Thời trần nước ta có tên gọi là gì

Đại Việt sử ký toàn thư viết: Năm Thiên Thành thứ 7 (1034), đời Lý Thái Tông, nhà vua xuống chiếu cho các quan khi có việc ở trước mặt vua thì gọi vua là "triều đình".

Sử thần Lê Văn Hưu bình luận rằng: “Thiên tử tự xưng là ‘trẫm’, là ‘dư nhất nhân’. Bề tôi gọi vua là ‘bệ hạ’, chỉ chỗ thiên tử ở là triều đình, chỉ chỗ chính lệnh ban ra là triều sảnh, từ xưa không thay đổi xưng hô. Nay Lý Thái Tông lại bảo các quan gọi mình là ‘triều đình’, sau Lý Thánh Tông lại tự xưng là ‘vạn thặng’, Lý Cao Tông bảo mọi người gọi mình là Phật, đều không theo phép ở đâu, mà là thích khoe khoang”.

Lấy tư tưởng Nho giáo, Lê Văn Hưu cho rằng: "Khổng Tử nói: ‘Danh bất chính thì ngôn không thuận’ là thế”.

Sang đến thời Trần, đời vua đầu tiên là Trần Thái Tông, sau khi vua lên ngôi tới 25 năm, đến năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 18 (1250), Đại Việt sử ký toàn thư viết rằng: "Nhà vua xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là quốc gia".

Vua Trần Thái Tông yêu cầu gọi vua là "Quốc gia".

Ta không rõ cách gọi vua là Quốc gia duy trì trong bao lâu, chỉ biết rằng đến năm 1258, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Hoảng (tức Trần Thánh Tông) để lên làm Thái thượng hoàng. Từ đó về sau, thì sử đều viết bề tôi gọi hai vua Trần là Thượng hoàng và Quan gia.

Việc gọi vua bằng Quan gia lần đâu xuất hiện trong Đại việt sử ký toàn thư ở đoạn chép về việc khi có sứ phương Bắc đến mà Tư đồ Trần Quang Khải đang theo vua Thánh Tông đi đánh giặc, Thượng hoàng Trần Thái Tông mới gọi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đến, muốn trao cho ông chức Tư đồ để tiếp sứ Bắc.

Hưng Đạo vương trả lời: "Dự tiếp sứ giả, thần không dám chối. Còn như thăng chức Tư đồ, thần không dám vâng mệnh, vì Quan gia đi đánh giặc phương xa, Quang Khải đi theo hộ giá mà bệ hạ tự làm việc phong chức, e lòng người trên dưới sợ có chỗ không yên và cũng không vừa ý Quan gia và Quang Khải. Đợi xa giá trở về, việc phong chức cũng chưa muộn”.

Như vậy, khi xưng hô với Thượng hoàng, Hưng Đạo vương vẫn gọi Thượng hoàng là Bệ hạ.

Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm Bảo Phù thứ 5 (1277), vua Trần Thánh Tông đã hỏi Uy Văn vương Trần Toại về nghĩa của từ “Quan gia”. Uy Văn vương đáp rằng: “Thời ngũ đế coi thiên hạ là của chung, thời tam vương coi thiên hạ là nhà chung. Cho nên gọi là Quan gia”. Vua Trần Thánh Tông khen ngợi Uy Văn vương là có kiến thức rộng.

Trước khi cướp ngôi của nhà Trần, khi cháu ngoại của mình vẫn đang làm vua (Trần Thiếu Đế), Hồ Quý Ly đã tự xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng, khi làm công văn thì đề là Phụng Nhiếp chính Quốc Tổ Chương Hoàng, dù vẫn chỉ tự xưng là "dư" mà chưa dám xưng là "trẫm".

Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, năm 1425, sau khi từ Nghệ An vào lấy được Tân Bình và Thuận Hóa, các tướng suy tôn Bình Định Vương Lê Lợi là "Đại thiên hành hóa". Từ đó, các mệnh lệnh, dụ văn, phần nhiều lấy bốn chữ ấy để xưng.

Khi cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi vua nhưng chưa xưng danh hiệu Hoàng đế, chỉ xưng là Thuận Thiên Thừa Vận Duệ Văn Anh Vũ Đại vương, hiệu là Lam Sơn Động chủ. Sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ xưng với quần thần là “trẫm”, quần thần gọi vua là “bệ hạ”.

