Trình bày nội dung xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

a) Những nội dung cơ bản của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.Việc xây dựng nền văn hoá XHCN bao gồm những nội dung chính sau:- Một là cần phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới.Theo LêNin “CNXH sinh động , sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”.Quần chúng nhân dân càng được chuẩn bị tốt về tinh thần , trí lực, tư tưởng …càng có ảnh hưởng tích cực đến tiến trình xây dựng CNXH.Do đó, nâng cao trình độ dan trí, hình thành đội ngũ trí thức mới trở thành nội dung cơ bản của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.Trí tuệ khoa học và cách mạng là yếu tố quan trọng đối với công cuộc xây dựng CNXH.Do đó, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn lao động có chất lượng và bồi dưỡng nhân tài, hình thành và phát triển đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa vừa là nhu cầu cấp bách, vừa là nhu cầu lâu dài của sự ngiệp xây dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản.- Hai là, xây dựng con người mới phát triển toàn diện.Con người là sản phẩm của lịch sử, nhưng chính hoạt động của con người đã sáng tạo ra lịch sử.Thực tiễn lịch sử đã cho thấy, trong mọi thời đại sự hình thành và phát triển co người luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội.Mỗi xã hội có những nấc thang phát triển khác nhau của sự tiến bộ đều cần đến những mẫu người nhất định, có năng lực đáp ứng nhu cầu của sự phát triển.Chính vì vậy, mỗi giai cấp cầm quyền của mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau khi đã ý thức được về xã hội mà mình tạo dựng, thì trước tiên giai cấp đó phải quan tâm đến việc xây dựng con người.- Khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền, thì việc xây dựng con người mới đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp xây dựng XHCN trở thành một yêu cầu tất yếu.Do đó xây dựng con người mới phát triển toàn diện của xã hội mới là một trong những nội dung cơ bản của văn hoá vô sản, của nền văn hoá XHCN.- Con người mới XHCN được xây dựng là con người phát triển toàn diện. Đó là người có tinh thần và năng lực lao động thành công CNXH, là con người lao động mới, là con người có tinh thần yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế trong sáng, là con người có lối sống tình nghĩa, có tíh cộng đồng cao.- Ba là xây dựng lối sống mới XHCN :Lối sống là dấu hiệu biểu thị sự khác biệt giữa những cộng đồng người khác nhau, là tổng thể các hình thái hoạt động của con người, phản ánh điều kiện vật chất, tinh thần và xã hội con người , là sản phẩm tất yếu của một hình thái kinh tế xã hội và có tác động đến hình thái kinh tế xã hội đó.Lối sống mới XHCN là một đặc trưng có tính nguyên tắc của XHCN và việc xây dựng lối sống mới tất yểu trở thành một nội dung của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.- Lối sống mới XHCN đựoc xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản của nó.Đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo , nguyên tắc phân phối theo lao động, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, hệ tư tưởng khoa học cách mạng của giai cấp công nhân giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, xoá bỏ tình trạng băt bình đẳng dân tộc, giới tính thể hiện công bằng mở rộng dân chủ.- Bốn là: Xây dựng gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa.Gia đình là một hình thức cộng đồng đặc biệt, ở đó con người chung sống với nhau bởi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.Gia đình là một giá trị văn hoá của xã hội .Văn hoá gia đình luôn gắn bó, tương tác với cộng đồng dân tộc, giai cấp và tầng lớp xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định của mỗi quốc gia dân tộc nhất định.b) Phương thức xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.- Thứ nhất:Giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tởng giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội.- Thứ hai: Không ngừng tăng cường sự lãnh dạo của đảng cộng sản và vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hoá.- Thứ ba: Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp giữa việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hoá nhân loại.

- Thứ tư: Tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và snág tạo văn hoá.

Câu trả lời cho câu hỏi “Trình bày tính tất yếu và những nội dung cơ bản trong xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa?”  gồm hai ý lớn:

1) Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa

a) Xuất phát từ tính triệt để, toàn diện của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải thay đổi phương thức sản xuất tinh thần, làm cho phương thức sản xuất tinh thần phù hợp với phương thức sản xuất mới của xã hội xã hội chủ nghĩa.

b) Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm lý, ý thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức của xã hội cũ lạc hậu. Mặt khác, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa còn là một yêu cầu cần thiết trong việc đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và hưởng thụ văn hoá tinh thần.

c) Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình nâng cao trình độ văn hoá cho quần chúng nhân dân lao động, khắc phục tình trạng thiếu hụt văn hóa. Đây là điều kiện cần thiết để đông đảo nhân dân lao động chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hoá của quần chúng.

d) Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu xuất phát từ yêu cầu khách quan: văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

2) Những nội dung cơ bản của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa

a) Nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới. Đây là điều kiện không thể thiếu để xây dựng nền dân chủ xã hôi chủ nghĩa, để quần chúng có nhận thức đúng và tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước.

