Ứng dụng tâm lý học trong doanh nghiệp

I. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA TÂM LÝ HỌC QUẢN TRỊ KINH DOANH

1.1. Một số khái niệm cơ bản trong Tâm lý học quản trị kinh doanh

Những tri thức tâm lý học ngày nay được sử dụng rất phổ biến trong hoạt động sản xuất kinh doanh của cá nhân và các tổ chức xã hội. Khoa học nghiên cứu tâm lý con người trong hoạt động kinh doanh và giúp các nhà kinh doanh thành đạt được gọi là Tâm lý học quản trị kinh doanh. Để hiểu và nắm được Tâm lý học quản trị kinh doanh, trước hết chúng ta cần làm sáng tỏ một số thuật ngữ cơ bản sau:

1.1.1. Kinh doanh: Trong tiếng Anh thuật ngữ kinh doanh “Business” được hiểu như là việc buôn bán, việc kinh doanh, thương mại, một nghề ổn định, hoặc công việc được con người dành toàn bộ thời gian, sự quan tâm và sức lực của mình cho nó, cụ thể như: chăn nuôi, buôn bán, nghệ thuật… Thuật ngữ kinh doanh được đưa vào tiếng Việt từ khá lâu, nhưng chỉ vài chục năm lại đây mới được sử dụng một cách phổ biến trong đời sống xã hội. Hiện nay các nhà nghiên cứu còn có nhiều cách hiểu khác nhau về kinh doanh. Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, thì kinh doanh được hiểu là: gây dựng, mở mang thêm, tổ chức sản xuất, buôn bán, dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi hoặc bỏ vốn kinh doanh, có đầu óc kinh doanh. GS Mai Hữu Khuê thì cho rằng: kinh doanh là hoạt động để duy trì được sự phát triển lành mạnh, liên tục của doanh nghiệp. Theo PGS. TS Đặng Danh Ánh thì kinh doanh là quá trình sản xuất, khai thác, chế biến và dịch vụ nhằm thu lợi nhuận theo khuôn khổ luật pháp quy định. Có thể nói cả ba quan điểm trên đều nhấn mạnh kinh doanh là một dạng hoạt động đầu tư vốn gồm một hoặc nhiều giai đoạn nhưng đều có mục đích chung là mang lại lợi nhuận (vật chất và tinh thần) cho con người.

Kinh doanh là đầu tư vốn vào một lĩnh vực hoặc giai đoạn nào đó của quá trình hoạt động kinh doanh (sản xuất, phân phối, dịch vụ, tiêu thụ, quảng cáo sản phẩm) nhằm mục đích mang lại lợi nhuận lối đa cho cá nhân và doanh nghiệp.

Nói tới kinh doanh là nhấn mạnh tính chất năng động sáng tạo của nhà kinh doanh. Căn cứ vào tình hình cung và cầu trên thị trường nhà kinh doanh có thể đầu tư vốn vào một lĩnh vực nào đó (phân phối, lưu thông, sản xuất, tiêu thụ hoặc môi giới) nhằm kiếm lời. Cách thức kinh doanh này có thể kiểm được nhiều lợi nhuận, nhưng xét về tổng thể giá trị xã hội không cao đối với sự phát triển cộng đồng (quốc gia, dân tộc), có thể ảnh hưởng tới lợi ích của người tiêu dùng (quan điểm thực dụng, quan điểm cá nhân). Ngược lại, nếu nhà kinh doanh đầu tư vốn vào toàn bộ các giai đoạn hoạt động kinh doanh thì sẽ tạo ra cơ hội phát triển bền vững cho các quốc gia dân tộc và kinh doanh khi đó có giá trị xã hội cao hơn.

Kinh doanh ở khía cạnh sản xuất là mở các doanh nghiệp, nhà máy, công ty, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu của cá nhân và xã hội. Kinh doanh ở khía cạnh dịch vụ, phân phối là hoạt động của các cửa hàng, đại lý, các công ty bán buôn bán lẻ để phân phối sản phẩm tới người tiêu dùng (khâu trung gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng). Ngày nay, để kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp không thể bỏ qua hoạt động marketing nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của mình (tiếp thị, quảng cáo và nghiên cứu thị trường). Mục đích chính của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận cao nhất cho cá nhân và doanh nghiệp. Lợi nhuận trong kinh doanh là một khái niệm rất rộng bao hàm cả lợi nhuận vật chất và lợi nhuận tinh thần. Lợi nhuận vật chất trong kinh doanh gắn liền với các lợi ích kinh tế, tài chính, tiền bạc… thoả mãn nhu cầu vật chất của con người…, còn lợi nhuận tinh thần liên quan tới việc thoả mãn các nhu cầu xã hội, nhu cầu tinh thần của con người như: uy tín của sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, sự đoàn kết và tính tích cực của các thành viên trong doanh nghiệp…

