Thủ đoạn của Mỹ khi thực hiện học thuyết Monroe về khu vực Mỹ Latinh là gì

Khu vực Mĩ Latinh bao gồm những vùng nào của châu Mĩ?

Tại sao lại gọi là khu vực Mĩ Latinh?

Mĩ đưa ra và thực hiện học thuyết Mơn - rô (1823) nhằm mục đích gì?

Chính sách “Cái gậy lớn” và “Ngoại giao đồng đôla” của Mĩ thực chất là

Giải bài tập 3 trang 30 SGK Lịch sử 11

Đề bài

Chính sách bành trướng của Mĩ đối với khu vực Mĩ Latinh biểu hiện như thế nào?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào sgk Lịch sử 11 trang 30 để suy luận trả lời.

Lời giải chi tiết

Chính sách bành trướng của Mĩ đối với khu vực Mĩ Latinh được biểu hiện:

- Năm 1823, Mĩ đưa ra học thuyết Mơn-rô: “Châu Mĩ của người châu Mĩ”.

- Năm 1889, tổ chức “Liên minh dân tộc các nước cộng hòa châu Mĩ” được thành lập, gọi tắt là Liên Mĩ, dưới sự chỉ huy của chính quyền Oa-sinh-tơn.

- Dùng sức mạnh quân sự để gây chiến tranh với các nước tư bản khác để tranh giành sự ảnh hưởng. Chẳng hạn, năm 1898, Mĩ gây chiến với Tây Ban Nha để sau đó chiếm Phi-lip-pin,  Cu-ba, Pu-éc-tô Ri-cô,…

- Từ đầu thế kỉ XX, Mĩ khống chế nền kinh tế các nước Mĩ Latinh bằng cách áp dụng chính sách “Cái gậy lớn” và “Ngoại giao đồng đôla” để tiến tới khống chế về chính trị, lần lượt xâm chiếm các nước Mĩ Lainh.

- Mĩ từng bước biến khu vực Mĩ Latinh thành “sân sau” của mình.

Loigiaihay.com

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Lịch sử lớp 11 - Xem ngay

Học thuyết Monroe là một chính sách của Hoa Kỳ được trình bày vào ngày 2, tháng 12 năm 1823 bởi tổng thống Mỹ James Monroe trước quốc hội. Theo đó những nỗ lực trong tương lai của các nước Âu châu để lập thuộc địa hay can thiệp vào nội bộ của các nước ở Bắc hay Nam Mỹ sẽ bị xem là những hành động xâm lược, và như vậy đòi hỏi sự can thiệp của nước Hoa kỳ.[1] Học thuyết này cũng chú giải là Hoa kỳ không những sẽ không can thiệp vào những thuộc địa hiện thời của các nước Âu châu mà cũng sẽ không xía vào nội bộ các nước Âu châu. Học thuyết này được đưa ra vào lúc hầu hết các thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha tại châu Mỹ Latin đã giành được độc lập ngoại trừ Cuba và Puerto Rico. Hoa kỳ, với sự đồng ý của Vương quốc Anh, muốn bảo đảm là sẽ không có cường quốc Âu châu nào can thiệp vào các vấn đề Mỹ châu.[2] Dự định và tác động của học thuyết này kéo dài hơn 100 năm với vài sự thay đổi nhỏ. Mục đích nguyên thủy của nó là để cho các quốc gia châu Mỹ Latin mới giành được độc lập không bị can thiệp bởi các nước Âu châu, tránh tình trạng Mỹ châu trở thành chiến trường của các cường quốc Âu châu. 1848 dưới thời tổng thống James K. Polk và 1870 dưới thời tổng thống Ulysses S. Grant học thuyết này mở rộng thêm việc cấm chuyển nhượng thuộc địa cho một cường quốc khác.
Tuy nhiên, mãi cho đến năm 1853 từ "Học thuyết Monroe" mới được ghi vào từ điển Mỹ.[3]