b) Xây dựng con người mới phát triển toàn diện. Con người là sản phẩm của lịch sử nhưng đồng thời con người cũng chính là chủ thể quá trình phát triển của lịch sử. Vì vậy, việc đào tạo con người mới với tư cách là chủ thể sáng tạo có ý thức của xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, là một yêu cầu tất yếu.

c) Xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa. Lối sống mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản của nó, đó là: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo; nguyên tắc phân phối theo lao động; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; chủ nghĩa Mác-Lênin giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội v.v

d) Xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa. Gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa được từng bước xây dựng cùng với tiến trình phát triển của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội (gia đình được xem là tế bào của xã hội), có thể nói, thực chất của việc xây dựng gia đình văn hoá là nhằm góp phần xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.

 Khái niệm văn hóa, nền văn hóa và nền văn hóa XHCN

    Khái niệm văn hóa, nền văn hóa

-      Văn hóa là một khái niệm đa nghĩa

Từ xa xưa, hai từ văn hóa đã sớm xuất hiện trong ngôn ngữ loài người, đặc biệt ở những quốc gia được coi là cái nôi của văn minh nhân loại.

+ Ở phương Đông, từ văn hóa xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ Trung Quốc. Ngay từ trước công nguyên, ở đời Tây Hán, trong bài “Chi Vũ” sách Thuyết Uyển, Lưu Hương đã viết “Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn đức rồi sau mới dùng vũ lực”. Phàm khi đã dùng vũ lực thì không khuất phục nổi, dùng văn hóa không thay đổi được thì sau đó sẽ “bị suy kiệt”. Như vậy, văn hóa được dùng để đối lập với vũ lực.

+ Ở phương Tây, trong nền văn minh cổ đại Hy Lạp, từ văn hóa (cultura) có nghĩa là trồng trọt cây cối, sau dần dần biến thành nghĩa gieo trồng trí tuệ (tinh thần) con người.

Có 2 loại trồng trọt: trồng trọt ngoài đồng

                               Trồng trọt tinh thần ( giáo dục bỗi dưỡng con người- trồng người)

             Văn hóa gắn liền với quá trình lao động của con người để tạo ra các sản phẩm vật chất và tinh thần, với quá trình nuôi dưỡng, giáo dục, đào tạo con người.

             Dù phương Đông hay phương Tây, văn hóa đã mang ý nghĩa giáo hóa con người

             + Việt Nam: Hiện nay, khoa học về tiếng Việt cổ chưa cung cấp những tư liệu đầy đủ về tiếng nói của cha ông từ xa xưa, nhưng chúng ta cũng có thể biết rằng cách chúng ta hơn 600 năm, trong bài Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã tuyên bố: “Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Từ “văn hiến” mà Nguyễn Trãi dùng ở đây, về một khía cạnh nào đó, đồng nghĩa với hai từ “văn hóa”

             Từ những phân tích trên có thể nói rằng: tư duy nhân loại đã sớm quan tâm đến hoạt động văn hóa. Sự quan tâm đó ngày càng trở nên sâu sắc.

+ Quan điểm Mácxít:

Để tìm hiểu cội nguồn của văn hoá phải đặt nó trong quá trình hình thành loài người. Toàn bộ ý kiến của Ph.Ăngghen về nguồn gốc loài người được trình bày trong bài Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người, là một phần trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên. Tư tưởng chủ đạo trong suốt bài viết của ông là "lao động đã sáng tạo ra bản thân con người" . Nhưng lao động ở đây không chỉ là lao động chân tay thuần tuý mà chủ yếu là lao động sáng tạo. Ph. Ăngghen so sánh phương thức kiếm sống của loài vượn với lao động của xã hội loài người, "Đàn vượn chỉ biết ăn hết sạch lương thực sẵn có trong khu vực mà điều kiện địa lý hoặc là sự kháng cự của đàn vượn bên cạnh đã hạn định cho chúng" . Nói cách khác, loài vượn không biết tự tạo ra thức ăn cho mình mà chỉ ăn những thứ có sẵn trong tự nhiên. Ph.Ăngghen gọi phương thức kiếm ăn của loài vượn là "kinh tế chiếm đoạt". Ông nhận định "Nhưng tất cả những cái đó vẫn chưa phải là lao động, theo đúng ý nghĩa của nó. Lao động bắt đầu với việc chế tạo ra công cụ" . Như vậy, chính lao động sáng tạo mới là động lực chính tác động vào quá trình chuyển biến từ vượn thành người và đó cũng là cội nguồn của văn hoá, hay có thể nói, lao động sáng tạo là bản chất của văn hóa.  

+ Lao động sáng tạo của con người thể hiện ở cả hai lĩnh vực sản xuất cơ bản của xã hội (sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần). Vì vậy, văn hoá theo nghĩa rộng gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần.

Thông qua quá trình sản xuất vật chất tạo ra văn hóa vật chất

                                Sản xuất tinh thần tạo ra văn hóa tinh thần

-      Qua những phân tích trên,có thể hiểu Văn hóa theo hai nghĩa

             Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình; biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.

+ Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất.

+ Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người.

+ Việc phân loại đó, tùy thuộc vào tiêu chí cơ bản mục đích của việc sáng tạo ra các giá trị văn hóa ấy là nhằm mục đích thỏa mãn loại nhu cầu tiêu dùng nào (vật chất hay tinh thần) của con người. Tuy nhiên, sự phân loại này cũng hoàn toàn có tính chất tương đối. Bởi chính các hoạt động tiêu dùng để thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, tự nó đã mang tính chất tinh thần, tính nhân văn. Trong khi các hoạt động tiêu dùng thỏa mãn các nhu cầu tinh thần cũng được xem xét không tách rời và chịu sự chi phối, tác động của các nhu cầu tiêu dùng có tính vật chất. Với ý nghĩa ấy, chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu văn hóa XHCN chủ yếu với tính cách là các giá trị văn hóa tinh thần.

Theo nghĩa hẹp, văn hóa là sản phẩm tinh thần của con người, văn hóa tinh thần bao gồm các lĩnh vực: văn hóa nghệ thuật, khoa học giáo dục, triết học, đạo đức, quan niệm thẩm mỹ.

Theo UNESCO - Văn hóa là tổng thể các hệ thống giá trị bao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất, tinh thần của xã hội. Văn hóa không thuần túy bó hẹp trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật, mà còn bao hàm cả phương thức sống, những quyền cơ bản của con người, truyền thống, tín ngưỡng

-   Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách sống động mọi mặt của cuộc sống, của mỗi cá nhân và các cộng đồng, đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mính” [Thông tin UNESCO, tháng 8/1998].

Nói tóm lại, nói tới văn hóa là nói tới con người, là nói tới việc phát huy những năng lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người. Do đó, văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người, trên mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn và sinh hoạt tinh thần của xã hội.

Lưu ý: ­

Từ sự phân tích trên, khi tìm hiểu khái niệm văn hoá cần lưu ý a) văn hoá là sáng tạo của con người, thuộc về con người, những gì không do con người làm nên không thuộc về khái niệm văn hoá. Do vậy, văn hoá là đặc trưng căn bản phân biệt con người với động vật, đồng thời cũng là tiêu chí căn bản phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên. b) văn hoá xuất hiện là do sự thích nghi một cách chủ động và có ý thức của con người với tự nhiên, là sự thích nghi có sáng tạo, phù hợp với chân, thiện, mỹ, nên văn hoá cũng là kết quả của sự thích nghi ấy. c) văn hoá bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần, chứ không chỉ riêng có tinh thần mà thôi. d) Với tư cách là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức con người, nên sự phát triển của văn hoá bao giờ cũng chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, chính trị của một xã hội nhất định. Chính vì vậy, văn hoá trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp. 

Hỏi: Phân biệt văn hóa với văn minh?

           Văn minh là nền văn hóa có đặc trưng riêng, tiêu biểu cho một xã hội rộng lớn, một thời đại hay cho cả nhân loại

Ví dụ: văn minh Ai Cập, văn minh nhân loại

-      Văn hóa có các tính chất sau: tính nhân loại, tính giai cấp, tính dân tộc, tính quốc tế

( sinh viên tự nghiên cứu)

-         Khái niệm nền văn hóa

+ Nói đến văn hoá là nói đến khía cạnh ý thức hệ của văn hoá, tính giai cấp của văn hoá và trên cơ sở đó hiểu rõ sự vận động của văn hoá trong xã hội có giai cấp. Với cách tiếp cận như vậy có thể hiểu: Nền văn hoá là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hoá, được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hoá.

Với ý nghĩa này, có thể khẳng định, mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, con người sáng tạo, hưởng thụ các giá trị văn hóa theo các cách thức, phương tiện, nội dung khác nhau. Mọi nền văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có tính giai cấp và gắn với bản chất của giai cấp cầm quyền.

Nếu kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hoá, thì chính trị là yếu tố quy định khuynh hướng phát triển của một nền văn hoá. Nền văn hoá của bất cứ thời kỳ nào của lịch sử cũng đồng thời có sự kế thừa, sử dụng những di sản của quá khứ và sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới trên cơ sở hệ tư tưởng của giai cấp cầm quyền. Vì vậy, bất kỳ nền văn hoá nào trong xã hội có giai cấp cũng đều mang dấu ấn của giai cấp thống trị xã hội đó. 

+ Văn hóa hình thành và phát triển trong những cộng đồng người khác nhau. Khi xã hội hình thành dân tộc thì văn hóa mang tính chất dân tộc đậm nét. Tính dân tộc là một thuộc tính đặc trưng của vă hóa, phản ánh mối quan hệ giữa văn hóa và dân tộc. Thể hiện trong bản sắc độc đáo về ngôn ngữ, phong tục tập quán, phương thức tổ chức đời sống cộng đồng… của dân tộc.

b.     Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Trong các tác phẩm của mình C.Mác và Ph.Ăngghen không dành riêng một tác phẩm để trình bày hệ thống các quan điểm của mình về văn hoá. Nhưng toàn bộ tư tưởng của các ông về vấn đề này được thể hiện rất sâu sắc thông qua hệ thống các quan điểm duy vật biện chứng về con người và xã hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về văn hoá và vai trò của văn hoá trong công cuộc xây dựng xã hội mới, từ thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin đã tiếp tục bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận về xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, hình thành nên hệ thống lý luận về nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. 

Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin, bản chất của văn hoá là sáng tạo, là sự kết tinh năng lực bản chất con người. Văn hoá là phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản chất con người gắn với những hoạt động sống của họ, làm cho con người trở nên tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Những nội dung đó cũng là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Hiểu theo góc độ này thì chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội mang những đặc trưng của văn hoá, C.Mác khái quát mỗi bước con người tiến đến văn hoá là mỗi bước con người tiến đến tự do. Đến V.I.Lênin, tư tưởng đó đã được diễn đạt cụ thể hơn khi ông đưa ra luận điểm về nền văn hoá xã hội chủ nghĩa do nhân dân lao động xây dựng "Văn hoá vô sản = chủ nghĩa cộng sản" . Như vậy, xét trên phương diện chung nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin quan niệm bản chất văn hoá xã hội chủ nghĩa chính là chủ nghĩa cộng sản, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa gắn liền với xây dựng xã hội cộng sản

Còn về phương diện lịch sử, nền văn hoá xã hội chủ nghĩa ra đời là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa đã hình thành. V.I.Lênin viết "Văn hoá vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô sản phát minh ra. Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu" .  

Chế độ mới xã hội chủ nghĩa được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề chính trị (giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã giành được chính quyền) và tiền đề kinh tế (chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu được thiết lập). Từ hai tiền đề chính trị và kinh tế đó, tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hoá tinh thần và nền văn hoá xã hội chủ nghĩa được từng bước xây dựng. Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là kết quả sự phát triển liên tục của các nền văn hoá, nó thể hiện trình độ phát triển cao của loài người

+ Nền văn hóa XHCN là một tập hợp các phương thức, cơ chế, các tổ chức và thiết chế xã hội trong hoạt động sáng tạo, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tinh thần của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn xã hội, trên cơ sở hệ tư tưởng Mác –Lênin, chế độ dân chủ XHCN và nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trên nền văn hóa XHCN nhân dân lao động là chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ mọi giá trị văn hóa.

Theo nghĩa này, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ra đời, tồn tại và phát triển là sự phủ định biện chứng đối với các nền văn hóa đã xuất hiện trong lịch sử, đối với các giá trị văn hóa và nền văn hóa của từng quốc gia dân tộc, mà ở đó diễn ra cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời, phát triển của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, theo đó, còn là sản phẩm của quá trình tiếp biến sáng tạo đối với các giá trị văn hóa chung, phổ biến của nhân loại hướng vào mục đích xây dựng, phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa và của chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung… trong mỗi quốc gia dân tộc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của quốc gia dân tộc đó.

+ Nền văn hóa XHCN có những đặc trưng cơ bản sau đây:

Một là, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quyết định phương hướng phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa Mác Lênin với tư cách là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, giữ vai trò chủ đạo, là nền tảng tư tưởng và quyết định phương hướng phát triển nội dung của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng, ý thức hệ là cốt lõi của mọi nền văn hoá. Do đó, giai cấp công nhân sau khi giành thắng lợi lật đổ sự thống trị của CNTB, thiết lập nhà nước XHCN, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền thì ý thức hệ của nó trở thành nhân tố giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội – đó chính là chủ nghĩa Mác Lênin. Vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác Lênin đối với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là điều kiện quyết định đưa nhân dân lao động thực sự trở thành chủ thể tự giác và hưởng thụ văn hoá của xã hội mới. Đặc trưng này phản ánh bản chất giai cấp công nhân và tính đảng của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa 

Hai là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.

Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản đã "tước đoạt" các giá trị văn hoá của quần chúng lao động, biến những giá trị văn hoá ấy thành tài sản của giai cấp thống trị. Chính điều này đã khiến cho quần chúng tách biệt với văn hoá. Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá không còn là đặc quyền, đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột. Công cuộc cải biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội từng bước tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây dựng nền văn hoá mới và hưởng thụ những giá trị của nền văn hoá đó. Vì vậy, nền văn hoá xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi.

Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa của dân, do dân, vì dân.  Xây dựng nền văn hóa XHCN là một lĩnh vực trong sự nghiệp chung của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Phát triển văn hóa phải gắn liền và phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH, phát triển con người vì lợi ích của nhân dân lao động. Nó phản ánh, bảo vệ và thống nhất biện chứng với nền kinh tế và nền dân chủ XHCN.

Trong CNXH, nhân dân lao động không chỉ là người chủ tập thể của mọi giá trị văn hóa, mà còn là người chủ chân chính sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần, những giá trị đó nhằm mục đích hoàn thiện nhân cách con người, thúc đẩy họ vươn tới chân – thiện – mỹ. Trong XHCN, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Công cuộc cải biến cách mạng toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội tạo tiền đề vật chất, tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây dựng nền văn hóa mới.

Nền văn hóa XHCN còn đảm bảo tính dân tộc sâu sắc; văn hóa XHCN một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho từng dân tộc bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc mình mặt khác cũng tiếp nhận những tinh hoa văn hóa thế giới làm cho nền văn hóa của dân tộc mình trở nên  phong phú, đa dạng hơn. Ngoài ra, các nước có nhiều dân tộc anh em cũng tạo điều kiện để văn hóa riêng của từng dân tộc được bảo tồn, thể hiện tính dân tộc trong nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Ba là, Văn hóa của bất kỳ dân tộc nào cũng phát triển theo quy luật kế thừa. Tính kế thừa là biểu hiện cụ thể của quy luật phủ định của phủ định trong văn hóa. Không kế thừa không có sự phát triển của văn hóa. Văn hóa XHCN mang tính kế thừa, tính kế thừa của mỗi dân tộc bao gồm kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời cũng bao hàm sự kế thừa đối với các giá trị văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới thông qua giao lưu và hội nhập văn hóa. Sự kế thừa và sáng  tạo của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa luôn mang tính giai cấp công nhân với tư tưởng chính trị tiên tiến của thời đại và hướng tới nhân dân, dân tộc.

Bốn là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức Đảng Cộng sản, có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa không hình thành một cách tự phát mà được hình thành một cách tự giác, có sự quản lý của nhà nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân.

Trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa XHCN phải bảo đảm phạm vi hết sức rộng lớn cho sáng tạo cá nhân, cho tư tưởng và sức tưởng tượng, cho hình thức và nội dung phong phú, đa dạng… Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại các quan điểm lạc hậu, phản động phá hoại hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và sự nghiệp xây dựng CNXH.  Cần phải có sự lãnh đạo, định hướng của Đảng trong quá trình xây dựng văn hóa XHCN và đấu tranh chống lại những biểu hiện lạc hậu, lệch lạc trong văn hóa.

Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định trước tiên đối với việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa không hình thành và phát triển một cách tự phát, trái lại, nó phải được hình thành và xây dựng một cách tự giác, có sự quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và vai trò quản lý của Nhà nước đối với đời sống tinh thần của xã hội, đối với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa sẽ dẫn đến làm mất phương hướng chính trị của nền văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội. 

2.     Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa XHCN

-      Thứ nhất, việc xây dựng nền văn hóa XHCN xuất phát từ tính triệt để, toàn diện của cách mạng XHCN.

Cách mạng XHCN không chỉ dừng ở việc làm cách mạng để thay đổi phương thức sản xuất cũ của tư bản chủ nghĩa bằng phương thức sản xuất mới XHCN ra đời mà tính triệt để thể hiện ở cả việc xây dựng nền văn hóa XHCN- thay đổi bản chất của ý thức xã hội, xây dựng ý thức xã hội mới phù hợp với sự thay đổi về chất của tồn tại xã hội (với việc xác lập quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động).

Ngoài ra, cách mạng XHCN còn diễn ra trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội đó là chính trị, kinh tế, tư tưởng – văn hóa.

Cách mạng trên lĩnh vực chính trị biểu hiện với việc thiết lập nhà nước pháp quyền XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN.

Cách mạng trên lĩnh vực kinh tế là tạo ra một phương thức sản xuất mới là sự sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.

Cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa là trực tiếp xây dựng nền văn hóa XHCN – tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc – xây dựng một kiểu nhân cách mới XHCN, tạo ra những khả năng và điều kiện để con người phát triển toàn diện.

-      Thứ hai, xây dựng nền văn hóa XHCN là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm lý, ý thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức của xã hội cũ lạc hậu

Đây là yêu cầu tất yếu của quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Mặt khác, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa còn là mật yêu cầu cần thiết trong việc đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và hưởng thụ vặn hóa tinh thần. Đó là một nhiệm vụ cơ bản, phức tạp, lâu dài của quá trình xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Về thực chất, đây cũng chính là cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực văn hóa, đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng tư sản và hệ tư tưởng vô sản trong quá trình phát triển xã hội.