1.1.2. Quản trị: Trong tiếng Việt, thuật ngữ quản trị thường được dùng trong một tập hợp từ như: hội đồng quản trị công ty, ban quản trị hợp tác xã… Khác với quản lý, đối tượng hướng tới của quản trị là con người và quan hệ giữa con người với con người trong tổ chức. Khi nói đến quản trị là nói đến hoạt động quản lý, điều hành con người và quan hệ giữa họ trong tổ chức theo mục tiêu đã đề ra (về sản xuất, kinh doanh…). Có thể hiểu quản trị là những quyết định mang tính chất tổng hợp và chỉnh thể về con người, nó không chỉ liên quan tới quan hệ giữa họ trong công việc mà còn liên quan tới việc tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Quản trị là hoạt động quản lý, điều hành con người và quan hệ giữa họ trong tổ chức theo các mục tiêu đặt ra.

Quản trị doanh nghiệp thực chất là quá trình quản lý, điều hành con người và quan hệ giữa họ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, do cá nhân hoặc nhóm (ban lãnh đạo) tiến hành. Thông thường quản trị có các nhiệm vụ cơ bản sau: xác định mục tiêu và xây dựng chiến lược kinh doanh; tổ chức nhân sự; lãnh đạo thực hiện, kiểm tra đánh giá.

1.1.3. Quản trị kinh doanh: là khái niệm thường được sử dụng trong môi trường hoạt động kinh doanh của cá nhân hoặc doanh nghiệp có thể hiếu quản trị kinh doanh là quản lý con người và quan hệ giữa họ trong tổ chức kinh doanh.

Quản trị kinh doanh là hoạt động quản lý, điều hành con người và quan hệ giữa họ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với mục tiêu tạo ra lợi nhuận nhiều hơn.

1.1.4. Tâm lý học quản trị kinh doanh. So với một số chuyên ngành tâm lý học khác, Tâm lý học quản trị kinh doanh ra đời muộn hơn. Khi đã ra đời Tâm lý học quản trị kinh doanh ứng dụng tri thức của các chuyên ngành tâm lý khác như: Tâm lý học đại cương, Tâm lý học xã hội, Tâm lý học lao động, Tâm lý học quản lý, Tâm lý học phát triển… vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.

Tâm lý học quản trị kinh doanh là một chuyên ngành của tâm lý học nghiên cứu các hiện tượng, quy luật, đặc điểm và cơ chế vận hành tâm lý của con người trong hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng của hoạt động của doanh nghiệp.

Các hiện tượng, quy luật và cơ chế vận hành tâm lý của con người trong môi trường hoạt động kinh doanh là vô cùng phong phú và đa dạng. Vì vậy, để nghiên cứu một cách sâu hơn tâm lý của con người, nhóm người trong môi trường hoạt động đặc thù này, các nhà tâm lý học đã chia ra làm 2 lĩnh vực chủ yếu sau. Thứ nhất là hoạt động tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh. Thứ hai là hoạt động tìm hiểu, nghiên cứu thị trường thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, thu hút đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh.

1.2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học quản trị kinh doanh

Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học quản trị kinh doanh bao gồm nhiều hiện tượng, đặc điểm, quy luật và cơ chế vận hành tâm lý của con người trong hoạt động kinh doanh. Các đối tượng này được phân ra thành các nhóm sau:

1.2.1. Nghiên cứu các hiện tượng, đặc điểm tâm lý của nhà kinh doanh: năng lực quản lý sản xuất, đặc điểm tâm lý nghề nghiệp, phong cách lãnh dạo, uy tín, tư duy kinh doanh… của nhà kinh doanh.

1.2.2. Nghiên cứu các hiện tượng, đặc điểm tâm lý của người lao động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, động cơ, nhu cầu, sở thích, năng lực, tình cảm, thái độ quan hệ… để từ đó nhà kinh doanh có thể thúc đẩy, động viên họ tích cực thực hiện các nhiệm vụ được giao.