Tổng thống Hoa kỳ James Monroe

Bộ trưởng ngoại giao John Quincy Adams, Tác giả của Học thuyết Monroe

Thời kỳ tổng thống Monroe từ năm 1817 cho tới 1825 là lúc nước Mỹ trong nội bộ đã ổn định và nền kinh tế phát triển mạnh. Chỉ vài năm trước đó khi nước Hoa kỳ thêm được vùng thuộc địa Louisiana của Pháp vào năm (1803) và vùng Florida của Tây Ban Nha năm (1819) lãnh thổ mở rộng hầu như gần gấp đôi, trong trường hợp đầu tiên chính Monroe là người điều đình tại Paris. Về mặt khác chính Hoa Kỳ cũng đã gây chiến với Vương quốc Anh (1812 – 1814), trong đó thủ đô Washington, D. C. bị đốt cháy và dự định chiếm đóng Canada của Hoa Kỳ đã thất bại. Đặc biệt Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ bị áp lực lớn: Các nền quân chủ chuyên chế Âu châu sau những cuộc xáo động trong những thập niên vừa qua (kể từ cách mạng Pháp năm 1789) đã giành lại quyền lực. Với sự khôi phục nền quân chủ Bourbon ở Pháp và những hành động của Liên minh Thần thánh (Holy Alliance: bao gồm Nga, Áo, Phổ) chống lại những tư tưởng và cơ sở Cộng hòa và cấp tiến khiến cho phong trào Cộng hòa trên thế giới bị đẩy lùi trở lại.
Trong khi đó tại Tây Ban Nha, vua Ferdinand VII. vào năm 1820 bị áp lực của phe nổi dậy đã phải tuyên bố một thể chế quân chủ lập hiến theo hiến pháp mà đã có từ năm 1812 (Spanish Constitution of 1812). Tuy nhiên chính thể cộng hòa này chỉ tồn tại một thời gian ngắn. Liên minh Thần thánh lo sợ các cuộc cách mạng tương tự sẽ xảy ra tại nước mình, làm áp lực với chính thể quân chủ Pháp, gởi quân đội sang Tây Ban Nha. Không được sự ủng hộ của toàn dân vì các linh mục Thiên chúa giáo đứng về phía Bảo hoàng, phe Cách mạng mất thành trì cuối cùng ở Cádiz vào năm 1823.
Vương quốc Anh, phản đối sự xâm lăng của Pháp sang Tây Ban Nha, lo sợ sự thành công của Liên minh Thần thánh sẽ đưa đến những phiêu lưu quân sự của họ tại những thuộc địa cũ của Tây Ban Nha tại Nam Mỹ. Mặc dù Anh không chính thức công nhận sự độc lập của các nước Nam Mỹ, họ có những quyền lợi về kinh tế và những quan hệ thương mãi phát đạt, mà sự can thiệp của Tây Ban Nha và Liên minh Thần thánh có thể làm hư hại.
Một tranh chấp thứ hai trên lục địa Âu châu là cuộc cách mạng của Hy lạp chống lại sự cai trị của Đế quốc Ottoman. Sau khi quân đội Thổ từ năm 1821 tới 1822 đã giành lại được phần lớn lãnh thổ, người Hy lạp vào mùa thu 1822 lại thành công trong việc đánh đuổi lính Thổ. Ngay từ năm 1821 họ đã kêu gọi các cường quốc Âu châu và Hoa kỳ chính thức công nhận chính phủ họ. Mặc dù lời kêu gọi không được đáp ứng, cuộc chiến đấu dành độc lập của người Hy Lạp được phe Cộng hòa và Dân chủ ủng hộ. Ngay ở Mỹ, chính phủ cũng bị làm áp lực, phải giúp đỡ chính phủ Hy lạp mới hay tối thiểu phải công nhận họ.
Trong tình trạng đó Vương quốc Anh, qua các cuộc nói chuyện giữa Ngoại trưởng Anh George Canning và đại sứ Mỹ tại London, ông Richard Rush, vào tháng 8 và tháng 9 năm 1823 đề nghị với Hoa kỳ, cùng nhau lập một liên minh công nhận sự độc lập của các nước Nam Mỹ và để đối phó trong trường hợp các cường quốc Âu châu muốn can thiệp vào. Đây là phản ứng của Canning với tin đồn về dự định của các nước Âu châu lập một hội nghị đối phó với các thuộc địa cũ ở Nam Mỹ của Tây Ban Nha và về các tin, theo đó các đoàn tàu Pháp đang chờ đợi, chở quân lính Tây Ban Nha sang chiếm lại các thuộc địa.