-  Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình nâng cao trình độ văn hóa cho quần chúng nhân dân lao động, khắc phục tình trạng thiếu hụt văn hóa. Đây là điều kiện cần thiết để đông đảo nhân dân lao động chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hóa của quần chúng.

Xây dựng nền văn hóa XHCN là để phục vụ cho đời sống văn hóa của chính quần chúng nhân dân lao động, vì thế để quần chúng nhân dân có thể hưởng thụ được nền văn hóa đó thì bản thân trình độ văn hóa của nhân dân phải được nâng cao hơn. Trong quá trình chỉ đạo thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga, V. I. Lênin chỉ ra ba kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, đó là bệnh kiêu ngạo cộng sản, nạn mù chữ, nạn hối lộ và đồng thời Người cũng khẳng định rằng: chỉ có làm cho tất cả mọi người đều phải có văn hoá, phải nâng cao trình độ văn hóa của quần chúng nhân dân thì mới có thể chiến thắng được những kẻ thù đó một cách căn bản.

             Ở nước ta hiện nay, khoảng cách trình độ dân trí của nhân dân giữa miền núi và miền xuôi, giữa thành thị và nông thôn còn lớn vì vậy yêu cầu cần phải nâng cao trình độ dân trí của nhân dân ở miền núi, nông thôn, những nơi có điều kiện vật chất còn kém để tạo sự bình đẳng, rút ngắn khoảng cách trình độ dân trí, văn hóa. Giúp nhân dân nâng cao hơn trình độ văn hóa của bản thân, góp phần xây dựng nền văn hóa XHCN.

-      Thứ tư, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu xuất phát từ yêu cầu khách quan: văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển trong  quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa thể hiện trình độ phát triển ngày càng đầy đủ, toàn diện cho con người cả về thể lực, trí lực và nhân cách, hướng tới cái đúng, cái tốt đẹp ngày càng cao hơn, làm cho mỗi cá nhân và cộng đồng ngày một tiến bộ văn minh. Văn hóa nâng cao chất lượng sống của con người, kết hợp hài hòa giữa điều kiện vật chất và điều kiện tinh thần. Là hệ điều tiết của sự phát triển, văn hóa phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, các điều kiện bên trong và bên ngoài. Văn hóa đóng vai trò điều tiết tinh thần cho sự phát triển nền kinh tế. Do đó, nó đảm bảo cho sự phát triển kinh tế được hài hòa, cân đối bền lâu. Văn hóa làm cho nhân dân các dân tộc hiểu biết, gần gữi nhau hơn, góp phần mở rộng giao lưu, hợp tác nhiều mặt trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Văn hóa góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, cổ vũ xây dựng một cuộc sống hài hòa với thiên nhiên.

          Văn hóa là động lực của sự phát triển, văn hóa XHCN là động lực vì nó giải phóng và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người trong mọi lĩnh vực: văn hóa định hướng và làm nền cho sự lựa chọn và xác định đúng mô hình phát triển kinh tế - xã hội, khai thác tài nguyên… Hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực đời sống càng nhiều bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng trở nên hiện thực và bền vững bấy nhiêu.

Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước ”, Đảng ta một lần nữa khẳng định quan điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”.

a) Những nội dung cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Một là, cần phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới.

Quần chúng nhân dân càng được chuẩn bị tốt về tinh thần, trí lực, tư tưởng... càng có ảnh hưởng tích cực đến tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức mới trở thành nội dung cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Tiếp tục nâng cao chất lượng  giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục. Phát huy tư duy khoa học và sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu của học sinh và sinh viên, đề cao năng lực tự học tự hoàn thiện học viến và tay nghề. Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng hình thức chính quy và không chính quy, thực hiện “giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập”.

Chăm lo phát triển giáo dục mầm non. Củng cố thành tựu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đẩy mạnh tiến bộ phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tăng ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Hiện đại hóa một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội. Mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả đào tạo. Từng bước xúc tiến việc nối mạng thông tin quốc tế ở trường học. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập.Tăng ngân sách nhà nước cho việc cử người đi đào tạo ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến.

Song song với nâng cao trình độ dân trí là phải giải quyết dứt điểm các vấn đề bức xúc như cải tiến chế độ thi cử, khắc phục khuynh hướng “thương mại hóa” giáo dục, quản lý chặt chẽ việc cấp văn bằng công nhận học hàm, học vị; chấn chỉnh công tác quản lý hệ thống trường học cả công lập và ngoài công lập.

Công tác nâng cao trình độ dân trí hướng tới xây dựng đội ngũ trí thức cho xã hội mới.

Hai là, xây dựng con người mới phát triển toàn diện.

Nhân tố con người là toàn bộ những yếu tố nói lên khả năng, vai trò tiềm ẩn của con người có thể được huy động, trở thành các hoạt động tích cực, sáng tạo của con người thúc đẩy sự phát triển của đời sống xã hội, đáp ứng các yêu cầu phát triển xã hội.

