tưởng duy vật trong triết học sau này.

Loigiaihay.com

  • Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
  • Thế nào là cái riêng, cái chung, cái đơn nhất? Giữa chúng có mối quan hệ như thế nào? Nghiên cứu mối quan hệ đó có ý nghĩa gì đối với nhận thức và thực tiễn? Nêu một số ví dụ minh hoạ.
  • Giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử nào? Tại sao?
  • Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa?
Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý