Tâm lý học trở thành khoa học độc lập khi nào

Trong thần thoại Hy Lạp, Psyche là một phụ nữ phàm trần có vẻ đẹp tuyệt vời đến mức sánh ngang với nữ thần Aphrodite. Aphrodite trở nên ghen tị với Psyche đến nỗi bà đã gửi con trai của mình, Eros, để khiến Psyche phải lòng người đàn ông xấu xí nhất trên thế giới. Tuy nhiên, Eros đã vô tình tự đâm vào mũi tên của mình và yêu Psyche đến điên cuồng. Anh đưa Psyche về cung điện của mình và dành tặng cô những món quà, nhưng cô không bao giờ có thể nhìn thấy mặt anh. Trong khi đến thăm Psyche, các chị gái của cô khiến Psyche nghi ngờ về người tình bí ẩn của mình, và cuối cùng, Psyche đã phản bội bằng cách lén nhìn gương mặt của Eros. Vì sự phản bội này, Eros đã bỏ rơi Psyche. Khi Psyche kêu gọi Aphrodite tái hợp cô với Eros, Aphrodite đã giao cho cô một loạt nhiệm vụ bất khả thi. Psyche đã hoàn thành tất cả các thử thách này; cuối cùng, sự kiên trì của cô đã được đền đáp khi cô được đoàn tụ với Eros và cuối cùng được biến thành một nữ thần.

Psyche, đại diện cho tâm hồn con người, chiến thắng những bất hạnh trong cuộc sống để theo đuổi hạnh phúc thực sự.

“Tâm lý học” trong tiếng Anh là “psychology”. Mặc dù thời điểm người ta bắt đầu bàn luận về tâm lý thì cũng xưa như chính lịch sử nhân loại nhưng mãi đến giữa thế kỉ 15 đến khoảng thế kỉ 16 người ta mới ghi nhận thuật ngữ “psychology” dưới dạng tiếng Latin xuất hiện đầu tiên trong tựa sách “Psichiologia de ratione animae humanae” của nhà hiện sinh Croatian và nhà Latin học Marko Marulić. Trong khi đó tiếng Anh “psychology” xuất hiện lần đầu trong cuốn The Physical Dictionary của tác giả Steven Blankaart vào năm 1694 trong trích đoạn “Anatomy, which treats the Body, and Psychology, which treats of the Soul”. Từ Psychology thực tế bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp được ghép bởi hậu tố “-λογία” (logia – môn học, nghiên cứu,...) và ψυχή (psyche – tâm hồn, linh hồn,...).

Các tường thuật lịch sử về sự phát triển khoa học của tâm lý học của đặt nguồn gốc ở Đức vào khoảng giữa thế kỷ 19 cùng với những tiến bộ của nghiên cứu trong lĩnh vực sinh lý học cảm giác đã cung cấp bối cảnh cho sự khởi đầu mới của tâm lý học. Việc theo đuổi kiến thức về tâm trí và các quá trình của nó có một lịch sử gắn liền với lịch sử triết học. Tuyên bố cuối thế kỷ 18 rằng không thể nào có một khoa học về tâm lý. Sự thách thức này đã được đáp trả vào thế kỷ 19 khi khả năng nghiên cứu khoa học về tâm trí xuất hiện trong triết học bằng cách áp dụng các phương pháp thực nghiệm và sử dụng triệt để các nghiên cứu sinh lý học giác quan. Sức mạnh tổng hợp của những phát triển thế kỷ 19 này đã tạo động lực cho “tâm lý học mới” mà lịch sử của nó thể hiện những nỗ lực không ngừng để phát triển và duy trì tâm lý học như một bộ môn khoa học và mở rộng các phương pháp khoa học sang những lĩnh vực nghiên cứu ngày càng mở rộng trong tâm lý học.

Sơ lược hình thành

Christian Wolff (1679 – 1754), người lần đầu tiên phổ biến thuật ngữ tâm lý học [psychology] để chỉ việc nghiên cứu tâm lý. Wolff đã phân chia nguyên tắc giữa tâm lý học theo kinh nghiệm và lý tính. Dữ liệu của tâm lý là kết quả của việc quan sát bản thân và những người khác đã tạo thành tâm lý học duy nghiệm và tâm lý học duy lý đề cập đến việc giải thích dữ liệu của tâm lý học duy nghiệm thông qua việc sử dụng lý trí và logic. Immanuel Kant (1724 – 1804) phủ nhận tính hợp lệ của bất kỳ tâm lý học duy lý nào bởi vì theo ông lập luận, các quá trình tâm lý hợp thức phải được kích hoạt bởi nội dung tâm lý thu được từ kinh nghiệm; do đó, việc nghiên cứu tâm lý phải được giới hạn trong những câu hỏi thích hợp với tâm lý học duy nghiệm. Kant cho rằng tâm lý học duy nghiệm về nội dung tâm lý không thể trở thành một khoa học tự nhiên thích hợp bởi vì các sự kiện tâm lý không thể được định lượng, mô tả toán học hoặc quan sát khách quan. Cuối cùng, Kant khẳng định, phương pháp quan sát tâm lý bị bóp méo các sự kiện được quan sát bằng cách quan sát chúng. Johann Friederich Herbart (1776 – 1841) đưa ra một hệ thống tâm lý học vừa duy nghiệm vừa toán học. Nếu tâm lý học cần toán học để trở thành một khoa học thực sự, Herbart đề xuất rằng các con số có thể được gán cho các sự kiện tâm lý có cường độ khác nhau và mô tả toán học về mối quan hệ giữa chúng có thể được hình thành. Herbart có thể ấn định các con số để mô tả trải nghiệm của các cường độ khác nhau, nhưng ông không thể thực sự đo lường các cường độ chủ quan theo một tiêu chuẩn khách quan. Eduard Friederich Beneke (1798 – 1854) cho rằng còn quá sớm để áp dụng toán học vào các mối quan hệ giữa các sự kiện tâm lý mà không có các quan sát thực nghiệm chính xác hơn và các phương tiện đo lường đáng tin cậy.

Đọc thêm

Johannes Müller (1801 – 1858), đã đưa ra cuốn sổ tay có hệ thống cổ điển Handbuch der Physiologie des Menschen. Trong số các công thức mà Müller cung cấp trong Handbuch là quy luật về các năng lượng thần kinh cụ thể, trong đó nói rằng tâm lý không nhận thức trực tiếp các đối tượng như vậy mà chỉ có thể nhận thức được kích thích trong não do các dây thần kinh cảm giác truyền đạt tới. Chất lượng nhận thức của kích thích phụ thuộc vào cơ quan cảm giác được kích thích, dây thần kinh truyền kích thích từ cơ quan cảm giác và phần não nhận kích thích. Học trò của Müller, Hermann von Helmholtz (1821 – 1894), đã mở rộng định luật về các năng lượng thần kinh cụ thể bằng cách đưa ra lý thuyết rằng chất lượng của các kích thích trong một phương thức cảm giác được mã hóa giống như cách chúng được mã hóa giữa các phương thức. Có nghĩa là, việc phân biệt màu đỏ với màu xanh lá cây, hoặc âm độ thấp với âm độ cao, phụ thuộc vào các cơ quan thụ cảm chuyên biệt trong mắt hoặc tai, các kết nối thần kinh riêng biệt trong hệ thống thị giác hoặc thính giác và các vị trí cụ thể trong vùng thị giác hoặc thính giác của não nhận được sự kích thích. Liên hệ kinh nghiệm chủ quan, tâm lý với kích thích bên ngoài cụ thể là một bước trong việc gợi ý cách tâm lý học có thể trở thành một khoa học.

Đọc thêm

Các thí nghiệm về xúc giác được thực hiện bởi nhà sinh lý học E. H. Weber (1795 – 1878), người đã phân biệt giữa các cảm giác áp lực, nhiệt độ và vị trí kích thích trên da. Khi tiến hành các thí nghiệm trong đó anh ta tự kích thích làn da của mình, Weber đã khám phá độ nhạy cảm của da. Không chỉ có thể đo độ nhạy cảm ứng ở các điểm khác nhau trên da mà còn có thể đo độ nhạy cảm tương đối tại một điểm duy nhất. T. Fechner (1801 – 1887), một nhà vật lý, đã thấy trong kết quả của Weber khả năng liên hệ các sự kiện tinh thần với các sự kiện vật lý; các phán đoán chủ quan về độ lớn vật lý có thể được so sánh với độ lớn vật lý thực tế. Kết quả của Weber cho thấy rằng các phán đoán cảm tính về độ lớn hình thành các tỷ lệ đủ đều đặn để giả định trạng thái của một định luật. “Định luật Weber” bây giờ thường đề cập đến “tuyên bố đơn giản rằng sự khác biệt đáng chú ý trong một kích thích mang một tỷ lệ không đổi với kích thích”, trong khi “Định luật Fechner” thường đề cập đến mối quan hệ logarit Fechner đã đưa ra công thức. Fechner gọi khoa học mới mà ông đã thiết lập ra tâm vật lý học và phát triển các quy trình trong phòng thí nghiệm, trở thành một phần của các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm về tâm lý học mới cũng như nghiên cứu sinh lý học trên các giác quan đặc biệt.

Đọc thêm

Johannes Müller đã suy đoán trong Handbuch của mình rằng tốc độ truyền xung thần kinh lớn hơn tốc độ ánh sáng. Helmholtz đã kiểm tra giả thuyết đó bằng cách đo thời gian phản với các kích thích tác động lên dây thần kinh vận động có độ dài khác nhau ở ếch và nhận thấy thời gian chậm hơn nhiều so với tốc độ ánh sáng. Ông đã mở rộng nghiên cứu này sang các dây thần kinh cảm giác bằng cách đo thời gian phản ứng của con người với một cái chạm vào ngón chân và một cái chạm vào đùi và chứng minh rằng thời gian đáp ứng của họ chậm hơn đối với xung động truyền đi lâu hơn. Helmholtz đã mở rộng việc sử dụng thời gian để đo phản ứng cảm giác vận động bao gồm các phản ứng bằng giọng nói với các từ, cung cấp thước đo thời gian cần thiết để liên kết các từ hoặc ý tưởng. Việc xác định thời gian phản ứng để đo tốc độ của các quá trình tinh thần được nghiên cứu bởi nhà sinh lý học người Hà Lan F. C. Donders (1818 – 1889). Khả năng đo lường thời gian theo phản hồi của các quá trình tinh thần được hiện thực hóa và các thực nghiệm về thời gian phản ứng đã trở thành một phần của khoa học tâm lý học.

Đọc thêm

Tâm lý học, giống như các khoa học khác trước đó, bắt đầu như một phần của chương trình giảng dạy triết học. Wilhelm Wundt (1832 – 1920) thường được công nhận là người đã thành lập phòng thực nghiệm tâm lý học đầu tiên như một khởi đầu của hành trình trở thành khoa học của tâm lý học. Wundt, được đào tạo y hoa nhưng lại chọn sinh lý học (một phần của y khoa) cho sự nghiệp của mình. Năm 1862, ông đưa khóa học đầu tiên về “tâm lý học như một khoa học tự nhiên” tại Heidelberg, và vào năm 1873 – 1874, xuất bản cuốn sách đầu tiên của cuốn sách của mình mang tên “Các nguyên tắc của Tâm sinh lý học” và kêu gọi công nhận tâm lý học như một ngành độc lập với triết học và sinh lý học. Năm 1857, ông đã chế tạo một thiết bị trong nhà để đo thời gian phản ứng và bắt đầu tích lũy một bộ sưu tập các dụng cụ máy ghi ký, máy đo thời gian, máy đo tốc độ và thiết bị đo phản ứng sử dụng trong phòng thí nghiệm của mình và năm 1879, tâm lý học thực nghiệm được thực hiện bởi Wundt và các sinh viên của ông tại Leipzig đã sử dụng các phương pháp sinh lý học để nghiên cứu nội dung và quá trình của ý thức con người. Trong số các nghiên cứu được theo đuổi trong phòng thí nghiệm của Wundt là các thí nghiệm tâm sinh lý để phân tích và đo lường các cảm giác, các thí nghiệm thời gian phản ứng để đo thời gian của các quá trình tinh thần và các thí nghiệm về sự chú ý, trí nhớ và sự liên kết của các ý tưởng.

Các báo cáo ban đầu về thực nghiệm đã trình bày chi tiết các kết quả mà phòng thực nghiệm có thể cung cấp và những điều đó nằm ngoài tầm với của tâm lý học triết học cũ. Wundt phân biệt giữa Selbstbeobachtung (tự quan sát), nội quan của các triết gia và Wahrnehmung (nhận thức bên trong); cơ sở của kinh nghiệm có ý thức. Việc tự quan sát nếu sử dụng theo cách truyền thống thì không thể đáp ứng tiêu chuẩn quan sát khoa học. Để có thể thực hiện một sự xem xét nội tâm một cách khoa học, cần phải kiểm soát cẩn thận đối với tác nhân kích thích tạo ra sự kiện tâm lý được quan sát và khoảng thời gian càng ngắn càng tốt giữa việc quan sát sự kiện đó đến khi nhớ lại và báo cáo. Trong mọi trường hợp, để đảm bảo rằng quy trình quan sát này có thể là một phương pháp khoa học chặt chẽ để đánh giá các sự kiện tinh thần và không làm mất đi sự suy tư triết học cũ hơn, Wundt đã thiết lập các quy tắc hoặc hướng dẫn để việc xem xét nội tâm có thể đạt được giá trị khoa học: “(1) Người quan sát, nếu có thể, phải ở trong một vị trí để xác định khi nào quy trình sẽ được biểu hiện; (2) Anh ta phải ở trong trạng thái “tập trung chú ý”; (3) Việc quan sát phải có khả năng lặp lại nhiều lần; (4) Các điều kiện của thí nghiệm phải đảm bảo có khả năng thay đổi cường độ và chất lượng của các kích thích”.

Đọc thêm

Hermann Ebbinghaus (1850 – 1909), người cùng thời với Wundt, tin rằng các quá trình tâm thần cao hơn có thể là đối tượng của các cuộc thực nghiệm. Lấy cảm hứng từ tâm sinh lý của G. T. Fechner và triết gia J. F. Herbart cố gắng áp dụng toán học trong việc biểu diễn tâm lý, Ebbinghaus đã sử dụng các phương pháp định lượng chính xác để điều tra trí nhớ. Ông đã tạo ra các danh sách âm tiết có độ dài khác nhau mà mình đã học được và sau đó phân loại lại sau những khoảng thời gian khác nhau. Phần trăm thời gian tiết kiệm được khi sắp xếp lại danh sách được gọi là "phương pháp tiết kiệm của trí nhớ”. Ebbinghaus nhận thấy rằng lượng thời gian dành cho danh sách phân bổ lại nhiều hơn đối với danh sách dài hơn và khoảng thời gian lưu giữ lâu hơn. Biểu đồ thể hiện kết quả của ông đã trở thành đường tiêu chuẩn của sự quên lãng, vẫn được tái hiện trong sách giáo khoa như một kết quả kinh điển. Sau khi xuất bản chuyên khảo Über das Gedächtnis, thời gian của ông dành nhiều thời gian cho biên tập tạp chí và vị trí lãnh đạo nghiên cứu trí nhớ thuộc về Georg Elias Müller (1850 – 1931) tại Đại học Göttingen. Müller đã phát minh ra “bộ nhớ trống”, một thiết bị cơ học để biểu thị một kích thích bằng lời nói tại một thời điểm, được sử dụng cùng với các thí nghiệm về học danh sách nối tiếp, ghi nhớ danh sách và sau đó được Müller sửa đổi để nghiên cứu học liên kết theo cặp. Nó đã trở thành một thiết bị phòng thí nghiệm tiêu chuẩn cho các nghiên cứu về học bằng lời nói và trí nhớ cho đến khi được thay thế bằng máy tính. Müller đã khởi xướng cái mà sau này được gọi là “lý thuyết giao thoa của sự lãng quên”, một quan điểm lập luận rằng quên là một hiện tượng của sự can thiệp cạnh tranh giữa các ký ức vào thời điểm được truy xuất chứ không phải là một hiện tượng phân rã hoặc mất dấu ký ức. Mối quan tâm thử nghiệm của Müller không chỉ giới hạn ở nghiên cứu trí nhớ. Ông đã xây dựng dựa trên những đóng góp của Fechner, Ewald Hering và Mary Whiton Calkins trong việc trở thành người đi đầu trong việc phát triển phương pháp luận của tâm sinh lý, thực hiện các nghiên cứu về thị giác màu sắc và điều tra việc học bằng lời nói kết hợp theo cặp. Phòng thí nghiệm của Müller dường như đặc biệt hiếu khách với những phụ nữ quan tâm đến tâm lý học; trong số những người học tại Göttingen, chẳng hạn như Mary Whiton Calkins, Eleanor Gamble, và Lillien Jane Martin. Kết quả của các cuộc nghiên cứu của Đức về sinh lý học giác quan và ý nghĩa của chúng đối với các quy luật tâm lý đã không được người Mỹ chú ý trong thời kỳ sau Nội chiến.

William James, ở nước ngoài vì sức khỏe của mình và để học thêm y khoa, đã viết cho một người bạn: “Đối với tôi, có lẽ đã đến lúc tâm lý học bắt đầu trở thành một khoa học, một số phép đo đã được thực hiện ở khu vực nằm giữa những thay đổi về thể chất trong các dây thần kinh và sự xuất hiện của ý thức dưới dạng nhận thức cảm giác và nhiều hơn nữa. Helmholtz và một người tên là Wundt tại Heidelberg đang làm việc tại đó”. Ở châu Mỹ, truyền thống triết học thống trị có nguồn gốc từ Anh và Scotland. Triết học Anh mang tính duy nghiệm, thu thập thông tin về tâm lý và các quá trình tâm lý từ nội quan hay quan sát hành vi của người khác được ghi lại trong các luận thuyết y học, thủ tục tòa án, văn học và thơ ca. Việc thêm dữ liệu duy nghiệm vào các mối quan tâm thần học về “linh hồn” đã không thay đổi lập trường triết học truyền thống của các văn bản này. Ngay cả một cuốn sách của G. T. Ladd (1842 – 1921) đại diện cho tâm lý học mới cũng không thoát khỏi hoàn toàn những mối quan tâm thần học của “tâm lý học cũ”. Người Mỹ đi du lịch nước ngoài để học nâng cao tại các trường đại học của Anh và các lục địa khác sau Nội chiến. Với sự thành lập nhiều trường đại học sau chiến tranh, các cơ hội nghề nghiệp đã nảy sinh cho các giảng viên, đặc biệt là trong ngành khoa học. Thế hệ đầu tiên của các nhà tâm lý học Bắc Mỹ trở về sau chuyến du học của họ để kích thích sự phát triển của giáo dục sau đại học và thành lập các phòng thực nghiệm tâm lý học. Các phòng thực nghiệm này đã trở thành trung tâm của việc đào tạo tâm lý học trong các trường đại học và cao đẳng như biểu tượng của tâm lý học – khoa học về tâm lý, trong khi tâm lý học, nếu nằm trong các khoa triết học, thì trở thành khóa học nhập môn cần thiết để nghiên cứu thêm về triết học.

Đọc thêm

Tâm lý học đoạn tuyệt cơ bản với quá khứ triết học tinh thần được khởi động bởi William James, người người xuất bản cuốn sách Principles of Psychology. Đây là một trong những cuốn sách đầu tiên đại diện trong số các sách giáo khoa hiện đại. James là một nhân vật chuyển tiếp, triết học theo chủ nghĩa kinh nghiệm của khoa học mới. Mặc dù nó vẫn còn quá triết học đối với một số đồng nghiệp thực nghiệm, tuy nhiên, nó đã cắt đứt mối kết nối giữa tâm lý học và thần học một cách hiệu quả. James bị thu hút bởi tâm lý học mới bởi khả năng sử dụng khoa học để theo đuổi các vấn đề triết học một cách sâu sắc hơn và đề xuất với hy vọng tâm lý học trở thành khoa học tự nhiên. Giống như Wunt, James cũng học y học nhưng không có hứng thú thực sự với việc hành nghề y. Năm 1875, ông đề nghị một khóa học sau đại học tại Harvard về “Mối quan hệ giữa Tâm lý học và Sinh lý học” và, một lần nữa, giống như Wundt, ông đã thiết lập các phòng thực nghiệm nhằm tăng cường công tác giảng dạy của mình. Song lại ít khi nhiệt tình với công việc trong phòng thí nghiệm.

Cách đó ở Anh, thuyết tiến hóa do chọn lọc tự nhiên của Charles Darwin (1809 – 1882) đề xuất có ảnh hưởng to lớn đến các nhà tâm lý học người Mỹ. Trong cuốn sách Origin of Species, Darwin đã trình bày bằng chứng hỗ trợ thuyết tiến hóa của mình và Darwin đã đề xuất chọn lọc tự nhiên chịu chịu trách nhiệm trong việc tiến hóa với hai cơ chế, chọn lọc giới tính và cơ sự kế thừa các đặc điểm có được. Jean-Baptiste de Lamarck (1744 – 1829) đã đề xuất rằng những hành vi học được trong suốt cuộc đời của động vật có thể được truyền lại cho con cái của cá thể đó thông qua kế thừa sinh học. Quan điểm này được chia sẻ bởi Herbert Spencer, người, không giống như Darwin, xem quá trình tiến hóa là một tiến trình tuyến tính từ dạng “thấp hơn” đến dạng “cao hơn”. Spencer đặt ra cụm từ “sự sống sót của những người khỏe mạnh nhất” để gợi ý rằng những cá nhân được điều chỉnh tốt nhất với môi trường của họ sẽ tồn tại. Những hành vi học được tạo điều kiện cho sự điều chỉnh này đối với môi trường sau đó sẽ được truyền cho các thế hệ tiếp theo. Sự điều chỉnh là sự sống còn của cá nhân mà sự thích nghi là gì đối với sự tồn tại của loài. Sự thiếu vắng bằng chứng cho lý thuyết của Lamarck đã dẫn đến việc nó bị loại bỏ và lý thuyết tiến hóa bị bỏ lại với chọn lọc tự nhiên là cơ chế duy nhất của sự thay đổi tiến hóa. Tuy nhiên, sự tập trung của Spencer vào khả năng thích ứng trong suốt cuộc đời của một cá nhân và sự nhấn mạnh của Darwin vào sự phát triển của cá nhân trong thời thơ ấu, sự khác biệt giữa các cá nhân, mối quan hệ giữa cấu trúc và chức năng, và sự liên tục giữa động vật và con người đã đóng góp đáng kể vào việc mở rộng các chủ đề mà các nhà tâm lý học theo đuổi khoa học tâm lý.

Đọc thêm

William James đã nhìn thấy trong kết quả ban đầu của các thực nghiệm về tâm sinh lý và sinh lý giác quan là bước khởi đầu của khoa học trong việc đo lường các hiện tượng mà các nhà triết học tinh thần chỉ có thể mô tả. Giống như James, G. Stanley Hall (1844 – 1924) bị ấn tượng từ các kết quả từ các thực nghiệm về sinh lý giác quan. Hall đã nghiên cứu thần học và triết học ở Đức và nhận thấy rằng khoa học có liên quan đến những mục tiêu này, đặc biệt là chủ nghĩa kinh nghiệm khoa học. Hall thành lập phòng thực nghiệm đầu tiên ở Mỹ về khoa học tâm lý học tại Đại học Johns Hopkins vào năm 1883. Đến năm 1893, 20 phòng thực nghiệm tâm lý đang hoạt động ở Hoa Kỳ, gần gấp đôi so với ở châu Âu. Đến năm 1904, có 49 phòng thực nghiệm tâm lý học ở các trường cao đẳng và đại học ở Hoa Kỳ. Tâm lý học đã trở thành một phần được chấp nhận trong chương trình giảng dạy.

Các khóa học về tâm lý học và phòng thực nghiệm không chỉ được bắt đầu, mà các tạp chí cũng được lập ra bắt đầu với Tạp chí Tâm lý học Hoa Kỳ của Hall vào năm 1887 để công bố kết quả của các cuộc nghiên cứu trong phòng thực nghiệm cũng như cung cấp lối thoát cho các bài báo lý thuyết và triết học là một phần của ngành khoa học trẻ này. Các nghiên cứu về tâm sinh lý, năng lực cảm giác, độ cảm ứng, trí nhớ, sự chú ý và thời gian phản ứng đã được nhấn mạnh trong sách hướng dẫn viết cho các khóa học trong phòng thực nghiệm. Mối quan tâm của các nhà tâm lý học ngày càng mở rộng ra ngoài ranh giới phân định của Wundt giữa các chủ đề có thể theo đuổi đúng cách thông qua các thực nghiệm trong phòng thực nghiệm. Phần lớn sự phát triển của tâm lý học bao gồm việc mở rộng phạm vi các quá trình tâm lý có thể đáp ứng cho việc nghiên cứu khoa học trong và ngoài phòng thực nghiệm trong khi tiếp tục tranh luận về định nghĩa của lĩnh vực này và các phương pháp hữu ích nhất cho sự phát triển của nó. Trong các thử nghiệm mà tâm lý học bắt đầu, chẳng hạn như nghiên cứu của Weber về tính nhạy cảm với ngôn ngữ, nghiên cứu của Fechner về tâm sinh lý hoặc nghiên cứu về trí nhớ của Ebbinghaus, một cá nhân duy nhất vừa là người thử nghiệm vừa là người quan sát. Trong nghiên cứu tiếp theo về tâm sinh lý và trí nhớ, vai trò của người thực nghiệm và người quan sát trở nên tách biệt để loại bỏ hoặc kiểm soát các thành kiến có thể có xuất phát từ kiến thức về thực nghiệm và những kỳ vọng có thể ảnh hưởng đến một quan sát, chẳng hạn như biết cường độ của kích thích được đánh giá một cách định lượng.

Tóm tắt dữ liệu không chỉ hiển thị dưới bảng dạng mà còn ở dạng đồ thị. Đồ thị là một dạng tóm tắt dữ liệu phổ biến trong báo cáo khoa học. Đồ thị đã giúp mở đường cho sự phát triển sau này của việc phân tích tương quan và hồi quy. Khi cố gắng đánh giá mức độ liên quan giữa các điểm đặc biệt và tâm lý với nhau, Francis Galton (1822 – 1911) đã sử dụng các biểu đồ phân tán trong đó một điểm tập hợp được sắp xếp như một chức năng của một khác biệt. Từ đồ thị biểu hiện như vậy đã phát triển đường hồi quy, độ dốc của đường này phản ánh mức độ quan trọng giữa hai biến và Karl Pearson (1857 – 1936) đã phát triển kỹ thuật đồ biến tương quan và đo lường mức độ tương quan của chúng bằng hệ thống tương quan. Sự phát triển của các phương pháp thống kê này trở nên quan trọng, đối với việc đánh giá sự khác biệt của từng cá nhân và việc sử dụng các bài kiểm tra trong tâm lý học. Việc sử dụng các nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng trong các thực nghiệm trong tâm lý học đã trở thành một phần không thể thiếu trong việc thiết kế nghiên cứu và thực nghiệm. Và việc so sánh những kết quả hoạt động của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm dẫn đến việc sử dụng các thủ tục thống kê để kiểm tra ý nghĩa của bất kỳ sự khác biệt nào có thể thu được. Thống kê suy diễn chưa được biết đến cho đến thế kỷ 20. Phân tích các bài kiểm tra phương sai đã được đưa ra vào những năm 1920 nhưng phải tới năm 1930 mới trở nên phổ biến trong nghiên cứu thực nghiệm tâm lý học.

Với việc xuất bản cuốn Tâm lý học thực nghiệm của mình, R. S. Woodworth đã “đưa ra sự phân biệt rõ ràng giữa nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu tương quan”. Phương pháp nghiên cứu và tiêu chuẩn để phân tích và báo cáo kết quả thực nghiệm phù hợp với tình trạng khoa học của tâm lý học được phản ánh trong việc tiêu chuẩn hóa các báo cáo thực nghiệm và định nghĩa của thực nghiệm. Mô hình cho các báo cáo về nghiên cứu thực nghiệm để xuất bản trên các tạp chí của Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ đã phát triển từ một tờ giấy dày 6 trang rưỡi xuất bản năm 1929 thành Cẩm nang Xuất bản Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ năm 1983 khoảng 200 trang quy tắc chuẩn bị một bản thảo đến ấn bản thứ năm 2001 của sổ tay gồm 439 trang. Việc nhấn mạnh vào kiểm tra giả thuyết và phân tích thống kê so sánh giữa đối chứng và hiệu suất của nhóm thực nghiệm mà sau này đã chiếm ưu thế trong thiết kế thực nghiệm và hướng dẫn các tác giả chuẩn bị bản thảo phản ánh sự thành công trong định nghĩa của Woodworth về những gì cấu thành một thực nghiệm trong tâm lý học.

Đọc thêm

Phương pháp nội quan có hệ thống của Oswald Külpe đã được Edward Bradford Titchener tại Đại học Cornell đề xuất rất mạnh mẽ. Titchener bắt đầu quan tâm đến tâm lý học của Wundt khi theo học triết học và sinh lý học tại Đại học Oxford. Titchener nhận chức giáo sư tại Đại học Cornell, nơi ông ở lại cho đến khi qua đời vào năm 1927. Titchener tự giới thiệu mình là đại diện của Wundt ở Bắc Mỹ, nhưng quan điểm tư duy của Titchener bị ảnh hưởng bởi triết lý tiếng Anh của John Locke và những kế thừa Locke mà ông đã học tại Oxford. Các nhà triết học người Anh coi tâm lý như “người nhận” kích thích. Nội dung tâm lý là bất cứ thứ gì đã đi vào bên trong thông qua các giác quan. Nghiên cứu về tâm lý là để hiểu kinh nghiệm và chức năng tâm lý phức tạp có thể phát sinh như thế nào từ sự kết hợp của những yếu tố này. Đối với Titchener, tâm lý bao gồm các yếu tố mà ông xác định là cảm giác, hình ảnh và tình cảm. Cảm giác là trải nghiệm cơ bản do kích thích các giác quan, hình ảnh là những hình ảnh đại diện phức tạp mang theo suy nghĩ và cảm giác là yếu tố cấu thành nên cảm xúc. Thông qua nội quan có hệ thống trực tiếp của ý thức trong điều kiện phòng thực nghiệm, Titchener theo đuổi ba mục tiêu: đi từ trải nghiệm ý thức xuống các yếu tố cơ bản của nó, xác định cách các yếu tố được kết nối để hình thành nhận thức phức tạp và xác định các quá trình sinh lý cơ bản. Titchener lập luận, chủ đề tâm lý học là sự hiểu biết về tâm lý con người, người lớn, người bình thường, được khái quát hóa thông qua việc sử dụng nội quan; chỉ sau khi tâm lý học đã hoàn thành nhiệm vụ đó thì mới có thể hiểu được tâm lý những thứ không phải người, trẻ em, tâm lý hoặc cá nhân bất thường và cần phải mô phỏng vật lý, với việc theo đuổi việc phân tích vật chất thành các đơn vị nhỏ hơn mà nó được cấu tạo. Titchener ủng hộ việc theo đuổi thử nghiệm nghiêm ngặt các yếu tố của tâm trí, theo đuổi vì lợi ích riêng của chúng chứ không phải vì bất kỳ ứng dụng tiềm năng nào và phê bình “tâm lý học chức năng” về cơ bản là cách tiếp cận “sử dụng tâm lý” của tâm lý học triết học cũ hơn đã bị loại bỏ.

John Dewey (1859 – 1952), chủ nhiệm Khoa Triết học đã phản hồi sớm các định đề của Titchener về tâm lý học cấu trúc. Dewey nhận thấy rằng phương pháp thử nghiệm mới trong phòng thực nghiệm sẽ giải phóng triết học tinh thần cằn cỗi cũ hơn khỏi những ràng buộc thần học và triết học trong quá khứ của nó, đồng thời mở ra con đường cho một tâm lý học giúp giải quyết tốt hơn các vấn đề trong môi trường của trại tị nạn, lớp học và các vấn đề thực tiễn khác. Vào năm 1896, Dewey đã tranh luận chống lại các phương pháp tiếp cận của chủ nghĩa tối giản đối với việc nghiên cứu ý thức, phân tích chức năng và hiểu biết về tâm lý.

James R. Angell, tốt nghiệp Đại học Michigan, xác định tâm lý học chức năng không nghiên cứu các yếu tố tâm lý làm trọng tâm chính của nó mà với các hoạt động tâm lý; vai trò của ý thức trong việc giúp một sinh vật thích nghi với môi trường của nó liên quan đến các mối quan hệ của tâm lý và cơ thể. Tâm lý học chức năng quan tâm đến cách thức hoạt động của lý (tức là nó hoạt động như thế nào) và mối quan hệ chức năng của nó với cơ chất sinh lý (tức là tâm lý phụ thuộc vào cái gì) và mục đích của nó (tức là cách sử dụng hoặc chức năng của nó) và ít quan tâm đến nội dung của tâm lý. Cách tiếp cận của Angell đối với tâm lý học bao gồm nhiều mối quan tâm và phương pháp đã phát triển trong tâm lý học từ năm 1879 và phản ánh ảnh hưởng mà lý thuyết tiến hóa gây ra đối với tâm lý học ở Hoa Kỳ. Khoa học về tâm lý được theo đuổi trong phòng thực nghiệm và nhiều phương pháp đã có sẵn để nghiên cứu nó. Các thực nghiệm tâm sinh lý, nghiên cứu về mối liên hệ giữa sinh lý học, đặc biệt là hệ thần kinh và các quá trình tâm lý, quan sát trực tiếp những người khác, bao gồm cả trẻ em và động vật, đã cung cấp dữ liệu có thể bổ sung cho kết quả xem xét nội quan trong điều kiện phòng thực nghiệm.

Mary Whiton Calkins (1863 – 1930) đã cố gắng hòa giải sự khác biệt giữa tâm lý cấu trúc và chức năng bằng cách đề xuất một tâm lý về cái tôi sở hữu cả nội dung ý thức và chức năng tâm lý. Calkins đã bắt đầu nghiên cứu tâm lý học không chính thức tại Harvard với William James và Josiah Royce vào năm 1890; Giáo sư Đại học Clark Edmund Sanford đã dạy kèm riêng cho Calkins về tâm lý học thực nghiệm. Năm 1891, Calkins thành lập phòng thực nghiệm tâm lý đầu tiên tại trường đại học dành cho phụ nữ ở Wellesley College, một trong 12 phòng thực nghiệm đầu tiên ở Hoa Kỳ. Bà đã phát triển kỹ thuật ghép nối để nghiên cứu khả năng học bằng lời nói và trí nhớ, đồng thời xuất bản các bài báo về nghiên cứu của mình và về các thực nghiệm được thực hiện với các sinh viên trong phòng thí nghiệm Wellesley. Bà theo đuổi nghiên cứu sâu hơn về tâm lý học với Hugo Münsterberg tại Harvard, nhưng không phải là một sinh viên đăng ký chính thức. Münsterberg kiến nghị chủ tịch Harvard cho phép Calkins được nhận vào làm ứng cử viên cho vị trí Tiến sĩ, nhưng yêu cầu của ông đã bị từ chối dù đáp ứng tất cả các yêu cầu thông thường về mức độ tiến sĩ. Harvard từ chối cấp bằng tiến sĩ cho một phụ nữ cho đến năm 1963. Calkins đã từ chối bằng cấp của Radcliffe, coi đó là biểu tượng của việc Harvard là làm gia tăng bất bình đẳng. Năm 1905, Mary Whiton Calkins trở thành người phụ nữ đầu tiên được bầu vào vị trí chủ tịch của Hiệp hội Tâm lý Mỹ.

Đến năm 1905, quan điểm chức năng đã trở thành quan điểm thống trị trong tâm lý học người Mỹ. Về phần mình, Angell tuyên bố rằng chủ nghĩa chức năng có thể dễ dàng ngăn chặn “Tâm lý học cái tôi” của Calkins. Calkins, và Titchener, đã không từ chối việc theo đuổi việc xác định các cơ chất sinh lý của nội dung và quá trình tâm lý nhưng đặt việc theo đuổi đó ở mức ưu tiên thấp hơn so với việc nghiên cứu tâm lý một cách trực tiếp. Calkins đã mở rộng việc sử dụng nội quan để nghiên cứu những trải nghiệm bất thường của cá nhân bình thường và bao gồm việc nghiên cứu bằng phương pháp so sánh với những cá nhân bất thường trong số các chủ đề được nghiên cứu trong tâm lý học mới. Nhưng vấn đề nảy sinh khi các báo cáo nội quan từ các phòng thực nghiệm khác nhau mâu thuẫn với nhau. Những nghi ngờ về khả năng của việc xem xét nội quan như một phương pháp khoa học là chủ đề tập trung tranh cãi. Tâm lý học của Titchener đề xuất rằng hình ảnh là vật mang ý nghĩ và những quan sát nội quan được thực hiện trong phòng thực nghiệm đã hỗ trợ quan điểm của ông. Tuy nhiên, Oswald Külpe và các đồng nghiệp của ông tại Đại học Würzburg đã không quan sát được hình ảnh trong các nghiên cứu của họ về các quá trình suy nghĩ và kết luận rằng tư duy được thực hiện bởi “những suy nghĩ viển vông”. Làm thế nào để xem xét nội quan, với tư cách là một phương pháp, có thể dung hòa các kết quả không tương thích khi kinh nghiệm có ý thức là riêng tư và không được công chúng kiểm tra? Những người ủng hộ việc xem xét nội quan như là phương pháp chính của tâm lý học khoa học đã thêm nhiều hướng dẫn hơn trong nỗ lực cải tiến phương pháp trong khi những người khác ủng hộ việc sử dụng nó hạn chế hơn trong số các phương pháp tâm lý khác. Câu hỏi về việc liệu phân tích nội quan có thực sự đóng vai trò như một phương pháp khoa học tạo ra dữ liệu đáng tin cậy hay không đã xuất hiện ngay từ đầu lịch sử tâm lý học với tư cách là một khoa học. Các quan sát nội quan là tin cậy trong giới hạn hạn chế như bước sóng ánh sáng ở một tần số nhất định đã được báo cáo là gợi lên cảm giác màu giống nhau ở tất cả những người quan sát có thị lực bình thường. Câu hỏi đặt ra ở khả năng của sự xem xét nội quan vượt ra khỏi những quan sát hạn chế như vậy để tìm kiếm các yếu tố của tâm lý sẽ như thế nào?

Đọc thêm

Tại Đại học Clark, G. Stanley Hall đã thiết lập một chương trình sau đại học về tâm lý học thu hút sinh viên với số lượng lớn. Trong phòng thí nghiệm tâm lý học của mình, Hall bồi dưỡng các phương pháp thực nghiệm mà ông đã học được ở Đức và chỉ định E. C. Sanford (1859 – 1924) giám sát công việc thực nghiệm. Mối quan tâm chính của Hall là tâm lý học phát triển; lý thuyết tổng hợp lại sự phát triển của ông đã phản ánh quan điểm của thế kỷ 19 rằng quá trình phát triển của một cá nhân song song với các giai đoạn tiến hóa của con người. Vì vậy, “mọi đứa trẻ, từ khi thụ thai đến khi trưởng thành, đều tổng hợp lại, mọi giai đoạn phát triển mà loài người từ thuở sơ khai là động vật thấp bé nhất đã đi qua”. Mặc dù lý thuyết sau đó đã lỗi thời nhưng nó đã kích thích nghiên cứu tâm lý học trong lĩnh vực này. Năm 1891, Hall giới thiệu việc sử dụng bảng câu hỏi nghiên cứu trẻ em, “phương pháp Clark”. Bảng câu hỏi được thiết kế để điều tra (a) các bản năng và thái độ tự động đơn giản, (b) các hoạt động và cảm xúc của trẻ nhỏ, (c) kiểm soát cảm xúc và ý chí, (d) sự phát triển các khả năng cao hơn, (e) sự khác biệt của cá nhân, (f) các quy trình và thực hành của trường học, và (g) các quy trình và thực hành. Tuy nhiên, tâm lý trẻ em không phải là tài sản duy nhất của Hall và trường đại học của ông. Sự phát triển tinh thần ở trẻ em và chủng tộc của James Mark Baldwin (1895) và cuốn sách song hành của nó, Diễn giải xã hội và đạo đức về sự phát triển tinh thần (1897), là những nỗ lực để đưa đề tài di truyền về sự phát triển vào tâm lý học mới và “để thu hẹp khoảng cách giữa nghiên cứu các thiết chế xã hội (tức là xã hội học) và nghiên cứu hoạt động của cá nhân (tức là tâm lý học)”. Ảnh hưởng của Hall bị hạn chế bởi cuộc tấn công quan trọng từ những người liên quan chặt chẽ đến phương pháp luận yếu trong bảng hỏi của ông. Tuy nhiên, Hall và Baldwin đã đưa ra tâm lý học về sự phát triển của trẻ em và các phương pháp phù hợp với phần nghiên cứu của tâm lý học mới. Nhưng ảnh hưởng trực tiếp của lý thuyết tiến hóa đối với nghiên cứu trẻ em là rất nhỏ. Tuy nhiên, thuyết tiến hóa ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc nghiên cứu sự khác biệt của từng cá nhân. Để chọn lọc tự nhiên được coi là cơ chế chính của quá trình tiến hóa, sự biến đổi trong các quần thể loài là cần thiết để lựa chọn các đặc điểm làm cơ sở cho sự thích nghi và tồn tại trong các môi trường thay đổi và khác nhau.

Francis Galton, một người anh họ của Darwin, đã đóng góp vào lịch sử tâm lý học thông qua các phép đo về đặc điểm thể chất và tâm lý của những cá nhân đến thăm Phòng thực nghiệm Nhân trắc học của ông. Các phép đo về các đặc điểm thể chất như kích thước đầu, chiều dài cánh tay, chiều cao và cân nặng, và các đặc điểm hoạt động như thời gian phản ứng và độ nhạy bén của giác quan, được Galton sử dụng và điều chỉnh từ các nhiệm vụ của phòng thực nghiệm tâm lý, được sử dụng làm bài kiểm tra trí thông minh. Thuật ngữ trí thông minh được sử dụng để chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân về khả năng của họ đối với các hành vi phức tạp như lý luận và giải quyết vấn đề hơn là để biểu thị sự khác biệt giữa các loài trong việc thích nghi với môi trường, thuật ngữ này được sử dụng phổ biến hơn vào thế kỷ XIX. James McKeen Cattell, người đã học với Hall tại Johns Hopkins trước khi lấy bằng Tiến sĩ với Wundt, theo đuổi mối quan tâm của mình đối với sự biến đổi cá nhân, trong khi ở phòng thực nghiệm của Francis Galton’s London. Cattell trở lại thành lập phòng thực nghiệm tại Đại học Columbia và điều chỉnh các nhiệm vụ trong phòng thực  nghiệm quen thuộc với ông ở cả Leipzig và London để xác định và đo lường sự khác biệt về thời gian phản ứng, độ nhạy cảm, ước tính thời gian và khoảng thời gian trí nhớ ở sinh viên đại học. Giống như Galton, ông đưa ra lý thuyết rằng các nhiệm vụ như thời gian phản ứng, độ nhạy bén của giác quan, trí nhớ và khoảng thời gian hiểu biết sẽ tiết lộ khả năng trí tuệ của một cá nhân. Nỗ lực của ông để liên kết điểm số của các nhiệm vụ này với kết quả học tập của các sinh viên và nó đã chứng minh rất ít mối liên hệ giữa hai biến nhưng vẫn thể hiện nỗ lực ban đầu để đo lường trí thông minh của các cá nhân.

Đánh giá sự khác biệt cá nhân giữa con người không nhất thiết phải đưa ra kết luận thích hợp về kết quả của quá trình tiến hóa vì tầm quan trọng của các yếu tố xã hội và văn hóa trong việc xác định sự khác biệt giữa các cá nhân. Nghiên cứu của Galton về sự khác biệt giới tính trong các đặc điểm tâm lý phản ánh quan điểm xã hội và văn hóa về khả năng và vai trò thích hợp của phụ nữ và nam giới hơn là sự khác biệt có thể được quy cho các lực lượng tiến hóa. Thành kiến này rất phổ biến vào thời điểm đó và được giải quyết bằng nghiên cứu của một trong những sinh viên sau đại học của James R. Angell, Helen Bradford Thompson. Luận án của cô, hoàn thành tại Đại học Chicago năm 1900 và sau đó được xuất bản với tên The Mental Traits of Sex (1903), là cuộc nghiên cứu thực nghiệm có hệ thống đầu tiên về sự khác biệt giới tính trong khả năng vận động, cảm giác, trí tuệ và ảnh hưởng. Phân tích tỉ mỉ, chi tiết về kết quả đã dẫn đến kết luận của cô ấy rằng “sự khác biệt về tâm lý của giới tính dường như phần lớn là do sự khác biệt về năng lực trung bình, cũng không phải sự khác biệt về loại hình hoạt động trí óc, mà là sự khác biệt về ảnh hưởng xã hội mang lại. trên cá thể đang phát triển từ giai đoạn sơ sinh đến những năm trưởng thành”. Năm 1910, Helen Thompson, đã xem lại các tài liệu về sự khác biệt giới tính và khẳng định, “Có lẽ không có lĩnh vực nào khao khát trở thành khoa học khi mà thành kiến cá nhân trắng trợn, logic bị bỏ mạng vì ủng hộ một định kiến, những lời khẳng định vô căn cứ, và thậm chí sự thối rữa và nhỏ giọt về tình cảm, đã gây ra bạo loạn đến mức độ như ở đây”. Những kết luận tương tự có thể đã được rút ra về sự so sánh giữa các chủng tộc bắt đầu trước khi thuyết tiến hóa phát triển. Những so sánh này cũng đã được dùng để biện minh cho một hệ thống phân cấp đặt người da trắng ở vị trí cao hơn, và các nghiên cứu sau đó dưới cơ sở thuyết tiến hóa tiếp tục được thực hiện và giải thích theo những thành kiến văn hóa lâu đời.

Bị ảnh hưởng bởi phong trào nghiên cứu trẻ em của Cattell và Hall, Lightner Witmer (1867 – 1956), đã cố gắng đưa hiệu suất của các nhiệm vụ trong phòng thực nghiệm vào ứng dụng thực tế trong ngành học mới mà ông đặt tên là “Tâm lý học lâm sàng”. Thiết bị và phương pháp của thực nghiệm trong phòng thực nghiệm đã thành công trong việc đánh giá sự khác biệt giữa các cá nhân nhưng được chứng minh là không có giá trị đối với mục đích của Witmer. Sự thất bại này, trong trường hợp kiểm tra trí thông minh, dẫn đến việc sàng lọc và phát triển các bài kiểm tra theo mô hình của Alfred Binet và trong trường hợp của Witmer, dẫn đến việc tìm kiếm các phương pháp phù hợp hơn để hỗ trợ các cá nhân. Những nỗ lực này cũng dẫn đến nỗ lực xác định các đặc điểm của các cá nhân, như trí thông minh, đều có thể đo lường, đánh giá nhân cách và các xét nghiệm chẩn đoán lâm sàng. Đối với nhiều nhà tâm lý học, sự khác biệt của từng cá nhân là một điều làm xao lãng sự hiểu biết về các quy luật chung chi phối tâm lý, trong khi đối với những người khác, việc hiểu được tâm lý cá nhân là nhiệm vụ thú vị nhất đối với tâm lý học.

Đọc thêm

Thuyết tiến hóa của Darwin đã đặt ra câu hỏi về mục đích thích ứng của ý thức và mối quan hệ của con người với tổ tiên động vật đã đặt ra các vấn đề về việc liệu con người có bản năng hay không và liệu động vật có biểu hiện năng lực trí tuệ và ý thức như con người trong việc thích nghi với môi trường thay đổi hay không. Năng lực học tập và ý thức dường như phụ thuộc vào sự phức tạp của hệ thần kinh. George J. Romanes (1848 – 1894) đã khám phá những mối quan tâm này bằng cách thu thập các giai thoại về động vật hoang dã và vật nuôi, cung cấp bằng chứng về khả năng lập luận và giải quyết vấn đề tương tự.  Phương pháp nghiên cứu của Romanes và các kết luận nhân học về năng lực của động vật đã bị C. Lloyd Morgan (1852 – 1936) chỉ trích vì dựa trên những giai thoại không có căn cứ và suy luận loại suy yếu. Morgan nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quan sát và khuyến khích sự tỉ mỉ trong việc giải thích các quan sát về hành vi của động vật. Sự thận trọng của ông về vấn đề này được biết đến với cái tên Morgan's Canon: "Trong mọi trường hợp, hoạt động của động vật không nên được giải thích theo các quá trình tâm lý cao hơn nếu nó có thể được giải thích theo các quá trình thấp hơn trong quy mô tiến hóa tâm lý". Morgan sử dụng các phương pháp thực nghiệm và quan sát trong môi trường tự nhiên và đưa ra giả thuyết rằng động vật học được thông qua sự liên kết các ý tưởng, phù hợp với truyền thống triết học về thuyết liên kết. Bằng cách này, Morgan đã kích thích sự quan tâm đến việc nghiên cứu học tập, không chỉ là sự thích nghi với môi trường, mà còn là tiêu chí để suy ra ý thức hay tâm lý của động vật.

Tại Clark, nghiên cứu về hành vi của động vật đã cố gắng mô tả tâm lý động vật và nghiên cứu sự phát triển của hệ thần kinh. Nghiên cứu trước đây được thể hiện bằng việc Willard Small sử dụng mê cung để nghiên cứu các quá trình tâm lý của chuột bạch liên quan đến học tập. Nghiên cứu thứ hai được đại diện bởi H. H. Donaldson, người đã cố gắng mô tả sự phát triển của hệ thần kinh ở chuột và người. Một mục đích của nghiên cứu này của Donaldson và Small là liên hệ sự phức tạp của hệ thần kinh giữa các loài và giữa các cá thể trong cùng một loài với sự khác biệt về khả năng hành vi và tâm lý.  Công việc tại Clark được tiến hành theo tinh thần của Morgan và E. L. Thorndike (1874 – 1949), người vào năm 1898. Luận án của Thorndike, Trí thông minh động vật (1898), báo hiệu một sự thay đổi lớn từ nghiên cứu chủ quan, nội quan, giai thoại về động vật sang phương pháp thực nghiệm khách quan, định lượng với trọng tâm là học tập. Thorndike đã theo đuổi nghiên cứu sau đại học tại Harvard với cuộc nghiên cứu về hành vi của gà cho đến khi bà chủ nhà phản đối buộc ông phải chuyển các thí nghiệm về gà của mình xuống tầng hầm của ngôi nhà William James. Thorndike sau đó đã đưa hai "con gà được giáo dục tốt nhất" của mình để nghiên cứu sự di truyền các đặc điểm có được tại Đại học Columbia với James McKeen Cattell. Chủ đề này không có kết quả lắm, và thay vào đó Thorndike đã chọn để kiểm tra hoạt động của mèo và chó nhỏ trong các hộp giải đố. Hộp của Thorndike được thiết kế để cho phép quan sát những nỗ lực thoát ra khỏi hộp để lấy thức ăn của động vật. Nhiều hộp khác nhau yêu cầu thao tác đòn bẩy, kéo vòng hoặc kết hợp các phản ứng để động vật thoát ra khỏi hộp. Thorndike đã ghi lại và vẽ biểu đồ thời gian cần thiết để thoát khỏi chiếc hộp dưới dạng hàm của số lần thử nghiệm. Ông giải thích sự suy giảm dần dần của đường cong mô tả thời gian cần thiết để thoát ra khỏi chiếc hộp được biểu đồ tiết lộ có nghĩa là việc học được tiến hành dần dần, thông qua thử và sai. Các câu trả lời dẫn đến việc thoát khỏi hộp giải đố dường như được lựa chọn từ các chuyển động ngẫu nhiên, theo cách tương tự như quá trình chọn lọc tiến hóa. Thorndike nhấn mạnh rằng các phản ứng đã được thực hiện trực tiếp với tình huống kích thích mà không có sự trung gian của các ý tưởng. Mối quan hệ giữa phản ứng và tình huống được củng cố nếu phản ứng được theo sau bởi một kết quả thỏa mãn, hoặc yếu đi nếu nó được kéo theo một hậu quả không thỏa đáng. Tuyên bố này đã tạo thành “luật hiệu lực” của Thorndike. Ông cũng cho rằng mối quan hệ giữa tình huống và phản ứng trở nên được củng cố thông qua việc thực hành và bị suy yếu do không sử dụng: “luật thực hành”. Thorndike tuyên bố rằng hai định luật này, cùng với sự “sẵn sàng” của động vật để phản ứng trong tình huống, chiếm phần lớn trong quá trình học của động vật. Trong công trình đầu tiên của mình về tâm lý học so sánh, Thorndike đã nhấn mạnh sự không liên tục giữa động vật và con người. Tuy nhiên, đến năm 1911, ông thay đổi quan điểm của mình để nhấn mạnh thay vào đó là tính phổ biến của quy luật tác dụng và các quy luật học tập khác. Mặc dù sức mạnh của các định luật của Thorndike là chỉ rõ mối quan hệ thường xuyên giữa một tình huống và các phản ứng mà nhưng không có bất kỳ nỗ lực nào để đánh giá nội dung tâm lý của động vật khi phản ứng, tâm lý học so sánh ngay lập tức không theo yêu cầu ban đầu mà chính nó đề ra.