Con người là sản phẩm của lịch sử, nhưng chính hoạt động của con người đã sáng tạo ra lịch sử. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy trong mọi thời đại, sự hình thành và phát triển con người gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội.

Khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền, thì việc xây dựng con người mới đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành một yêu cầu tất yếu. Do đó, xây dựng con người mới phát triển toàn diện của xã hội mới là một trong những nội dung cơ bản của văn hóa vô sản, của nền văn hoà xã hội chủ nghĩa.

Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 khóa XI, Đảng ta khẳng định mục tiêu hàng đầu của xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa hiện nay là “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện”, trog mục tiêu này, Đảng ta xác định “Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc”.

-          Ba là, Xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa.

Lối sống mới xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng có tính nguyên tắc của xã hội xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng lối sống mới tất yếu trở thành một nội dung của của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Lối sống mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản của nó, đó là: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo; nguyên tắc phân phối theo lao động; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng dân tộc, giới tính, thể hiện công bằng, mở rộng dân chủ...

Đảng ta hiện nay xác định “Xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội

-         Bốn là, xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục… giữa các thành viên.

Nếu như văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình,… thì gia đình không chỉ là một hình thức tổ chức cộng đồng, một thiết chế xã hội mà điều quan trọng gia đình còn là một giá trị văn hóa xã hội.

Gia đình có các chức năng là tái sản xuất con người, duy trì và phát triển giống nòi;  chức năng kinh tế của gia đình; chức năng tổ chức đời sống gia đình; chức năng giáo dục của gia đình; chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm lý, tình cảm tâm lý- sinh lý.

Gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng cùng với tiến trình phát triển của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đó cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa có tác động trực tiếp và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ quyết định nhất đến việc xây dựng gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa.

Thực chất của việc xây dựng gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa là nhằm góp phần xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này xuất phát từ mối quan hệ giữa gia đình và xã hội. Gia đình là "tế bào" của xã hội, mỗi gia đình hòa thuận, hạnh phúc, ổn định sẽ góp phần cho sự phát triển ổn định lành mạnh của xã hội; và ngược lại, xã hội phát triển ổn định, lành mạnh sẽ lại tạo điều kiện cho gia đình ấm no, hạnh phúc. Hơn thế nữa, xét về mối quan hệ lợi ích thì trong chủ nghĩa xã hội, lợi ích của gia đình và lợi ích của xã hội là cơ bản có sự phù hợp.

Gia đình trong XHCN là gia đình một vợ một chồng được xây dựng trên cơ sở quan hệ hôn nhân mới – tự do và tiến bộ. Hôn nhân tự do và tiến bộ dưới CNXH là hôn nhân bình đẳng, tự nguyện xuất phát từ quan điểm tình yêu chân chính giữa hai bên nam nữ; gia đình một vợ một chồng trong XHCN không còn là sản phẩm của sự tính toán và không bị lợi ích gia cấp như gia đình dưới chế độ tư hữu, tạo điều kiện để giải phóng phụ nữ, tạo lập quan hệ bình đẳng trong lĩnh vực hôn nhân.

Gia đình trong XHCN là quan hệ giữa các thành viên trong gia đình là quan hệ bình đẳng. Bình đẳng trong gia đình XHCN là quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ với các con và giữa anh chị em trong một gia đình dù trai hay gái. Bình đẳng giữa các thành iên không đồng nghĩa với việc làm đảo lộn trật tự của các mối quan hệ trong gia đình; trái lại đó là sự thể hiện tinh thần và thái độ của các thành viên muốn được tôn trọng như nhau trong việc giải quyết các vấn đề của cuộc sống gia đình, trong việc thực hiện và bảo vệ các nhu cầu lợi ích của cá nhân và trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa gia đình và xã hội.

b) Phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Để thực hiện được những nội dung chính yếu của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phải thực hiện các phương thức cơ bản sau đây:

Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội.

Quá trình tư tưởng diễn ra không ngừng cùng với quá trình sản xuất vật chất. Trong đời sống văn hóa tinh thần hiện thực, quá trình đó diễn ra với tất tính đa dạng, phức tạp của nó. Chính vì thế, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cầm quyền; phải bằng mọi phương pháp thông qua đội ngũ những nhà tư tưởng và các thiết chế tư tưởng của mình để tác động, chi phối các quan hệ tư tưởng, quá trình tư tưởng nhằm giữ vững, tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng của mình trong đời sống tinh thần xã hội, bởi "những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của gia cấp thống trị".

Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là hoạt động có mục đích của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhằm xây dựng và phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội. Do đó, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần xã hội là phương thức quan trọng để xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Đây là phương thúc cơ bản để giữ vững đặc trưng, bản chất của nền văn hóa đó. Phương thức này được tiến hành thông qua việc truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trong các tầng lớp nhân dân bằng những phương pháp và hình thức thích hợp.

