ADB: COVID-19 bất định khiến trái phiếu Chính phủ phân hóa Cụ thể, báo cáo thị trường tháng 12 của VBMA thống kê, trong tháng 12, Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã tổ chức 21 đợt đấu thầu trái phiếu Chính phủ (TPCP) với tổng giá trị gọi thầu (GTGT) đạt 38.750 tỷ đồng, tỷ lệ trúng thầu đạt 78%. Trong đó, 2 kỳ hạn có khối lượng gọi thầu cao nhất là kỳ hạn 15 năm và kỳ hạn 20 năm (lần lượt là 15.500 và 7.750 tỷ đồng), tỷ lệ trúng thầu lần lượt đạt 84,3% (kỳ hạn 15 năm) và 74,3% (kỳ hạn 20 năm). Trái phiếu kỳ hạn 5 năm và 7 năm không được gọi thầu thành công trong tháng trước. Lãi suất trúng thầu trung bình trong tháng ở hầu hết các kỳ hạn đều giảm so với tháng trước trừ kỳ hạn 20 năm. Trong tháng 12, KBNN đã điều chỉnh kế hoạch phát hành TPCP trong Q4/2021 xuống 86.000 tỷ đồng từ mức 135.000 tỷ đồng trước đó, bao gồm các kỳ hạn 5 năm (1.500 tỷ đồng), 7 năm (500 tỷ đồng), 10 năm (28.000 tỷ đồng), 15 năm (3.000 tỷ đồng), 20 năm (14.000 tỷ đồng) và 30 năm (11.000 tỷ đồng). Tính đến hết tháng 12, KBNN đã phát hành tổng cộng 80.499 tỷ đồng TPCP trong quý, tương ứng 94% kế hoạch quý 4. VBMA cũng thống kê, tính từ đầu năm đến hết tháng 12/2021, kết quả phát hành TPCP đạt 318.213 tỷ đồng, tương đương 98% kế hoạch cả năm sau điều chỉnh. Trong tháng 1/2022, sẽ có khoảng 7.734 tỷ đồng trái phiếu đến hạn, khoảng 15% giá trị trái phiếu sẽ đáo hạn cả năm. Cũng trên thị trường sơ cấp, trong tháng 12, Ngân hàng Phát Triển Việt Nam thực hiện 9 đợt đấu thầu trái phiếu Chính phủ bảo lãnh (TPCPBL), tổng giá trị gọi thầu là 11.000 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ trúng thầu đạt 77,3%. Trong tháng 12, Ngân hàng Phát Triển Việt Nam đã tiến hành gọi thầu 11.000 tỷ đồng TPCPBL qua 9 phiên đấu thầu, tỷ lệ đặt thầu/gọi thầu đạt 144,1%. Trong đó, khối lượng trúng thầu đạt 8.500 tỷ đồng (tương đương tỷ lệ trúng thầu 77,3%) ở 3 kỳ hạn 5 năm (1.000 tỷ đồng), 7 năm (700 tỷ đồng) và 10 năm (6.800 tỷ đồng). Tỷ lệ trúng thầu kỳ hạn 5 năm là 50%, 7 năm là 35% và 10 năm 97%. Lãi suất trúng thầu ở 3 kỳ hạn 5 năm, 7 năm và 10 năm lần lượt là 1,12%, 1,5% và 2,39%, cao hơn 28 điểm, 40 điểm và 31 điểm so với LSTT TPCP cùng kỳ hạn. VBMA cho biết tính từ đầu năm đến nay, tổng khối lượng TPCPBL đã phát hành đạt 21.524 tỷ đồng, trong đó có 11.024 tỷ đồng trái phiếu phát hành bởi Ngân hàng Chính sách xã hội (hoàn thành 100% kế hoạch phát hành theo QĐ số 945/QĐ-TTg ngày 15/06/2021 của Thủ tướng Chính phủ) và 10.500 tỷ đồng trái phiếu phát hành bởi Ngân hàng Phát triển Việt Nam (đạt 61% khối lượng phát hành tối đa của năm theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 10/08/2021 của Thủ tướng Chính phủ). Theo báo cáo của Bộ Tài chính, năm 2021, thị trường trái phiếu năm 2021 tiếp tục tăng trưởng tốt, đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho Chính phủ để đầu tư phát triển và các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, kinh doanh. Theo đó, đối với thị trường trái phiếu chính phủ, trong năm 2021, Bộ Tài chính tiếp tục thực hiện đúng Nghị quyết số 128/2020/QH14 của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước năm 2021 để huy động vốn cho NSNN. Theo đó, khối lượng huy động TPCP trên thị trường trong năm 2021 là 318.213 tỷ đồng. Kỳ hạn phát hành bình quân đạt 13,92 năm (giảm 0,02 năm so với cuối năm 2020), lãi suất phát hành bình quân đạt 