Mối quan tâm về giá trị thích ứng của ý thức ở người và động vật tiếp tục được giải quyết trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Việc xác định các mức độ phức tạp của hệ thần kinh có thể biện minh cho những suy luận về bản chất của ý thức động vật và năng lực hành vi thông minh được minh chứng rõ nhất bởi cái mà đôi khi được gọi là cuốn sách giáo khoa đầu tiên về tâm lý học so sánh, Margaret Washburn's The Animal Mind (1908). Margaret Floy Washburn (1871 - 1939), người phụ nữ đầu tiên lấy bằng tiến sĩ tâm lý học và là nữ chủ tịch thứ hai của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (1921), đã tổng kết và sắp xếp các tài liệu rải rác về tâm lý động vật và đưa ra một cuộc thảo luận sâu rộng về phương pháp nghiên cứu với động vật. Washburn đã tìm cách hiểu trải nghiệm có ý thức của động vật theo cách tiếp cận tâm lý học so sánh được đặc trưng là “chủ quan, suy diễn và logic chặt chẽ”. Washburn bị ảnh hưởng bởi các nghiên cứu và bài viết của cả Morgan và Thorndike; giống như Thorndike, bà ủng hộ việc sử dụng các quy trình thực nghiệm khách quan và nghiêm ngặt, nhưng, giống như Morgan, bà vẫn kiên trì quan điểm của mình rằng động vật sở hữu một ý thức mà tâm lý học có nghĩa vụ xác định. Và xu hướng ngày càng tập trung vào dữ liệu đến từ hành vi như là một bằng chứng phù hợp khẳng định vị thế khoa học của tâm lý học.

Đọc thêm

Việc từ bỏ tâm lý là chủ đề của tâm lý học, chú trọng tới các tiêu chuẩn khoa học được đáp ứng bằng các quy trình thu thập và xử lý dữ liệu và việc tăng cường xây dựng lý thuyết dường như là những dấu hiệu của sự trưởng thành về mặt khoa học trong tâm lý học. Những đặc điểm này được xác định chặt chẽ nhất với các lý thuyết hành vi mới về học tập và hành vi vốn là trọng tâm của phần lớn của tâm lý học trong phòng thực nghiệm từ những năm 1930 đến những năm 1960. Những lý thuyết này tập trung vào các đối tượng động vật và các mô hình học tập và hành vi.

Mối quan tâm liên tục đến tình trạng khoa học của tâm lý học đã thu hút các nhà tâm lý học đến với cách tiếp cận khoa học do nhà vật lý Harvard Bridgman (1927) ủng hộ, người đã đưa ra trường hợp xác định các hiện tượng không thể quan sát được, chẳng hạn như lực hấp dẫn hoặc các yếu tố vật lý giả thuyết như electron, về mặt các phép toán mà theo đó tác động của chúng lên các sự kiện có thể quan sát được. Sinh viên của E. G. Boring, S. S. Stevens (1906 – 1973), tại Harvard về tâm lý học, đề xuất rằng tâm lý học áp dụng toán học nghiêm ngặt hơn. Chỉ những thuật ngữ có thể được định nghĩa về mặt thao tác mới có ý nghĩa về mặt khoa học; đối với tất cả các mục đích thực tế, chỉ có tâm lý học hành vi mới có thể đáp ứng tiêu chí này. Việc nhấn mạnh vào các định nghĩa thao tác đã ảnh hưởng đến ngôn ngữ diễn đạt trong tâm lý học và các lý thuyết về hành vi phát triển trong bối cảnh chủ nghĩa thực chứng logic, một cách tiếp cận giới hạn khoa học đối với các hiện tượng có thể quan sát được.

Đọc thêm

Bác bỏ định nghĩa truyền thống của tâm lý học là khoa học về tâm lý và ý thức thì John B. Waston định nghĩa lại bản thân tâm lý học như một khoa học về hành vi. Watson đến Đại học Chicago vào năm 1900 để bắt đầu công việc sau đại học sau khi lấy bằng đại học về triết học và tâm lý học từ Đại học Furman. H. H. Donaldson, người đã chuyển đến Đại học Chicago từ Đại học Clark, mang theo chương trình nghiên cứu của mình nhằm điều tra mối quan hệ giữa sự phát triển của hệ thần kinh và hành vi của loài chuột. Các phòng thí nghiệm động vật rất ít, vào năm 1909, chỉ có khoảng sáu phòng thí nghiệm hoạt động tích cực trong nghiên cứu động vật. Đối với luận văn của mình, Watson đã chọn điều tra các mối tương quan thần kinh của việc giải quyết vấn đề ở chuột bạch và thực hiện các thí nghiệm bổ sung với chuột để xác định phương thức cảm giác nào là cần thiết để học mê cung bằng cách loại bỏ một cách có hệ thống từng phương thức. Ông đã cắt bỏ mắt, màng nhĩ, khứu giác, râu và gây mê bàn chân của chuột và phát hiện ra rằng những con vật dường như sử dụng phản hồi động học để đến được ô mục tiêu. Báo cáo đầu tiên của Watson về những thí nghiệm này tại cuộc họp thường niên của APA được tổ chức vào tháng 12 năm 1906 cùng với Hiệp hội vì sự tiến bộ của khoa học Hoa Kỳ (AAAS) đã dẫn đến sự phản đối kịch liệt của những người theo chủ nghĩa chống giải phẫu sinh thể [anti-vivisectionists]. Ông được Angell và chủ tịch APA lúc đó là James Mark Baldwin công khai bảo vệ. Watson đã trở nên chán nản với ngôn ngữ của ý thức và tâm lý bằng phương pháp nội quan và ngày càng quan tâm đến tình trạng nghiên cứu động vật trong tâm lý học. Viết thư cho nhà tâm lý học so sánh Robert Mearns Yerkes vào năm 1910, Watson bày tỏ các vấn đề về danh tính của mình: “Tôi là một nhà sinh lý học và tôi đi xa hơn khi nói rằng tôi sẽ sửa đổi tâm lý học như chúng ta đang có và xây dựng lại thái độ của chúng ta bằng cách tham khảo toàn bộ vấn đề của ý thức. Tôi không tin rằng nhà tâm lý học đang nghiên cứu về ý thức hơn chúng ta”.

Trong một loạt các bài giảng tại Đại học Columbia vào tháng 12 năm 1912, Watson đã bày tỏ sự khó chịu của mình với tâm lý học về ý thức và đề xuất một tâm lý học về hành vi để thay thế nó. Mặc dù “Tuyên ngôn hành vi” cuae Waston không tạo ra một cuộc cách mạng trong tâm lý nhưng nó đã giúp nâng cao vị thế của nghiên cứu động vật và chú trọng nhiều hơn vào việc giải thích hành vi hơn là tâm lý. Watson quan niệm rằng mục tiêu của tâm lý học là dự đoán và kiểm soát hành vi đã kết hợp tầm nhìn của tâm lý học như một công cụ để kiểm soát xã hội và do đó, ứng dụng của nó cho giáo dục, công nghiệp và các lĩnh vực tâm lý học ứng dụng khác. Titchener cáo buộc Watson đã biến tâm lý học thành một công nghệ hơn là một khoa học. Nhưng công nghệ hay không không quan trọng, trọng điểm mà Watson nói về khoa học là đòi hỏi độ tin cậy của các quan sát công khai và có thể tái lập tương tự. J. B. Watson đề xuất rằng phản xạ vận động có điều kiện có thể được áp dụng cho động vật và con người và do đó hình thành cơ sở xây dựng của hành vi. Giống như Titchener, Watson tin rằng khoa học tiến hành bằng phân tích, nhưng thay vì các yếu tố của tâm lý, Watson tìm kiếm các yếu tố của hành vi và phản xạ có điều kiện là một trong những yếu tố đó. Nghiên cứu về phản xạ có lịch sử lâu đời trong sinh lý học. Định luật Bell-Magendie đã phân biệt giữa các dây thần kinh cảm giác và vận động ở cấp độ của tủy sống. Sự khác biệt này tạo tiền đề cho sự hiểu biết về hành động phản xạ và kích thích nghiên cứu về bản chất và tốc độ dẫn truyền xung thần kinh dẫn đến các nghiên cứu về thời gian phản ứng của Johannes Müller và Hermann von Helmholtz. Nhà sinh lý học người Nga Ivan Mikhailovich Sechenov (1829 – 1905) đã chứng minh rằng các quá trình của não có thể ảnh hưởng đến hành động phản xạ bằng cách kích thích một số khu vực của não bằng các tinh thể muối để làm giảm cường độ chuyển động phản xạ của chân ếch. Sechenov (1863 – 1965) cho rằng nguyên nhân của các sự kiện tâm lý là do môi trường; kích thích giác quan bên ngoài tạo ra tất cả các hành vi, có ý thức và vô thức, thông qua tổng hợp của hoạt động hưng phấn và ức chế trong não.

Nghiên cứu của Pavlov về sinh lý học của quá trình tiêu hóa đã mang về cho ông giải Nobel năm 1904 liên quan đến phương pháp “cho ăn giả” trong đó một lỗ rò hoặc ống trong thực quản ngăn không cho thức ăn đưa vào miệng chó vào dạ dày. Một ống thứ hai được đưa vào dạ dày được sử dụng để lấy dịch vị. Trong quá trình thực hiện những thí nghiệm này, Pavlov lưu ý rằng tiết dịch vị không chỉ xảy ra để phản ứng với thức ăn trong miệng mà còn chỉ cần nhìn thấy thức ăn, hoặc người trợ lý thường cho chú chó ăn. Ông gọi những thứ này là “bí mật tâm linh”. Cùng với sinh viên Stefan Vul’fson của mình, Pavlov và Vul’fson đã sử dụng các thuật ngữ tâm lý để mô tả phản ứng của tuyến nước bọt khi nhìn thấy thức ăn: Chó “đánh giá”, “sắp xếp” hoặc “chọn” phản ứng của chúng. Pavlov sau đó đổi “bí mật tâm linh” thành “phản xạ có điều kiện”, sau khi các thí nghiệm chứng minh tính đều đặn trong thực nghiệm của cái mà đồng nghiệp Tolochinov gọi là “phản xạ ở khoảng cách xa”. Dựa trên những thí nghiệm ban đầu của Sechenov về việc ức chế phản xạ tủy sống, công trình trong phòng thí nghiệm của Pavlov tập trung vào việc thiết lập (điều kiện hóa) và loại bỏ (dập tắt) các phản xạ đối với nhiều loại kích thích và kiểm soát chúng bằng hoạt động kích thích và ức chế trong não. J. B. Watson đã cố gắng chứng minh cách nghiên cứu về phản xạ có điều kiện có thể tiết lộ nguồn gốc của các kiểu hành vi phức tạp. Trong thí nghiệm nổi tiếng nhất của mình, được thực hiện với nghiên cứu sinh Rosalie Rayner, ông đã điều chỉnh các phản ứng cảm xúc ở một đứa trẻ 11 tháng tuổi, "Albert B, bằng cách dùng búa đập vào thanh thép, Watson và Rayner có thể khiến trẻ sơ sinh khóc. Sau đó, họ thêm vào con chuột trắng. Ban đầu Albert không hề tỏ ra sợ hãi. Nhưng sau nhiều lần con chuột này xuất hiện cùng lúc với tiếng búa đập vào thanh thép, Albert tỏ ra sợ hãi với con chuột. Họ báo cáo đã điều chỉnh thành công nỗi sợ chuột ở Albert, và xa hơn nữa, nỗi sợ hãi này được mở rộng thành thỏ, chó, áo khoác lông và đeo mặt nạ ông già Noel. Nghiên cứu này là một minh chứng ấn tượng hơn là một thí nghiệm được kiểm soát cẩn thận, song vẫn thể hiện tầm nhìn của Watson.

Edwin R. Guthrie (1886 – 1959), đã định nghĩa tâm lý là “một phương thức hành vi, cụ thể là hành vi thay đổi theo cách sử dụng hay thực hành - hành vi, nói cách khác, thể hiện sự học hỏi”. Khả năng học hỏi, như C. Lloyd Morgan đã đề xuất, đặc trưng cho việc sở hữu trí óc ở các sinh vật sống. Lý thuyết học tập của Guthrie rất đơn giản: Học tập xảy ra thông qua sự phát triển các mối liên hệ giữa các kích thích và phản ứng. Những liên kết này được hình thành bởi sự liền kề: “Sự kết hợp của các kích thích đi kèm với một ý chí chuyển động trên sự tái diễn của nó có xu hướng được theo sau bởi chuyển động đó”. Ông đã bác bỏ các định luật về tác dụng và thực hành của Thorndike, thay vào đó tuyên bố rằng bản chất rõ ràng là học tập là kết quả của một loạt các tình huống thử nghiệm trong đó các chuyển động thay vì là đáp ứng với các kích thích. Vai trò của kết quả mà phản ứng tạo nên, dù thỏa mãn hay khó chịu, làm thay đổi tình huống kích thích, chứ không phải củng cố mối liên hệ khó quan sát giữa kích thích và phản ứng. Trái ngược với các phương pháp tiếp cận của E. R. Guthrie về việc học, Edward Chace Tolman (1886 – 1959) đề xuất một lý thuyết giải thích hành vi dưới góc độ “động cơ, mục đích và khuynh hướng xác định”. Đối với Tolman, các sự kiện nhận thức can thiệp giữa các kích thích tiền phát và kết quả hành vi của chúng. Clark Hull (1884 – 1952) đã đề xuất một lý thuyết hành vi được mã hóa logic chính thức: “Trong khoa học, một sự kiện quan sát được cho là được giải thích khi mệnh đề diễn đạt nó được suy ra một cách hợp lý từ một tập hợp các định nghĩa và định đề cùng với một số điều kiện quan sát là tiền đề cho sự kiện”. Phương pháp tâm lý theo lý thuyết của Hull bao gồm một tập hợp các định đề và hệ quả và các phát biểu toán học của chúng để cho phép các dự đoán định lượng về hành vi. Mục tiêu của Hull là phát triển tâm lý học như một môn khoa học tự nhiên bằng cách chứng minh rằng các hiện tượng hành vi tuân theo các quy luật phổ quát, định lượng có thể được phát biểu bằng các phương trình có thể so sánh với các quy luật vật lý. Ngay cả nhiều thế kỷ sau Kant, Hull vẫn cố gắng chứng minh rằng tâm lý học thực sự có thể trở thành một khoa học đáp ứng các tiêu chuẩn tương tự như khoa học vật lý. Chương trình nghiên cứu của Hull hướng đến việc khám phá ra các định luật như vậy và xây dựng các phương trình mô tả chúng. Lý thuyết về hành vi của ông đã xây dựng các biến lý thuyết theo thuật ngữ hoạt động, xác định chúng bằng các phương trình và dự đoán kết quả thực nghiệm. Các thí nghiệm của Hull, Tolman và sinh viên của họ được thiết kế để cung cấp các thử nghiệm quan trọng về các dự đoán từ lý thuyết tương ứng của họ. Nhưng những dự đoán chính xác từ lý thuyết chính thức của Hull thường không được không được xác nhận, và những lời chỉ trích về lý thuyết bắt đầu xuất hiện từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm cả các sinh viên của chính Hull.