1.2.3. Nghiên cứu tập thể và các hiện tượng tâm lý - xã hội trong tập thể sản xuất kinh doanh như: tập thể sản xuất kinh doanh, sự phát triển của tập thể, bầu không khí tâm lý, lây lan tâm lý, đoàn kết, xung đột cạnh tranh… giúp cho nhà kinh doanh có sự hiểu biết và vận dụng trong hoạt động doanh nghiệp có hiệu quả hơn.

1.2.4. Nghiên cứu tâm lý thị trường và các yếu tố thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm: Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, kinh doanh hiện nay như: chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, pháp luật, đầu tư và phát triển doanh nghiệp, tình hình cạnh tranh trên thương trường, vấn đề tâm lý tiếp thị, quảng cáo sản phẩm, nhằm phổ biến và thúc đẩy tiêu thụ.

1.2.5. Nghiên cứu các hiện tượng, đặc điểm tâm lý của con người trong tiêu thụ sản phẩm. Nghiên cứu tâm lý khách hàng: nhu cầu, động cơ, sở thích, thị hiếu, tình cảm và thái độ; các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng: văn hoá, truyền thống, gia đình, nghề nghiệp, thu nhập lứa tuổi, giá cả, chất lượng sản phẩm… Nghiên cứu tâm lý người bán hàng: động cơ, nhu cầu, năng lực bán hàng, thái độ và tình yêu nghề nghiệp của họ…

1.3. Nhiệm vụ của Tâm lý học quản trị kinh doanh

Tâm lý học quản trị kinh doanh có các nhiệm vụ cơ bản sau:

1.3.1. Cung cấp các tri thức tâm lý học cho các nhà kinh doanh để tổ chức, sử dụng và đánh giá con người một cách khoa học trong quá trình sản xuất kinh doanh: Sử dụng các công cụ, phương pháp nghiên cứu tâm lý nhằm giải quyết vấn đề tuyển dụng cán bộ quản lý và người lao động có phẩm chất và năng lực phù hợp với công việc.

1.3.2. Nghiên cứu cải tiến quản lý, hoàn thiện quy trình sản xuất, bồi dưỡng và nâng cao kỹ năng nghề: Tối ưu hoá các mối quan hệ giữa con người với con người trong doanh nghiệp… Nghiên cứu tác động của các yếu tố: ánh sáng, âm thanh, màu sắc, bố trí sắp xếp con người, dây chuyền công nghệ để nâng cao năng suất lao động…

1.3.3. Nghiên cứu và giải quyết những vấn đề tâm lý nảy sinh trong doanh nghiệp và đưa ra các biện pháp ngăn chặn, dự phòng có hiệu quả: Nghiên cứu bầu không khí tâm lý của doanh nghiệp như: sự thoả mãn của người lao động, xung đột, cạnh tranh, sự đoàn kết các giai đoạn phát triển tập thể…

1.3.4. Bồi dưỡng và nâng cao trình độ nhà kinh doanh: Sau khi nghiên cứu đặc điểm tâm lý của hoạt động kinh doanh, các phẩm chất và năng lực cần có của nhà kinh doanh, nghiên cứu uy tín, phong cách lãnh đạo… Tâm lý học quản trị kinh doanh cần xây dựng chương trình bồi dưỡng, hoàn thiện nhân cách của họ.

1.3.5. Nghiên cứu tâm lý thị trường và vấn đề tiêu thụ sản phẩm: Nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu, hành vi tiêu dùng của khách hàng, thúc đẩy quảng cáo, marketing, chăm sóc khách hàng trong hoạt động kinh doanh…

1.4. Vai trò của Tâm lý học trong Quản trị kinh doanh

1.4.1. Cung cấp cho người học các tri thức tâm lý cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ví dụ: các hiện tượng, các quá trình, đặc điểm tâm lý của khách hàng, người lao động…

1 4.2. Nghiên cứu các đặc điểm tâm lý của khách hàng, từ đó đưa ra các sách lược về giá cả, chiến lược kinh doanh, phân phối sản phẩm, đồng thời sử dụng các quy luật, cơ chế tâm lý trong quảng cáo thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.

1.4.3. Tâm lý học quản trị kinh doanh giúp các nhà kinh doanh lựa chọn đối tác kinh doanh, tuyển chọn nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của công việc…

1 4.4. Tâm lý học quản trị kinh doanh giúp các nhà kinh doanh nghiên cứu thị trường, xúc tiến hoạt động marketing, từ đó đưa ra được sản phẩm mới có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng, làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.