2,30% (giảm 0,56% so với cuối năm 2020). Đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tính đến hết năm 2021, dư nợ thị trường TPDN riêng lẻ đạt khoảng 16% GDP năm 2021. Đối với trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trong năm 2021, Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành được 11.024 tỷ đồng TPCPBL, kỳ hạn phát hành bình quân đạt 11,64 năm, lãi suất phát hành bình quân đạt 2,5%. Ngân hàng Phát triển Việt Nam phát hành được 10.500 tỷ đồng TPCPBL, kỳ hạn phát hành bình quân đạt 8,94 năm, lãi suất phát hành bình quân đạt 2,09%. Bộ Tài chính cũng cho biết, trong năm 2021, chính quyền các địa phương chưa phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc, Bộ Tài chính đã chủ động điều hành việc phát hành trái phiếu Chính phủ để vừa sử dụng có hiệu quả ngân quỹ nhà nước, vừa đảm bảo nguồn thanh toán, chi trả kịp thời các khoản nợ gốc đến hạn và góp phần định hướng sự phát triển của thị trường, cơ cấu lại nợ công trong năm qua. Bên cạnh đó, tiếp tục trao đổi thông tin về kế hoạch, thời điểm, kỳ hạn và lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ để tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa công tác phát hành trái phiếu Chính phủ với việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Năm 2022, Bộ tiếp tục đặt mục tiêu đảm bảo thị trường TPCP giao dịch an toàn, hiệu quả như những năm qua, đồng thời cải tiến các công cụ để huy động vốn của ngân sách nhà nước cũng như giao dịch của các thành viên được thuận lợi và hiệu quả nhất.
Đánh giá của bạn:
THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP QUÝ 4/2021Thị trường sơ cấp: chậm lại trong thời điểm cuối năm Tổng giá trị TPDN phát hành trong Q4/21 đạt mức 189.652 tỷ đồng, giảm nhẹ 7,6% sv quý trước, tỷ lệ phát hành thành công đạt 105,1%. Trong đó, tỷ lệ trái phiếu phát hành riêng lẻ và công chúng lần lượt là 91,2% và 8,8%. Trong quý 4, có 122 doanh nghiệp (DN) phát hành tổng cộng 172.898 tỷ đồng trái phiếu riêng lẻ, giảm 14,2% sv quý trước. Các DN có giá trị phát hành (GTPH) trái phiếu riêng lẻ lớn nhất trong quý đều thuộc nhóm Ngân hàng như: Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (12.000 tỷ đồng), Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (10.220 tỷ đồng) và Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh vượng (9.970 tỷ đồng). Trong Q4/21, 8,8% giá trị TPDN được phát hành ra công chúng (tăng 340,9% sv quý trước); 3 DN có giá trị phát hành lớn nhất gồm Ngân hàng Công thương Việt Nam (6.513 tỷ đồng), CTCP Vinhomes (4.370 tỷ đồng), Ngân hàng Trong quý 4, Tài chính – Ngân hàng là nhóm ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất với 47,7% tổng giá trị phát hành trái phiếu riêng lẻ trong quý, tương đương 82.418 tỷ đồng (tăng 5,4% sv quý trước). Ngoài 3 Ngân hàng có giá trị phát hành lớn nhất kể trên, các tổ chức tài chính khác có giá trị phát hành lớn nhất bao gồm: CTCP Tập đoàn Đầu tư IPA (2.000 tỷ đồng), Công ty Tài chính TNHH MB Shinsei (1.450 tỷ đồng), CTCP Chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội (510 tỷ đồng),… Lãi suất TPDN các ngân hàng vẫn ở mức thấp, dao động trong khoảng 2,4% – 8,2%/năm. Trong khi đó, lãi suất của các Tổ chức tài chính cao hơn, dao động trong khoảng từ 4% – 12%/năm. Bất động sản là ngành chiếm tỷ trọng lớn thứ hai với 31,2% tổng giá trị phát hành trái phiếu riêng lẻ, tương đương 