Vua Lê Thái Tổ phong cho con trai trưởng là Lê Tư Tề làm Quốc vương, hoàng tử Lê Nguyên Long (vua Lê Thái Tông sau này) làm Hoàng thái tử. Lê Thái Tổ ban lệnh chỉ quy định, nếu ai có việc đến Quốc vương và Hoàng thái tử thì dùng chữ "khải", chứ không được dùng chữ "tấu" và xưng là "Quốc vương điện hạ", "Thái tử điện hạ". Nếu Quốc vương có tuyên cáo hiệu lệnh gì thì dùng chữ "Quốc vương chỉ huy", không được dùng chữ "sắc". Tuy nhiên sau đó Tư Tề bị phế, từ đó về sau nhà Lê không còn vị thân vương nào được phong tước Quốc vương nữa.

Thời Lê trung hưng, quyền hành trong nước vào cả trong tay các chúa Trịnh. Các chúa Trịnh đều được vua Lê phong tước vương. Các quan, nhân dân gọi các chúa Trịnh là “điện hạ”, khi có việc trình lên chúa thì gọi là "khải" chứ không dùng chữ "tâu".

Trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, ở đàng trong, vị chúa Nguyễn thứ 8 là Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát năm 1744 đã lên ngôi vương ở Phú Xuân và thực hiện một loạt thay đổi để nâng cao vị thế của mình, như đổi phủ là điện, đổi chữ "thân" làm chữ "tấu", gọi chính dinh là đô thành, lập lục bộ. Với các thuộc quốc (Chiêm Thành, Chân Lạp) thì Vũ vương xưng là Thiên vương, nhưng văn thư vẫn dùng niên hiệu của vua Lê.

Lê Tiên Long (Theo Zing)

Trần Thái Tông - Trần Cảnh

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Trần

Trần Thái Tông (1225 - 1258)

Sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần - 1218, con thứ của ông Trần Thừa và bà họ Lê. Tổ tiên Nhà Trần là Trần Kính vốn gốc ở Đông Triều (Quảng Ninh) chuyên nghề đánh cá, đến ở hương Tức Mạc, phủ Thiên Trường (nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định), sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý.

Trần Lý sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ là cháu họ, được Trần Lý nuôi nấng từ nhỏ coi như con. Trần Thừa sinh ra Trần Liễu và Trần Cảnh là con trai, sau có mối tình với cô thôn nữ ở thôn Bà Liệt tên là Tần, sinh ra Trần Bá Liệt. Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện Tiền chỉ huy sứ, ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu - 1225, Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.

Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu - 1225, Trần Cảnh chính thức lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung, phong Lý Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh Hoàng hậu, phong Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sự.

Xem thêm: Trần Thái Tông - Trần Cảnh

Trần Thánh Tông - Trần Hoảng

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Trần

Trần Thánh Tông (1258 - 1278)

Là con trưởng dòng đích của Thái Tông, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng Thái hậu Lý Thị, sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý - 1240. Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1258 lên ngôi hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Long năm thứ 1.

Thánh Tông là một vị vua nhân từ độ lượng, hết lòng chăm lo việc nước. Về đối nội, nhà vua khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang điền trang thái ấp bằng cách chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc, giúp họ an cư lạc nghiệp. Nhà vua khuyến khích việc học hành bằng cách mở các khoa thi để lựa chọn người tài mà trọng dụng, thời Trần đã xuất hiện "Lưỡng quốc Trạng nguyên" Mạc Đĩnh Chi, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết bộ quốc sử đầu tiên của nước ta là "Đại Việt sử ký".

Xem thêm: Trần Thánh Tông - Trần Hoảng

Trần Nhân Tông - Trần Khâm

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Trần

Trần Nhân Tông (1279-1293)

Con trưởng Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu, sinh ngày 11 tháng 11 Mậu Ngọ - 1258, ngày mồng 1 tháng Giêng năm Kỷ Mão - 1279 lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Bảo.

Vua Trần Nhân Tông là một vị vua nhân từ, hoà nhã, cố kết lòng dân, quyết đoán, hết lòng vì dân vì nước trong thời gian 14 năm ở ngôi khi đất nước Đại Việt ta trải qua hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.