Đọc thêm

Các thực nghiệm được tạo ra bởi các cuộc tranh luận giữa các cách tiếp cận khác nhau về học dựa trên chủ nghĩa hành vi tiếp tục thống trị các tài liệu về tâm lý học thực nghiệm. Phương pháp nội quan như một cách thu thập dữ liệu về tâm lý đã mất đi tính ưu việt của nó với sự kết thúc của chủ nghĩa cấu trúc. Các báo báo cáo về các thực nghiệm về tri giác bởi sự nhấn mạnh của tâm lý học hình thái về việc con người tổ chức tri giác như thế nào, tiếp tục xuất hiện trên các tạp chí tâm lý học cùng với các nghiên cứu về các quá trình tâm lý cấp cao của tư duy và cách chúng ta giải quyết vấn đề. Tâm lý học chức năng, giống như một quan điểm hơn là một trường phái hệ thống. Các nghiên cứu về các quá trình tâm lý cấp cao ở động vật không hoàn toàn bị bỏ qua, chủ nghĩa hành vi đã để lại một di sản của nghiên cứu động vật tập trung vào việc giải thích phản ứng kích thích. Tâm lý học đã định nghĩa lại chính nó từ khoa học về tâm lý thành khoa học về hành vi. Các tài liệu tham khảo về tâm lý hoặc các quá trình tâm lý hiếm khi được tìm thấy trong sách giáo khoa và tạp chí.

Trong những thập kỷ của những năm 1950 và 1960, ngôn ngữ diễn đạt và mô hình nghiên cứu trong tâm lý học bắt đầu thay đổi. Những giải thích về hành vi xuất phát từ các thực nghiệm về mê cung và nghiên cứu cổ điển hóa điều kiện và thao tác hóa điều kiện đã bị tấn công bởi những người nghiên cứu các mẫu hành vi phức tạp hơn. Việc học vẹt các danh sách nối tiếp và các liên kết được ghép nối bằng lời nói được thừa nhận là chỉ đại diện cho một phạm vi học tập hạn chế của con người. Lý thuyết thông tin, được phát triển trong Chiến tranh thế giới thứ hai như một công cụ để đo lường năng lực của con người với tư cách là người xử lý và truyền tải thông tin, đã cung cấp một thước đo mới về hiệu suất của con người và năng lực đưa ra phán đoán và sự lựa chọn. Các cuộc thảo luận về năng lực của con người trong việc giảm thiểu, truyền tải hoặc tạo ra thông tin đã làm mới sự quan tâm đến năng lực nhận thức của việc ra quyết định và giải quyết vấn đề và được đề xuất rằng có sự tương đồng với công nghệ máy tính được phát triển gần đây. Sự quan tâm đến phát triển nhận thức đã làm hồi sinh tâm lý trẻ em khi chuyển từ tập trung vào phát triển giác quan - vận động sang tập trung vào tư duy, hình thành các khái niệm và hiểu biết của trẻ về thế giới. Các lý thuyết của Jean Piaget (1896 – 1980) mô tả sự phát triển ngôn ngữ và nhận thức trong thời thơ ấu đã xuất hiện vào những năm 1920 và 1930 ở châu Âu nhưng đã có ảnh hưởng ở Hoa Kỳ chỉ vài thập kỷ sau đó. Nghiên cứu thực nghiệm khám phá sự phát triển về nhận thức và xã hội ở trẻ em đã chiếm lĩnh lĩnh vực tâm lý học phát triển, không còn đơn giản là tâm lý học trẻ em mà đã sớm bao trùm cả cuộc đời. Sự thay đổi nhấn mạnh này trong nghiên cứu về sự phát triển của con người song song với những thay đổi trong nghiên cứu về người lớn và động vật.

Các nhà tâm lý học dường như ít quan tâm đến tình trạng khoa học của tâm lý học và quan tâm nhiều hơn các “kiểu khoa học” tâm lý học. Quan điểm hành vi của một sinh vật chủ yếu thụ động có hành vi cơ học bị chi phối bởi các sự kiện môi trường ngày càng trở thành một mô hình ngày càng kém hiệu quả. Kết quả của các thực nghiệm điều kiện Pavlovian bắt đầu được giải thích dưới dạng các sự kiện nhận thức và báo hiệu sự sẵn sàng ngày càng tăng trong việc xem xét vai trò của các quá trình tâm lý quyết định đến hành vi ở cả người và động vật. Các tạp chí Tâm lý học Nhận thức (1970) và Trí nhớ và Nhận thức (1973) được thành lập để cung cấp một lối thoát cho các nghiên cứu trí nhớ con người và bị ảnh hưởng bởi các phép loại suy với máy tính và các quan niệm về xử lý thông tin. Các chủ đề về tâm lý học theo hướng tâm lý học cũ, chẳng hạn như sự chú ý, hình thành khái niệm và tư duy, trở nên nổi bật hơn trong nghiên cứu tâm lý học. Thuật ngữ “tâm lý”, bị loại khỏi từ vựng tâm lý học trong thời kỳ hoàng kim của lý thuyết hành vi, bắt đầu xuất hiện trở lại trong sách giáo khoa và quan trọng hơn là trong việc phát triển các lý thuyết về năng lực nhận thức của con người và động vật. Tầm quan trọng của sự thay đổi trong các chương trình nghiên cứu và các cấu trúc lý thuyết cho thấy rằng tâm lý học đã trải qua một sự thay đổi mang tính cách mạng, trong khi những người khác coi sự thay đổi này là một phần của sự phát triển lịch sử bình thường của ngành này. Tuy nhiên, những phát triển này trong tâm lý học khoa học đại diện cho sức sống không ngừng của ngành khi các nhà tâm lý học giải quyết các vấn đề truyền thống của tâm lý và hành vi trong việc làm tâm lý học trở nên khoa học.

Đọc thêm

Trường phái trong dòng lịch sử

Tâm lý học trở thành khoa học độc lập khi nào
(Structuralism - Functionalism)

Wilhelm Wundt là nhà sinh lý học người Đức và cũng được coi là nhà tâm lý học đầu tiên. Cuốn sách nổi tiếng của ông có tựa đề “Các nguyên tắc Tâm lý Sinh lý học” được xuất bản năm 1873. Wundt xem tâm lý học như một khoa học nghiên cứu về kinh nghiệm có ý thức, và ông tin rằng mục tiêu của tâm lý học là xác định các thành phần của ý thức và cách các thành phần đó kết hợp để tạo ra trải nghiệm có ý thức của mỗi người. Wundt đã sử dụng cái gọi là phương pháp nội quan. Đây là một quá trình mà ai đó kiểm tra trải nghiệm ý thức của chính mình một cách khách quan nhất có thể. Điều này nhằm biến tâm lý con người cũng giống như bất kỳ khía cạnh nào khác của tự nhiên mà có thể quan sát được.

Phương pháp nội quan của Wundt chỉ sử dụng những điều kiện thực nghiệm rất cụ thể trong đó kích thích bên ngoài được thiết kế để tạo ra trải nghiệm tâm lý có thể quan sát được (có thể lặp lại) một cách khoa học. Yêu cầu nghiêm ngặt đầu tiên là sử dụng các quan sát viên “được đào tạo” hoặc đã qua thực hành, những người có thể quan sát và báo cáo phản ứng ngay lập tức. Yêu cầu thứ hai là việc sử dụng các kích thích lặp lại luôn tạo ra trải nghiệm giống nhau ở đối tượng và cho phép đối tượng hoàn toàn chú ý đến phản ứng bên trong. Những yêu cầu thử nghiệm này được đưa ra nhằm loại bỏ "sự diễn giải" trong việc báo cáo trải nghiệm nội quan và để chống lại lập luận rằng không có cách nào để biết rằng một cá nhân đang quan sát chính xác tâm lý hoặc ý thức của họ, vì nó không thể bị bất kỳ người nào khác nhìn thấy. Rõ ràng tâm lý là một thứ vô hình.

Cố gắng tìm hiểu cấu trúc hoặc đặc điểm của tâm lý được gọi là cấu trúc luận. Wundt thành lập phòng thí nghiệm tâm lý của mình tại Đại học Leipzig vào năm 1879. Trong phòng thí nghiệm này, Wundt và các sinh viên của mình đã tiến hành các thí nghiệm về thời gian phản ứng chẳng hạn. Một đối tượng, đôi khi ở trong một căn phòng biệt lập với nhà khoa học, sẽ nhận được một kích thích như ánh sáng, hình ảnh hoặc âm thanh. Phản ứng của đối tượng đối với kích thích sẽ là nhấn một nút và một thiết bị sẽ ghi lại thời gian để phản ứng. Wundt có thể đo thời gian phản ứng chính xác đến một phần nghìn giây. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực của ông để đào tạo các cá nhân trong quá trình xem xét nội tâm, quá trình này vẫn mang tính chủ quan cao, và có rất ít sự thống nhất giữa các cá nhân. Kết quả là, cấu trúc luận không còn được ưa chuộng khi học sinh của Wundt, Edward Titchener, qua đời vào năm 1927.

William James (1842 – 1910) là nhà tâm lý học người Mỹ đầu tiên tán thành một quan điểm khác về cách thức hoạt động của tâm lý học. James đã được giới thiệu về thuyết tiến hóa của Darwin với quan điểm chọn lọc tự nhiên và chấp nhận nó như một lời giải thích về các đặc điểm của sinh vật. Chìa khóa của lý thuyết đó là ý tưởng rằng chọn lọc tự nhiên dẫn đến các sinh vật thích nghi với môi trường của chúng, bao gồm cả hành vi. Như James đã thấy, mục đích của tâm lý học là nghiên cứu chức năng của hành vi trong thế giới, và do đó, quan điểm của ông được gọi là chức năng luận.

Chức năng luận tập trung vào việc làm thế nào các hoạt động tâm lý giúp một sinh vật phù hợp với môi trường của nó và có một ý nghĩa thứ hai, tinh tế hơn ở chỗ quan tâm đến hoạt động của toàn thể tâm lý hơn là các bộ phận riêng lẻ của nó, vốn là trọng tâm của cấu trúc luận. Giống như Wundt, James tin rằng xem xét nội tâm có thể là một phương tiện để ai đó có thể nghiên cứu các hoạt động tâm lý, nhưng James cũng dựa vào các biện pháp khách quan hơn, bao gồm việc sử dụng các thiết bị ghi âm khác nhau và kiểm tra các sản phẩm cụ thể của các hoạt động tâm lý và giải phẫu và sinh lý học.

public 1879 Đọc thêm

Tâm lý học trở thành khoa học độc lập khi nào
(Psychoanalysis)

Có lẽ một trong những nhân vật có ảnh hưởng và nổi tiếng nhất trong lịch sử tâm lý học là Sigmund Freud. Freud (1856 – 1939) là một nhà thần kinh học người Áo, người hấp dẫn bởi những bệnh nhân mắc chứng “Hysteria” và rối loạn thần kinh. Hysteria là một chẩn đoán cổ xưa cho các chứng rối loạn, chủ yếu xảy ra ở phụ nữ với nhiều triệu chứng khác nhau, bao gồm các triệu chứng thể chất và rối loạn cảm xúc, không có triệu chứng nào rõ ràng là có nguyên nhân thực thể. Freud đưa ra giả thuyết rằng nhiều vấn đề của bệnh nhân ông phát sinh từ tâm lý vô thức. Theo quan điểm của Freud, tâm lý vô thức là một kho chứa những cảm xúc và sự thôi thúc mà chúng ta không nhận thức được. Do đó, việc tiếp cận vô thức là rất quan trọng để giải quyết thành công các vấn đề của bệnh nhân. Theo Freud, vô thức có thể được tiếp cận thông qua phân tích giấc mơ, lỡ lời và liên tưởng tự do. Lý thuyết phân tâm tập trung vào vai trò của vô thức của một người, cũng như những trải nghiệm thời thơ ấu, và quan điểm cụ thể này đã thống trị tâm lý học lâm sàng trong vài thập kỷ. Lý thuyết phân tâm học thường được sử dụng thay thế cho lý thuyết tâm động học, nhưng lý thuyết tâm động học thường áp dụng cho một lĩnh vực nghiên cứu rộng hơn dựa trên lý thuyết của Freud cũng như của những người theo ông.

public 1890 Đọc thêm

Tâm lý học trở thành khoa học độc lập khi nào
(Gestalt Psychology)

Max Wertheimer (1880 – 1943), Kurt Koffka (1886 – 1941), và Wolfgang Köhler (1887 – 1967) là ba nhà tâm lý học người Đức nhập cư vào Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 20 để trốn khỏi Đức Quốc xã. Những người này được cho là đã giới thiệu cho các nhà tâm lý học ở Hoa Kỳ những nguyên tắc Gestalt khác nhau. Một điểm nhấn chính của tâm lý học Gestalt đề cập đến thực tế là mặc dù trải nghiệm giác quan có thể được chia thành các phần riêng lẻ, nhưng cách các phần đó liên hệ với nhau như thế nào thường là những gì cá nhân phản ứng trong nhận thức. Ví dụ, một bài hát có thể được tạo thành từ các nốt riêng lẻ được chơi bởi các nhạc cụ khác nhau, nhưng bản chất thực sự của bài hát được nhận biết trong sự kết hợp của các nốt này khi chúng tạo thành giai điệu, nhịp điệu và hòa âm. Theo nhiều cách, quan điểm cụ thể này sẽ mâu thuẫn trực tiếp với ý tưởng của Wundt về chủ nghĩa cấu trúc.