53.991 tỷ đồng (giảm 38,0% sv quý trước). Các doanh nghiệp BĐS phát hành giá trị lớn nhất bao gồm: CTCP Thái Sơn – Long An (4.600 tỷ đồng), CTCP Osaka Garden (4.300 tỷ đồng), CTCP Đầu tư Sun Valley (3.560 tỷ đồng)… Lãi suất TPDN bất động sản ở mức khá cao so với lãi suất tiền gửi, phổ biến trong khoảng 8,7% – 12,5%/năm. Nhóm Tập đoàn đa ngành chiếm 2,9% tổng giá trị phát hành trái phiếu riêng lẻ trong quý 4, tương đương 5.080 tỷ đồng (tăng 11,2% sv quý trước). Hai tập đoàn đa ngành có giá trị phát hành lớn nhất bao gồm: CTCP SOVICO (4.000 tỷ đồng) và CTCP Đầu tư Xây dựng Hạ tầng và Giao thông (360 tỷ đồng). Các ngành khác chiếm 18,2% tổng giá trị phát hành trái phiếu riêng lẻ trong quý, tương đương 31.409 tỷ đồng (giảm 0,7% sv quý trước). Đáng chú ý có: CTCP Masan Meatlife phát hành 7.284 tỷ đồng với lãi suất 2,0%/năm và Công ty Sản xuất và Kinh Doanh Vinfast phát hành 5.000 tỷ đồng với lãi suất 9,0%. Nhìn chung TPDN tiếp tục ghi nhận đà tăng mạnh mẽ trong năm 2021 Thị trường TPDN thứ cấp Tổng giá trị giao dịch TPDN trong quý 4 đạt mức 11.041,4 tỷ đồng, giảm 26,5% sv quý trước. Giá trị giao dịch bình quân phiên đạt 167,3 tỷ đồng/phiên, giảm 28,7% sv quý trước. Giá trị giao dịch bình quân trong năm 2021 là 195,4 tỷ đồng/tháng. Tính tới nay, có 20 trái phiếu được niêm yết trên HSX với tổng giá trị niêm yết là 16.850 tỷ đồng, trong đó 11.500 tỷ đồng (68% giá trị niêm yết) thuộc về CTCP Tập đoàn Masan. THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ QUÝ 4/2021Thị trường sơ cấp: tỉ lệ trúng thầu giảm so với quý 3 Tỷ lệ trúng thầu trong quý 4 giảm, đạt 72,2% (giảm 5,6 điểm % so với quý 3) với tổng giá trị phát hành thành công trong quý đạt 90.999 tỷ đồng. Trong quý 4, Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã gọi thầu thành công 920 tỷ đồng TPCP ở kỳ hạn 5 năm, 250 tỷ đồng ở kỳ hạn 7 năm, 27.872 tỷ đồng ở kỳ hạn 10 năm, 27.179 tỷ đồng ở kỳ hạn 15 năm, 13.380 tỷ đồng ở kỳ hạn 20 năm và 10.898 tỷ đồng ở kỳ hạn 30 năm. Lãi suất trúng thầu sv quý 2 tăng nhẹ ở kỳ hạn 10 và 15 năm, giảm ở kỳ hạn 5, 7, 20 và 30 năm. Trong quý 4, Ngân hàng Phát Triển Việt Nam (NHPTVN) đã gọi thầu thành công 10.500 tỷ đồng bao gồm 1.500 và 1.200 tỷ đồng ở kì hạn 5, 7 năm và 7.800 tỷ đồng ở kì hạn 10 năm trong khi không ghi nhận đợt phát hành thành công nào trong quý 3. Trong năm 2021, thị trường sơ cấp đã huy động được 317.963 tỷ đồng TPCP từ KBNN. Tổng giá trị phát hành trong quý 4 đã hoàn thành 92.88% kế hoạch đấu thầu quý và giá trị phát hành trong năm 2021 hoàn thành 99.4% kế hoạch cả năm của KBNN. Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ phát hành thành công TPCP trong năm 2021 tiệm cận với kế hoạch điều chỉnh của KBNN. Thị trường thứ cấp: khối ngoại bán ròng trong Q4/21, tuy nhiên vẫn mua ròng 11.590 tỷ đồng trong cả năm 2021 Tổng giá trị giao dịch trên thị trường thứ cấp quý 4 đạt 767.496 tỷ đồng, tương ứng giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên 11.629 tỷ đồng, tăng 19,5% sv quý trước đó. Giao dịch outright chiếm tỷ lệ 64,2% trong tổng giá trị giao dịch, còn lại 35,8% là giao dịch repo. Các nhà đầu tư nước ngoài bán ròng với giá trị 471,2 tỷ đồng trong Q4/21, đưa tổng giá trị mua ròng cả năm về mức 11.590 tỷ đồng. Lợi suất trái phiếu tăng 11 điểm cơ bản ở kỳ hạn 1 năm, giảm từ 1,2 đến 12,7 điểm cơ bản ở các kỳ hạn từ 2 năm trở lên. Xem chi tiết tại đây |