Thứ hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa.

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với mọi hoạt động văn hóa là phương thức có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Phương thức này được coi là sự đảm bảo về chính trị, tư tưởng để nền văn hóa xây dựng trên nền tảng của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đi đúng quỹ đạo và mục tiêu xác định. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực chất đây là sự tăng cường chuyên chính vô sản trong hoạt động văn hóa. Thiết lập chuyên chính vô sản thì mới có tiền đề chính trị cho việc xây dựng nền văn hóa vô sản. Giữ vững và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản là sự đảm bảo cho thắng lợi của quá trình xây dựng nền văn hóa vô sản.

Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hóa bằng cương lĩnh, đường lối, chính sách văn hóa của mình và sự lãnh đạo của Đảng phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật, chính sách. Nhà nước thực hiện quản lý văn hóa theo đúng các nguyên tắc, quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, Đảng ta xác định “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để vǎn hóa, vǎn học - nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.

Phải coi trọng xây dựng vǎn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, mà nội dung quan trọng là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.” “Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam”.

Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hoa nhân loại.

Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa không hình thành từ hư vô, trái lại nó được hình thành trên cơ sở kế thừa những giá trị văn hóa của dân tộc. Văn hóa dân tộc là nền móng và trên cơ sở đó tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, V. I. Lênin đã từng nói: Văn hóa vô sản là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người tích lũy được, "đó là con đường đang và sẽ tiếp tục đưa văn hóa vô sản, cũng như chính trị kinh tế học do Mác hoàn chỉnh".

Sự gắn kết giữa giữ gìn, kế thừa văn hóa dân tộc, tiếp thu giá trị văn hóa nhân loại với quá trình sản sinh giá trị mới, tạo nên sự thống nhất biện chứng của hai mặt giữ gìn và sáng tạo văn hóa. Đây được coi là phương thức nhằm xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phong phú, đa dạng. Cùng với quá trình này là những phương pháp thích hợp nhằm đưa những giá trị văn hóa vào đời sống xã hội để đông đảo nhân dân được hưởng thụ văn hóa do mình sáng tạo ra.

Thứ tư, tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và sáng tạo văn hóa.

Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động đã trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Tuy nhiên, để phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của quần chúng, Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tổ chức nhiều phong trào nhằm lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động và sáng tạo văn hóa.

c. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Theo quan điểm của Đảng nền văn hóa mới mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và giữ vị trí, vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội. Trên cơ sở đó xây dựng và hình thành các mặt, các lĩnh vực, các yếu tố hợp thành đời sống tư tưởng, văn hóa ở nước ta như: nền khoa học, giáo dục, nền đạo đức, văn hóa nghệ thuật…phù hợp và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội mang lại đời sống văn hóa tinh thần phong phú, văn minh và lành mạnh cho nhân dân lao động.

Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở nước là nền văn hóa của nhân dân, vì nhân dân, kế thừa các giá trị truyền thống, mang đậm bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại và chứa đựng các giá trị mới của Chủ nghĩa xã hội.

Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943) đã xác định phương hướng và đặc trưng của văn hóa Việt Nam là : Dân tộc, khoa học, đại chúng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 3 (năm 1960) xác định: Cách mạng tư tưởng văn hóa là một trong ba cuộc cách mạng (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng văn hóa – tư tưởng). Đại hội lần thức VII (năm 1991) Đảng ta lại xác định: “Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, là một trong sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Trong quá trình đổi mới, hội nhập để giải quyết mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế, đồng thời tránh nguy cơ “diễn biến hòa bình”, “tụt hậu xa hơn về kinh tế”. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) ra đời thể hiện rõ nhận thức và quyết tâm, trách nhiệm của Đảng ta về việc xây dựng chấn hưng nền văn hóa nước nhà. Nghị quyết Trung ương 5 xác định năm quan điểm lớn chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, đó là:

-   Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.

-   Nền văn hóa của chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

-    Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

-   Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng.

-   Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, cần có ý thức cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.

Sau này Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành nhiều Nghị quyết có ý nghĩa bổ sung như: Nghị quyết Trung ương 5 về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận; kết luận Trung ương 6 về giáo dục – đào tạo và khoa học công nghệ; Nghị quyết Trung ương 7 về tôn giáo, văn nghệ, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất bản; Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 khóa XI “về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước

Gần đây, tại Đại hội lần thứ XI Đảng ta khẳng định: “phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta. Tăng đầu tư của Nhà nước, đồng thời tăng cường huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện bình đẳng giởi, chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Tiếp tục củng cố và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả… bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa”.

Như vậy, một lần nữa tại Đại hội lần thứ XI Đảng ta đã khẳng đinh rõ hơn về bản chất của nền văn hóa Việt Nam cũng như mục tiêu, động lực, nội dung xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.


Page 2

Video liên quan

Chủ đề