Thật không may, khi chuyển đến Hoa Kỳ, những người này sẽ buộc phải loại bỏ công việc chính của họ và không thể tiếp tục thực hiện nghiên cứu trên quy mô lớn. Các yếu tố này cùng với sự trỗi dậy của chủ nghĩa hành vi ở Hoa Kỳ đã ngăn cản các nguyên tắc Gestalt ảnh hưởng ở Hoa Kỳ so như ở quê hương Đức. Tuy nhiên một số nguyên tắc Gestalt vẫn còn rất ảnh hưởng đến ngày hôm nay. Việc coi cá nhân con người như một tổng thể thay vì một bộ phận được đo lường riêng lẻ đã trở thành một nền tảng quan trọng trong lý thuyết nhân văn vào cuối thế kỷ này. Ý tưởng của Gestalt vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến nghiên cứu về cảm giác và nhận thức.

public 1912 Đọc thêm

Tâm lý học trở thành khoa học độc lập khi nào
(Behaviorism)

Các nhà tâm lý học theo chủ nghĩa cấu trúc, Freud và Gestalt đều quan tâm đến việc mô tả và hiểu trải nghiệm nội tâm theo cách này hay cách khác. Nhưng các nhà nghiên cứu khác lo ngại rằng trải nghiệm nội tâm có thể là một chủ đề khó quan sát của nghiên cứu khoa học và thay vào đó họ đã chọn chỉ nghiên cứu hành vi, kết quả vì nó có thể quan sát khách quan để diễn giải các quá trình tâm thần.

Công việc ban đầu trong lĩnh vực hành vi được tiến hành bởi nhà sinh lý học người Nga Ivan Pavlov (1849 – 1936). Pavlov đã nghiên cứu một dạng hành vi học tập được gọi là phản xạ có điều kiện, trong đó động vật hoặc con người tạo ra phản ứng phản xạ (vô thức) đối với một kích thích và theo thời gian, nó được điều kiện hóa để tạo ra phản ứng với một kích thích khác mà ban đầu người thí nghiệm liên quan. Phản xạ mà Pavlov hoạt động là tiết nước bọt khi có thức ăn. Phản xạ tiết nước bọt có thể được kích thích bằng cách sử dụng kích thích thứ hai, chẳng hạn như một âm thanh cụ thể, được trình bày cùng với kích thích thức ăn ban đầu nhiều lần. Một khi phản ứng với kích thích thứ hai đã được “học”, kích thích thực phẩm có thể được bỏ qua. “Điều kiện hóa cổ điển” của Pavlov chỉ là một dạng hành vi học tập được các nhà hành vi học nghiên cứu.

John B. Watson (1878 – 1958) là một nhà tâm lý học người Mỹ có ảnh hưởng với tác phẩm nổi tiếng nhất xảy ra vào đầu thế kỷ 20 tại Đại học Johns Hopkins. Trong khi Wundt và James quan tâm đến việc hiểu trải nghiệm có ý thức, Watson cho rằng nghiên cứu về ý thức là thiếu sót. Vì tin rằng việc phân tích tâm lý bên trong một cách khách quan là không thể, Watson tập trung trực tiếp vào hành vi có thể quan sát được và cố gắng kiểm soát hành vi đó. Watson là người đề xướng chính trong việc chuyển trọng tâm tâm lý học từ tâm lý sang hành vi, và phương pháp quan sát và kiểm soát hành vi này được gọi là chủ nghĩa hành vi. Đối tượng nghiên cứu chính của các nhà hành vi học là hành vi đã học và sự tương tác của nó với các phẩm chất bẩm sinh của sinh vật. Thuyết hành vi thường sử dụng động vật trong các thí nghiệm với giả định rằng những gì học được bằng cách sử dụng mô hình động vật, ở một mức độ nào đó, có thể được áp dụng cho hành vi của con người. Thật vậy, Tolman (1938) đã tuyên bố, “Tôi tin rằng mọi thứ quan trọng trong tâm lý học (ngoại trừ… những vấn đề như liên quan đến xã hội và lời nói) đều có thể được nghiên cứu về bản chất thông qua phân tích lý thuyết và thực nghiệm liên tục của những người xác định hành vi của chuột tại một điểm lựa chọn trong một mê cung."

Chủ nghĩa hành vi đã thống trị tâm lý học thực nghiệm trong vài thập kỷ, và ảnh hưởng của nó vẫn có thể được cảm nhận cho đến ngày nay. Chủ nghĩa hành vi chịu trách nhiệm phần lớn trong việc thiết lập tâm lý học như một bộ môn khoa học thông qua các phương pháp khách quan và đặc biệt là thực nghiệm. Ngoài ra, nó còn được sử dụng trong liệu pháp hành vi và nhận thức - hành vi. Sửa đổi hành vi thường được sử dụng trong môi trường lớp học. Chủ nghĩa hành vi cũng đã dẫn đến nghiên cứu về ảnh hưởng của môi trường đối với hành vi của con người.

B. F. Skinner (1904 – 1990) là một nhà tâm lý học người Mỹ. Giống như Watson, Skinner là một nhà hành vi học, và ông ấy tập trung vào việc hành vi bị ảnh hưởng như thế nào bởi hậu quả của nó. Do đó, Skinner nói về sự củng cố và trừng phạt là những yếu tố chính trong việc điều hướng hành vi. Là một phần trong nghiên cứu của mình, Skinner đã phát triển thiết bị cho phép nghiên cứu cẩn thận các nguyên tắc điều chỉnh hành vi thông qua việc củng cố và trừng phạt. Thiết bị này, được gọi là buồng điều kiện hóa tạo tác (hay quen thuộc hơn là hộp Skinner), vẫn là một nguồn lực quan trọng cho các nhà nghiên cứu nghiên cứu hành vi. Hộp Skinner là một buồng cách ly đối tượng khỏi môi trường bên ngoài và có chỉ báo hành vi như đòn bẩy hoặc nút. Khi con vật ấn nút hoặc đòn bẩy, chiếc hộp có thể mang lại sự củng cố tích cực cho hành vi (chẳng hạn như thức ăn) hoặc hình phạt (chẳng hạn như tiếng ồn) hoặc điều kiện hóa mã khóa (chẳng hạn như ánh sáng) tương quan với sự củng cố hoặc trừng phạt tích cực. Sự tập trung của Skinner vào việc củng cố tích cực và tiêu cực cho các hành vi đã học đã có ảnh hưởng lâu dài trong tâm lý học, điều này đã suy yếu phần nào kể từ khi phát triển nghiên cứu về tâm lý học nhận thức. Mặc dù vậy, học tập có điều kiện vẫn được sử dụng trong việc sửa đổi hành vi của con người. Hai cuốn sách khoa học phổ biến được đọc nhiều và gây tranh cãi của Skinner về giá trị của điều kiện hóa tạo tác để tạo ra cuộc sống hạnh phúc hơn vẫn là những lập luận kích thích tư duy cho cách tiếp cận của ông.

public 1913 Đọc thêm

Tâm lý học trở thành khoa học độc lập khi nào
(Humanism - Existentialism)

Trong suốt đầu thế kỷ 20, tâm lý học bị chi phối bởi chủ nghĩa hành vi và phân tâm học. Tuy nhiên, một số nhà tâm lý học không thoải mái với những gì họ coi là những quan điểm hạn chế có ảnh hưởng đến lĩnh vực này. Họ phản đối chủ nghĩa bi quan và thuyết tất định (mọi hành động do vô thức điều khiển) của Freud. Họ cũng không thích chủ nghĩa giản lược, hay bản chất đơn giản hóa, của chủ nghĩa hành vi. Chủ nghĩa hành vi cũng mang tính xác định về cốt lõi của nó, bởi vì nó coi hành vi của con người là hoàn toàn được quyết định bởi sự kết hợp của di truyền và môi trường. Một số nhà tâm lý học bắt đầu hình thành ý tưởng của riêng họ nhấn mạnh khả năng kiểm soát cá nhân, chủ ý và khuynh hướng “tốt” thực sự quan trọng đối với quan niệm về bản thân và hành vi của chúng ta. Do đó, chủ nghĩa nhân văn xuất hiện.

Chủ nghĩa nhân văn là một quan điểm trong tâm lý học nhấn mạnh tiềm năng tốt đẹp bẩm sinh của tất cả con người. Hai trong số những người ủng hộ tâm lý nhân văn nổi tiếng nhất là Abraham Maslow và Carl Rogers. Abraham Maslow (1908 – 1970) là một nhà tâm lý học người Mỹ, người nổi tiếng với việc đề xuất một hệ thống phân cấp nhu cầu của con người trong việc thúc đẩy hành vi.

Maslow khẳng định rằng miễn là các nhu cầu cơ bản cần thiết cho sự tồn tại được đáp ứng (ví dụ như thức ăn, nước uống, nơi ở), thì các nhu cầu cấp cao hơn (ví dụ: nhu cầu xã hội) sẽ bắt đầu thúc đẩy hành vi. Theo Maslow, nhu cầu cấp cao nhất liên quan đến quá trình tự hiện thực hóa, một quá trình mà chúng ta đạt được toàn bộ tiềm năng của mình. Rõ ràng, sự tập trung vào các khía cạnh tích cực của bản chất con người mà đặc trưng của quan điểm nhân văn là hiển nhiên.

Về nguyên tắc, các nhà tâm lý học nhân văn đã bác bỏ cách tiếp cận nghiên cứu dựa trên thử nghiệm thu nhỏ trong truyền thống của khoa học vật lý và sinh học, vì nó bỏ sót “toàn bộ” con người. Bắt đầu với Maslow và Rogers, có một sự kiên định đối với một chương trình nghiên cứu nhân văn. Chương trình này chủ yếu là định tính (không dựa trên đo lường), nhưng tồn tại một số chủng nghiên cứu định lượng trong tâm lý học, bao gồm nghiên cứu về hạnh phúc, khái niệm bản thân, thiền định và kết quả của liệu pháp tâm lý nhân văn.

Carl Rogers (1902 – 1987) cũng là một nhà tâm lý học người Mỹ, giống như Maslow, nhấn mạnh tiềm năng tốt đẹp tồn tại trong tất cả mọi người. Rogers đã sử dụng một kỹ thuật gọi là thân chủ trọng tâm để giúp khách hàng của mình giải quyết các vấn đề nan giải dẫn đến việc họ tìm kiếm liệu pháp tâm lý. Không giống như cách tiếp cận phân tâm trong đó nhà trị liệu đóng một vai trò quan trọng trong việc giải thích những gì hành vi có ý thức tiết lộ về tâm trí vô thức, thân chủ trọng tâm bao gồm việc bệnh nhân đóng vai trò chính trong buổi trị liệu. Rogers tin rằng một nhà trị liệu cần thể hiện ba đặc điểm để tối đa hóa hiệu quả của cách tiếp cận cụ thể này: sự quan tâm tích cực vô điều kiện, sự chân thành và sự đồng cảm. Sự quan tâm tích cực vô điều kiện đề cập đến việc nhà trị liệu chấp nhận thân chủ của họ bất kể họ là người như thế nào, bất kể họ có thể nói gì. Với những yếu tố này, Rogers tin rằng mọi người có nhiều khả năng đối phó và giải quyết các vấn đề của chính họ.

Chủ nghĩa nhân văn đã có ảnh hưởng đến tâm lý học nói chung. Cả Maslow và Rogers đều là những cái tên nổi tiếng trong giới sinh viên tâm lý học và ý tưởng của họ đã ảnh hưởng đến nhiều học giả.

public 1970 Đọc thêm

Tâm lý học trở thành khoa học độc lập khi nào
(Neurocognition)

Sự nhấn mạnh của Chủ nghĩa hành vi vào tính khách quan và tập trung vào hành vi bên ngoài đã kéo sự chú ý của các nhà tâm lý học ra khỏi tâm lý trong một thời gian dài. Công việc ban đầu của các nhà tâm lý học nhân văn đã hướng sự chú ý đến con người nói chung, và như một sinh thể có ý thức và tự nhận thức. Đến những năm 1950, các quan điểm và nguyên tắc mới trong ngôn ngữ học, khoa học thần kinh và khoa học máy tính đã xuất hiện, và những lĩnh vực này làm hồi sinh sự quan tâm trong tâm lý như một trọng tâm của nghiên cứu khoa học. Quan điểm cụ thể này đã được gọi là cuộc cách mạng nhận thức. Đến năm 1967, Ulric Neisser xuất bản cuốn sách giáo khoa đầu tiên có tựa đề Tâm lý học nhận thức, đóng vai trò là văn bản cốt lõi trong các khóa học tâm lý học nhận thức.