Bởi vì Hoa Kỳ thiếu lực lượng quân đội và hải quân đáng gờm vào lúc đó, học thuyết đã bị quốc tế coi thường.[4] Học thuyết này, tuy nhiên, được vương quốc Anh chấp thuận ngầm, và hải quân hoàng gia Anh đã làm cho nó có hiệu lực, như là một phần của Pax Britannica, mà bắt tôn trọng sự trung lập ở biển cả. Học thuyết này đi cùng với sự phát triển của chính sách Anh tự do kinh tế đối ngược với chủ nghĩa trọng thương. Cách mạng kỹ nghệ ở Anh tìm kiếm các nơi để có thể bán được hàng sản xuất, và nếu các quốc gia châu Mỹ Latin mới giành được độc lập lại trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha một lần nữa, các cửa mở cho nước Anh vào các thị trường những nước này sẽ lại bị chính sách chủ nghĩa trọng thương của Tây Ban Nha đóng lại.[5]

  1. ^ United States Department of State, Basic Readings in U.S. Democracy: The Monroe Doctrine (1823)
  2. ^ Herring, George C., From Colony to Superpower: U.S. Foreign Relations Since 1776, (2008) pp. 153-155
  3. ^ "Merriam Webster's Collegiate Dictionary"
  4. ^ New Encyclopedia Britannica. 8 (ấn bản 15). Encyclopedia Britannica. tr. 269. ISBN 1-59339-292-3.
  5. ^ Hobson, Rolf. Imperialism at Sea. 163. Brill Academic Publishers. tr. 63. ISBN 978-0-391-04105-9. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2009.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Học_thuyết_Monroe&oldid=66601411”

Câu hỏi: Nội dung chính của học thuyết Monroe Mỹ đối với Mỹ latinh là gì?

A. “Cái gậy lớn”.

B. “Châu Mĩ của người Mĩ”.

Bạn đang xem: Nội dung chính của học thuyết Monroe Mỹ đối với Mỹ latinh là gì?

C. “Châu Mĩ của người châu Mĩ”.

D. “Người Mĩ thống trị châu Mĩ”.

Trả lời:

Đáp án đúng: C. “Châu Mĩ của người châu Mĩ”.

Hãy cùng THPT Ninh Châu tìm hiểu thêm về Học thuyết Monroe nhé!

          Học thuyết Monroe là tuyên bố của Tổng thống James Monroe , vào tháng 12 năm 1823, rằng Hoa Kỳ sẽ không dung thứ cho một quốc gia châu Âu thuộc địa của một quốc gia độc lập ở Bắc hoặc Nam Mỹ. Hoa Kỳ cảnh báo họ sẽ coi bất kỳ sự can thiệp nào như vậy ở Tây Bán cầu là một hành động thù địch.

          Tuyên bố của Monroe, được thể hiện trong bài phát biểu hàng năm của ông trước Quốc hội (tương đương với Diễn văn Nhà nước Liên minh thế kỷ 19 ), được thúc đẩy bởi lo ngại rằng Tây Ban Nha sẽ cố gắng tiếp quản các thuộc địa cũ của họ ở Nam Mỹ, nơi đã tuyên bố độc lập của họ.

           Trong khi Học thuyết Monroe hướng đến một vấn đề cụ thể và kịp thời, bản chất sâu rộng của nó đảm bảo nó sẽ gây ra những hậu quả lâu dài. Thật vậy, trong suốt nhiều thập kỷ, nó đã từ một tuyên bố tương đối mù mờ trở thành nền tảng trong chính sách đối ngoại của Mỹ.

          Mặc dù tuyên bố sẽ mang tên Tổng thống Monroe, nhưng tác giả của Học thuyết Monroe thực sự là John Quincy Adams , một tổng thống tương lai đang giữ chức ngoại trưởng của Monroe. Và chính Adams đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ để học thuyết được công khai.

          Mặc dù ban đầu bị các cường quốc châu Âu coi thường, nhưng Học thuyết Monroe đã trở thành trụ cột trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ . Năm 1823, Tổng thống Hoa Kỳ James Monroe tuyên bố là người bảo hộ của Hoa Kỳ ở Tây Bán cầu bằng cách cấm các cường quốc châu Âu chiếm đóng thêm các vùng lãnh thổ ở châu Mỹ. Đổi lại, Monroe cam kết không can thiệp vào công việc, xung đột và các doanh nghiệp thuộc địa còn tồn tại của các quốc gia châu Âu. Mặc dù ban đầu là một cách tiếp cận không thuận tiện đối với chính sách đối ngoại, nhưng Học thuyết Monroe — và Hệ quả Roosevelt 1904 , bổ sung cho nó — đã đặt nền móng cho các thực hành theo chủ nghĩa can thiệp và bành trướng của Hoa Kỳ trong những thập kỷ tới.