Xem thêm: Trần Nhân Tông - Trần Khâm

Trần Anh Tông - Trần Thuyên

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Trần

Trần Anh Tông (1293 - 1314)

Tên huý là Thuyên, con trưởng của Trần Nhân Tông và mẹ là Khâm Từ Bảo Khánh hoàng thái hậu, có hai em là Huệ Võ Vương Quốc Chuẩn và em gái là Huyền Trân công chúa.

Trần Anh Tông khéo biết kế thừa sự nghiệp của tổ tiên, cho nên thời cuộc đi đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là một vua tốt của triều Trần.

Xem thêm: Trần Anh Tông - Trần Thuyên

Trần Minh Tông - Trần Mạnh

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Trần

Trần Minh Tông (1314 - 1329) 

Tên huý là Mạnh, con thứ tư của Trần Anh Tông. Mẹ là Chiêu Hiền hoàng thái hậu Trần Thị, con gái của Bảo Nghĩa đại vương Trần Bình Trọng, sinh năm Canh Tý - 1300.

Trần Minh Tông có lòng nhân hậu, biết tôn trọng nhân tài nên có nhiều hiền thần dưới trướng như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, nhưng đã quá tin bọn nịnh thần giết oan chú ruột, đồng thời là bố vợ là Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn, một lỗi lầm lớn của Trần Minh Tông.

Xem thêm: Trần Minh Tông - Trần Mạnh

Đáp án và giải thích chính xác câu hỏi trắc nghiệm: “Bộ luật thời Trần có tên gọi là gì?”cùng với kiến thức lý thuyết liên quan là tài liệu hữu ích môn Lịch sử 7 do Top lời giảibiên soạn dành cho các bạn học sinh và thầy cô giáo tham khảo.

Trắc nghiệm: Bộ luật thời Trần có tên gọi là gì?

A. Hình thư

B. Hình luật

C. Luật Hồng Đức

D. Hoàng Việt luật lệ

Trả lời:

Đáp án đúng:B. Hình luật

Bộ luật thời Trần có tên gọi là Hình luật

Giải thích: Năm 1341, vua Trần Dụ Tông sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu biên soạn và ban hành bộ Hình luật. Bộ luật này cũng giống như bộ luật thời Lý nhưng được bổ sung thêm.

Kiến thức tham khảo về thời nhà Trần

1. Khái quát về nhà Trần

- Nhà Trần 175 năm (1225 - 1400), quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Thăng Long

- Nhà Trầnlàtriều đạiquân chủ chuyên chế tronglịch sử Việt Nam, bắt đầu khiTrần Cảnhlên ngôi vào năm1225, sau khi đượcLý Chiêu Hoàngtruyền ngôi.Trong giai đoạn nắm giữ quyền lực, nhà Trần vẫn đóng đô ởThăng Long- kinh đô triều cũ, tiếp tục mở rộng và phát triển sự hưng thịnh có từ đờinhà Lý.

- Dưới triều Trần, lực lượngquân độiđặc biệt được chú trọng phát triển đủ sức đánh dẹp các cuộc nội loạn và đương đầu với quân đội các nước xung quanh. Chính sách chia thực ấp cho các thân tộc trong họ, mỗi thế lực trong dòng tộc đều có quân đội tinh nhuệ là nền tản lớn khiến quân đội nhà Trần tiêu diệt được cuộc xâm phạm của quân độiNhà Nguyên,Đế quốc Mông Cổqua 3 lần vào năm1258,1285và1287. Thời gian này xuất hiện một danh tướng kiệt xuất là Hưng Đạo đại vươngTrần Quốc Tuấn; người có vai trò quan trọng trong chiến thắng vào năm1285và1287.

2. Nhà Trần thay ngôi nhà Lý

- Vốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống làm ăn ở những vùng cửa sông ven biển, đến đời Trần Lý (ông nội của vuaTrần Thái Tông) đã trở thành một cự tộc có thế lực vùng Hải Ấp.

- Năm1209, khi trong triều có biến loạn, vuaLý Cao Tôngphải chạy lênQuy Hóa, Thái tửLý Sảm(sau là vua Lý Huệ Tông) chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý giúp đỡ. Hoàng tử Sảm đã kết duyên cùngTrần Thị Dung- con gái của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn, diệt trừQuách Bốc, đưa vua Lý trở lại kinh đô. Cậu ruột Trần Thị Dung làTô Trung Từđược làmĐiện tiền chỉ huy sứ. Trung Từ lại đang tâm muốn nắm quyền riêng, lạnh nhạt với người đứng đầu chỉ huy họ Trần lúc bấy giờ làTrần Tự Khánh.