Mặc dù không ai hoàn toàn là người khởi xướng cuộc cách mạng nhận thức, Noam Chomsky đã rất có ảnh hưởng trong những ngày đầu của phong trào này. Chomsky, một nhà ngôn ngữ học người Mỹ, không hài lòng với ảnh hưởng của chủ nghĩa hành vi đối với tâm lý học. Ông tin rằng tâm lý học tập trung vào hành vi là thiển cận và lĩnh vực này phải kết hợp lại chức năng tâm lý vào mục đích của nó nếu nó mang lại bất kỳ đóng góp có ý nghĩa nào cho việc hiểu hành vi.

Tâm lý học châu Âu chưa bao giờ thực sự bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa hành vi như tâm lý học người Mỹ; và do đó, cuộc cách mạng nhận thức đã giúp thiết lập lại các đường dây liên lạc giữa các nhà tâm lý học châu Âu và các đối tác Mỹ của họ. Hơn nữa, các nhà tâm lý học bắt đầu hợp tác với các nhà khoa học trong các lĩnh vực khác, như nhân chủng học, ngôn ngữ học, khoa học máy tính và khoa học thần kinh, trong số những lĩnh vực khác. Cách tiếp cận liên ngành này thường được gọi là khoa học nhận thức, và ảnh hưởng và sự nổi bật của quan điểm đặc biệt này đã cộng hưởng trong tâm lý học ngày nay.

public 1967 Đọc thêm

Nữ tâm lý gia

Mặc dù hiếm khi được tín nhiệm, phụ nữ đã đóng góp vào tâm lý học kể từ khi bắt đầu như một lĩnh vực nghiên cứu. Năm 1894, Margaret Floy Washburn là người phụ nữ đầu tiên được trao bằng tiến sĩ tâm lý học. Cô đã viết The Animal Mind: A Textbook of Comparative Psychology, và nó là tiêu chuẩn trong lĩnh vực này trong hơn 20 năm. Vào giữa những năm 1890, Mary Whiton Calkins đã hoàn thành tất cả các yêu cầu đối với Tiến sĩ tâm lý học, nhưng Đại học Harvard đã từ chối trao bằng đó cho cô vì cô là phụ nữ. Cô đã được dạy và cố vấn bởi William James, người đã cố gắng và cũng không thuyết phục được Harvard trao bằng tiến sĩ cho cô. Nghiên cứu trí nhớ của cô ấy đã nghiên cứu về tính nguyên sơ và sự gần gũi và cô ấy cũng viết về về tâ m lý bản thân bằng cấu trúc luận lẫn chức năng luận. Một người phụ nữ có ảnh hưởng khác, Mary Cover Jones, đã thực hiện một nghiên cứu mà cô ấy coi là phần tiếp theo của nghiên cứu về Little Albert của John B. Watson. Những người phụ nữ dân tộc thiểu số trong lĩnh vực tâm lý học bao gồm Martha Bernal và Inez Beverly Prosser; nghiên cứu của họ liên quan đến giáo dục. Bernal, người Latina đầu tiên lấy bằng tiến sĩ tâm lý học đã tiến hành phần lớn nghiên cứu của mình với trẻ em Mỹ gốc Mexico. Prosser là phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên được trao bằng Tiến sĩ vào năm 1933 tại Đại học Cincinnati. Như bạn thấy, nhiều phụ nữ đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển ban đầu của tâm lý học như một ngành khoa học. Trong khi phụ nữ từng chiếm thiểu số trong tâm lý học, thì tình hình đã thay đổi đáng kể. Theo một báo cáo năm 2017, phụ nữ chiếm hơn một nửa số thành viên của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, và 75% sinh viên tốt nghiệp ngành tâm lý học là phụ nữ. Dưới đây là danh sách một số nữ tâm lý gia tiêu biểu.

Khi hầu hết mọi người nghe đến cái tên Freud, Sigmund có lẽ là cái tên đầu tiên xuất hiện trong tâm trí. Tuy nhiên, người con gái của nhà phân tâm học này lại là một nhà tâm lý học nổi tiếng và có ảnh hưởng theo đúng nghĩa của bà. Anna Freud không chỉ mở rộng ý tưởng về cha mình mà còn giúp phát triển lĩnh vực trị liệu tâm lý trẻ em và ảnh hưởng đến các nhà tư tưởng khác như Erik Erikson. Trong số nhiều thành tựu của mình là giới thiệu khái niệm về cơ chế phòng vệ và mở rộng mối quan tâm đến lĩnh vực tâm lý trẻ em.

Mary Whiton Calkins học tại Harvard, mặc dù cô ấy chưa bao giờ được chấp thuận nhập học chính thức. Cô đã học với một số nhà tư tưởng lỗi lạc nhất thời bấy giờ, William James và Hugo Munsterberg, và hoàn thành tất cả các yêu cầu để có bằng tiến sĩ. Mặc dù vậy, Harvard đã từ chối cấp bằng cho cô với lý do cô là phụ nữ. Bất chấp điều đó, Calkins đã trở thành nữ chủ tịch đầu tiên của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ. Trong suốt sự nghiệp của mình, bà đã viết hơn một trăm bài báo chuyên nghiệp về các chủ đề tâm lý học, phát triển kỹ thuật kết hợp cặp đôi và nổi tiếng với công việc của bà trong lĩnh vực tâm lý bản thân. Mặc dù Harvard có thể đã từ chối trao cho bà chiếc bằng tiến sĩ hợp pháp, nhưng điều đó không ngăn được Calkins trở thành một nhà tâm lý học có ảnh hưởng.

Mary Ainsworth là một nhà tâm lý học phát triển quan trọng. Công việc của bà đã chứng minh tầm quan trọng của những gắn bó thời thơ ấu lành mạnh và thực nghiệm nổi tiếng mang tên là “Tình huống kỳ lạ". Trong nghiên cứu của mình về sự gắn bó và tương tác giữa mẹ -con. Công trình đột phá của Ainsworth có ảnh hưởng lớn đến sự hiểu biết của chúng ta về phong cách gắn bó và cách những phong cách này đóng góp vào hành vi sau này trong cuộc sống.

Leta Stetter Hollingworth là nhà tiên phong đầu tiên của ngành tâm lý học ở Hoa Kỳ. Cô học với Edward Thorndike và tạo dựng được tên tuổi nhờ nghiên cứu về trí thông minh và những đứa trẻ có năng khiếu. Một trong những đóng góp quan trọng khác của bà là nghiên cứu về tâm lý phụ nữ. Quan điểm phổ biến lúc bấy giờ cho rằng phụ nữ đều kém hơn nam giới về mặt trí tuệ và về cơ bản là bán thân bất toại khi hành kinh. Hollingworth thách thức những giả định này, và nghiên cứu của cô đã chứng minh rằng phụ nữ cũng thông minh và có năng lực như nam giới, bất kể đó là thời điểm nào trong tháng. Nhiều thành tích của bà có lẽ còn đáng chú ý hơn khi bà không chỉ gặp phải những trở ngại đáng kể do phân biệt giới tính mà còn qua đời ở tuổi 53. Dù cuộc đời ngắn ngủi nhưng sức ảnh hưởng và những đóng góp của bà trong lĩnh vực tâm lý học vẫn rất ấn tượng .

Karen Horney là một nhà tâm lý học tân Freud có ảnh hưởng, nổi tiếng với tâm lý học nữ giới. Khi Sigmund Freud đề xuất nổi tiếng rằng phụ nữ trải qua "sự ghen tị với dương vật", Horney phản bác rằng đàn ông mắc chứng "ghen tị trong tử cung" và rằng tất cả các hành động của họ là do nhu cầu đền bù quá mức cho thực tế rằng họ không thể sinh con. Việc bà thẳng thắn bác bỏ những ý tưởng của Freud đã giúp thu hút sự chú ý nhiều hơn đến tâm lý của phụ nữ. Lý thuyết về nhu cầu tính thần kinh và niềm tin của bà rằng mọi người có thể đảm nhận vai trò cá nhân đối với sức khỏe tâm thần của chính họ là một trong những đóng góp của bà cho lĩnh vực tâm lý học.

Trị liệu trò chơi là một kỹ thuật thường được sử dụng để giúp trẻ thể hiện cảm xúc và kinh nghiệm của mình một cách tự nhiên và hữu ích. Được sử dụng rộng rãi ngày nay, một nhà phân tâm học tên là Melanie Klein đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kỹ thuật này. Qua quá trình làm việc với trẻ, cô nhận thấy rằng trẻ em thường sử dụng hoạt động vui chơi như một trong những phương tiện giao tiếp chính của chúng. Vì trẻ nhỏ không có khả năng thực hiện một số kỹ thuật Freud thường được sử dụng hơn như liên tưởng tự do, Klein bắt đầu sử dụng trò chơi trị liệu như một cách để điều tra những cảm giác, lo âu và trải nghiệm vô thức của trẻ. Công việc của Klein đã dẫn đến một sự bất đồng lớn với Anna Freud, người tin rằng trẻ nhỏ không thể phân tích tâm lý được. Klein gợi ý rằng việc phân tích hành động của một đứa trẻ trong khi chơi cho phép nhà trị liệu khám phá những lo lắng khác nhau tác động như thế nào đến sự phát triển của cái tôi và siêu tôi. Ngày nay, phân tâm học Kleinian được coi là một trong những trường phái tư tưởng lớn trong lĩnh vực phân tâm học.

Nếu bạn đã đọc về Mamie Phipps Clark trong sách giáo khoa của mình, tên của cô ấy có thể chỉ được nhắc đến một cách lướt qua. Điều này thật đáng tiếc vì Clark đã có nhiều đóng góp quan trọng trong lĩnh vực tâm lý học, bao gồm việc phát triển Bài kiểm tra búp bê Clark, nghiên cứu của cô về chủng tộc và vai trò của cô trong vụ án nổi tiếng năm 1954 Brown vs. Board of Education. Clark trở thành người phụ nữ da đen đầu tiên nhận được bằng của Đại học Columbia. Bất chấp định kiến đáng kể dựa trên cả chủng tộc và giới tính của cô ấy, Clark tiếp tục trở thành một nhà tâm lý học có ảnh hưởng. Nghiên cứu của cô về bản sắc chủng tộc và lòng tự trọng giúp mở đường cho các nghiên cứu trong tương lai về quan niệm của bản thân ở các nhóm thiểu số.

Vai trò của Christine Ladd-Franklin với tư cách là một nhà lãnh đạo nữ trong lĩnh vực tâm lý học bắt đầu từ rất sớm, vì cả mẹ và dì của cô đều là những người ủng hộ trung thành cho quyền của phụ nữ. Ảnh hưởng ban đầu này không chỉ giúp cô thành công trong lĩnh vực của mình bất chấp sự phản đối đáng kể, nó còn truyền cảm hứng cho công việc vận động cho quyền của phụ nữ trong học thuật sau này của cô. Ladd-Franklin có nhiều sở thích khác nhau bao gồm tâm lý học, logic, toán học, vật lý và thiên văn học. Cô đã thách thức một trong những nhà tâm lý học nam hàng đầu, Edward Titchener, vì không cho phép phụ nữ vào nhóm của anh ta cho các nhà thực nghiệm, và cô đã phát triển một lý thuyết có ảnh hưởng về thị giác màu sắc. Cô theo học tại John Hopkins và hoàn thành luận án có tựa đề "Đại số logic". Tuy nhiên, trường không cho phép phụ nữ nhận bằng Tiến sĩ tại thời điểm đó. Cô tiếp tục dành thời gian ở Đức để nghiên cứu thị giác màu sắc với Hermann von Helmholtz và Arthur Konig. Cuối cùng cô đã từ chối lý thuyết về thị giác màu của Helmholtz để phát triển lý thuyết của riêng mình. Cuối cùng, vào năm 1926, gần 44 năm sau khi hoàn thành luận án của cô, John Hopkins đã trao cho cô bằng tiến sĩ mà cô đã giành được một cách xứng đáng. Ngày nay, bà được nhớ đến với cả công việc về tâm lý học và tầm ảnh hưởng của bà với tư cách là người phụ nữ tiên phong trong lĩnh vực từng bị đàn ông thống trị.

Margaret Floy Washburn là người phụ nữ đầu tiên được cấp bằng Tiến sĩ trong tâm lý học. Cô đã tiến hành nghiên cứu sau đại học của mình với Edward B. Titchener và là sinh viên tốt nghiệp đầu tiên của ông. Giống như nhiều phụ nữ trong danh sách này, công việc của cô trong lĩnh vực tâm lý học diễn ra trong thời kỳ mà phụ nữ thường bị từ chối các vị trí trong học viện dựa trên giới tính của họ. Mặc dù vậy, cô đã trở thành một nhà nghiên cứu, nhà văn và giảng viên được kính trọng. Mối quan tâm nghiên cứu chính của cô là trong các lĩnh vực nhận thức động vật và các quá trình sinh lý cơ bản. Cô đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý học so sánh và phát triển một lý thuyết vận động về nhận thức cho thấy rằng các chuyển động của cơ thể có ảnh hưởng đến suy nghĩ.

Tên của Eleanor Maccoby có lẽ rất quen thuộc với những ai đã từng nghiên cứu tâm lý học phát triển. Công trình tiên phong của bà trong lĩnh vực tâm lý học về sự khác biệt giới tính đóng một vai trò quan trọng trong hiểu biết hiện tại của chúng ta về những thứ như xã hội hóa, ảnh hưởng sinh học đến sự khác biệt giới tính và vai trò giới tính. Bà là người phụ nữ đầu tiên trở thành chủ nhiệm khoa tâm lý học tại Đại học Stanford và theo như mô tả của bà, bà là người phụ nữ đầu tiên từng giảng bài tại Stanford trong bộ trang phục quần dài. Bà từng giữ chức vụ giáo sư danh dự tại Stanford và nhận được nhiều giải thưởng cho công trình đột phá của mình. Giải thưởng Sách Maccoby được đặt tên để vinh danh bà.