Chân dung Tổng thống Hoa Kì James Monroe

– Trong Chiến tranh năm 1812 , Hoa Kỳ đã tái khẳng định nền độc lập của mình. Và khi chiến tranh kết thúc, vào năm 1815, chỉ có hai quốc gia độc lập ở Tây Bán cầu, Hoa Kỳ và Haiti, một thuộc địa cũ của Pháp.

– Tình hình đó đã thay đổi đáng kể vào đầu những năm 1820. Các thuộc địa của Tây Ban Nha ở Mỹ Latinh bắt đầu chiến đấu giành độc lập của họ, và đế chế Mỹ của Tây Ban Nha về cơ bản sụp đổ.

– Các nhà lãnh đạo chính trị ở Hoa Kỳ nói chung hoan nghênh nền độc lập của các quốc gia mới ở Nam Mỹ . Nhưng có một sự hoài nghi đáng kể rằng các quốc gia mới sẽ vẫn độc lập và trở thành các nền dân chủ như Hoa Kỳ.

– John Quincy Adams, một nhà ngoại giao có kinh nghiệm và con trai của chủ tịch thứ hai, John Adams , được phục vụ như của Tổng thống Monroe Bộ trưởng Ngoại giao . Và Adams không muốn tham gia quá nhiều vào các quốc gia mới độc lập trong khi ông đang đàm phán Hiệp ước Adams-Onis để giành được Florida từ Tây Ban Nha.

– Một cuộc khủng hoảng phát triển vào năm 1823 khi Pháp xâm lược Tây Ban Nha để ủng hộ Vua Ferdinand VII, người đã bị buộc phải chấp nhận một hiến pháp tự do. Nhiều người tin rằng Pháp cũng đang có ý định hỗ trợ Tây Ban Nha trong việc chiếm lại các thuộc địa của mình ở Nam Mỹ.

– Chính phủ Anh tỏ ra hoảng hốt trước ý tưởng Pháp và Tây Ban Nha hợp lực. Và văn phòng đối ngoại của Anh đã hỏi đại sứ Mỹ rằng chính phủ của ông dự định làm gì để ngăn chặn bất kỳ hành động vượt mặt nào của Pháp và Tây Ban Nha của Mỹ.

         Học thuyết Monroe được soạn thảo vì chính phủ Hoa Kỳ lo ngại rằng các cường quốc châu Âu sẽ xâm phạm phạm vi ảnh hưởng của Hoa Kỳ bằng cách cắt bỏ các lãnh thổ thuộc địa ở châu Mỹ. Chính phủ Hoa Kỳ đặc biệt cảnh giác với Nga, vì mục tiêu mở rộng ảnh hưởng của mình sang Lãnh thổ Oregon, và Tây Ban Nha và Pháp, vì những kế hoạch tiềm năng của họ nhằm tái lập các lãnh thổ Mỹ Latinh gần đây đã giành được độc lập. Mặc dù người Anh thúc giục Mỹ đưa ra tuyên bố chung với họ, nhưng cuối cùng Mỹ đã chọn một tuyên bố đơn phương để tránh mọi cản trở đối với các thiết kế theo chủ nghĩa bành trướng của mình.

– Sau phản ứng ban đầu đối với thông điệp của Monroe gửi đến Quốc hội, Học thuyết Monroe về cơ bản đã bị lãng quên trong một số năm. Không có sự can thiệp nào vào Nam Mỹ của các cường quốc châu Âu từng xảy ra. Và, trên thực tế, mối đe dọa của Hải quân Hoàng gia Anh có lẽ đã làm được nhiều điều để đảm bảo điều đó hơn là tuyên bố về chính sách đối ngoại của Monroe.

– Tuy nhiên, nhiều thập kỷ sau, vào tháng 12 năm 1845, Tổng thống James K. Polk đã khẳng định Học thuyết Monroe trong thông điệp hàng năm của ông trước Quốc hội. Polk gợi lên học thuyết như một thành phần của Định mệnh Tuyên bố và mong muốn của Hoa Kỳ mở rộng từ bờ biển này sang bờ biển khác.

– Vào nửa sau của thế kỷ 19 và sang cả thế kỷ 20, Học thuyết Monroe cũng được các nhà lãnh đạo chính trị Mỹ trích dẫn như một biểu hiện của sự thống trị của Mỹ ở Tây Bán cầu. Chiến lược của John Quincy Adams về việc tạo ra một tuyên bố sẽ gửi một thông điệp đến toàn thế giới đã được chứng minh là có hiệu quả trong nhiều thập kỷ.

Đăng bởi: Đại Học Đông Đô

Chuyên mục: Lớp 11, Lịch Sử 11

Video liên quan

Chủ đề