- Năm1211, Thái tử Lý Sảm lên ngôi, sử gọi làLý Huệ Tông. Huệ Tông là người yếu đuối, lại bịĐàm thái hậu(譚太后) điều khiển chính sự, nên mọi việc đều phó thác choĐàm Dĩ Mông(譚以蒙), người chức cao, quyền lớn nhưngkhông có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát.

- Lợi dụng tình hình đó,Đoàn Thượng(段尚) làm phản, tụ tập bè đảng ởHồng Châuthả sức cướp bóc, khiến triều đình không chế ngự nổi. Năm1216, trước tình thế bức bách của Đàm thái hậu, Lý Huệ Tông đã bí mật rời bỏ hoàng cung, cùng với Trần Thị Dung trốn đến nơi đóng quân của Trần Tự Khánh. Từ đó, vua Lý hoàn toàn phụ thuộc vào thế lực anh em họ Trần. Tháng 12 năm Bính Tý 1216, Lý Huệ Tông phongTrần Thị Dunglàm Hoàng hậu,Trần Tự Khánhlàm Thái úy Phụ chính, anh cả của Hoàng hậu làTrần Thừalàm Nội thị Phán thủ.

- Năm1223, Trần Tự Khánh chết, mọi việc đều uỷ quyền choTrần Thủ Độ, em họ củaTrần Thừa(陳承) và Tự Khánh, khi ấy là Chỉ huy sứ, quản lĩnh cấm quân. Vua Lý Huệ Tông phong Trần Thừa làm Phụ quốc Thái úy, khi vào chầu miễn cần xưng tên.

- Là người cơ mưu, quyết đoán, Trần Thủ Độ đã sắp xếp để ép vua Huệ Tông nhường ngôi chocông chúa Chiêu Thánh, rồi cắt tóc đi tu ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Liền sau đó, Trần Thủ Độ lại thu xếp choLý Chiêu Hoànglên 7 tuổi lấy con trai thứ của Trần Thừa làTrần Cảnh(陳煚) lên 8 tuổi. Một năm sau, vào tháng 12 âm lịch năm1225, Trần Thủ Độ ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần bắt đầu nắm quyền cai trị. Khi lên ngôi, Trần Cảnh còn nhỏ, mọi việc triều chính đều trong tay Thái sư Trần Thủ Độ và cha là Thái thượng hoàngTrần Thừa(Trần Thái Tổ).

3. Giáo dục và pháp luật thời Trần

a. Giáo dục

- Đời nhà Trần, văn học rất được mở mang, Nho học cũng phát triển hơn so với thời Lý.

- Ngoài Quốc Tử Giám có tại kinh đô từ đời nhà Lý, nhà Trần cho lập thêm Quốc Học Viện để giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tại các lộ cũng cho mở trường học để dạy cho dân chúng.

- Trước kia dưới triều nhà Lý, có mở những khoa thi tam trường để lấy cử nhân, nhưng các khoa thi chỉ được mở ra khi nào triều đình cần người tài giỏi ra giúp nước chứ chưa có mở định kỳ. Năm 1232, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi thái học sinh để lấy tiến sĩ theo định kỳ cứ 7 năm thì có một kỳ thi. Năm 1247, nhà vua lại cho đặt ra khảo thi tam khôi để lấy trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa. Lê Văn Hưu là người đầu tiên đậu bảng nhãn.

- Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã tổ chức 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy 283 người đỗ. Có 2 khoa thi 1256 và 1266 lấy 2 trạng nguyên là Kinh trạng nguyên và Trại trạng nguyên nên tổng số có 12 người đỗ đầu trong các kỳ thi.

b. Pháp luật

- Nhà nước chú trọng sửa sang luật pháp, ban hànhQuốc triều hình luật.

- Nội dung:

+ Bảo vệ vua, giai cấp thống trị.

+ Xác nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản.

+ Quy định cụ thể việc mua bán ruộng đất.

- Đặt cơ quanThẩm hình việnđể xét xử việc kiện cáo.

- Đặt chuông tại điện Long Trì để dân kêu oan.

=> So với thời Lý, thời Trần đã có những tiến bộ nhất định trong luật pháp và việc quản lí đất nước.

Video liên quan

Chủ đề