1 4.5. Tâm lý học quản trị kinh doanh giúp các nhà kinh doanh đánh giá được các phẩm chất, năng lực của đội ngũ các nhà kinh doanh, từ đó xây dựng chương trình bồi dưỡng, hoàn thiện nhân cách và xây dựng chân dung nhân cách nhà kinh doanh…

II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÂM LÝ HỌC QUẢN TRỊ KINH DOANH

2.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển Tâm lý học quản trị kinh doanh ở nước ngoài

Tâm lý học quản trị kinh doanh ra đời gắn liền với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, với kinh tế thị trường. Vì thế nó được ra đời và phát triển khá sớm ở các nước phương Tây, sau đó mới được phát triển ở các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây và ở Việt Nam.

2.1.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển Tâm lý học quản trị kinh doanh ở các nước phương Tây

Sự hình thành và phát triển Tâm lý học quản trị kinh doanh ở các nước phương Tây chia làm 5 giai đoạn như sau:

2.1.1.1. Giai đoạn từ 1900 đến 1930 - (Hệ kín và các thể hợp lý)

Giai đoạn này gắn liền với tên tuổi các nhà tâm lý học nổi tiếng như: H. Munsterberg, M. Werber, F. Taylor… Năm 1912, nhà tâm lý học người Đức H. Munsterberg đã tiến hành rất nhiều các công trình nghiên cứu tâm lý con người trong môi trường sản xuất kinh doanh, trên cơ sở đó ông đã đưa ra các luận điểm cơ bản cho việc xây dựng Tâm lý học quản trị kinh doanh. Ý tưởng chính trong các công trình nghiên cứu của ông là tìm hiểu sự khác biệt cá nhân về thiên hướng, khí chất và năng lực để sử dụng vào việc dạy nghề cho họ, từ đó thiết kế các thang đo (đánh giá) phục vụ việc tuyển chọn học viên cho các nghề khác nhau. Ông là người đầu tiên đã giảng dạy chương trình “Tâm lý học kinh tế” năm 1912 ở Bang (Đức) và “Tâm lý học kinh doanh” năm 191 ở Chi-ca-go (Mỹ).

Nhà xã hội học Max Werber (Đức) đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu xã hội học về quản lý các nhóm xã hội. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu nhận được ông đã đi tới kết luận rằng: trật tự xã hội được thiết lập bởi các điều lệ và hình thức tổ chức con người có hiệu quả nhất.

Frederic Taylor (Mỹ) đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề tổ chức khoa học lao động trong công nghiệp. Ý tưởng cơ bản của F. Taylor là coi con người như một hệ kín và cá thể hợp lý, từ đó ông đi tìm định mức thời gian cho các thao tác của từng loại công nhân. Theo ông, cần sử dụng phương pháp thiết lập kiểm soát tối đa, kết hợp với quyền lực và trách nhiệm trong quản lý sản xuất kinh doanh mới có thể làm cho năng suất lao động tăng và giảm phế phẩm cho doanh nghiệp.

Hạn chế chính của giai đoạn này là chỉ nghiên cứu con người trong một công ty khép kín, tìm kiếm những điểm hợp lý, nhằm đưa ra cách thức quản lý phù hợp nhất. Các yếu tố môi trường và quan hệ giữa con người với con người trong tổ chức chưa được quan tâm.

2.1.1.2. Giai đoạn 1930- 1960: (Hệ kín và cá thể xã hội)

Giai đoạn này gắn liền với tên tuổi của các nhà tâm lý học Elton Mayo, Douglas Mc Gregor Chester Barnard - những người đóng góp hết sức quan trọng cho sự phát triển Tâm lý học quản trị kinh doanh.

Elton Mayo là chuyên gia Tâm lý học xã hội và Tâm lý học lao động rất nổi tiếng của Mỹ. Ông là người đầu tiên chứng minh bằng thực nghiệm tâm lý về sự ảnh hưởng của các yếu tố tâm lý tới hiệu quả và năng suất lao động trong công nghiệp. Thực nghiệm nổi tiếng này được tiến hành trong 5 năm liền tại công ty Continental Mặt ở Philadenphia. Đây là công ty đang gặp phải rất nhiều khó khăn như năng suất lao động thấp, công nhân thuyên chuyển nhiều (250%/1 năm). Thực nghiệm được tiến hành bằng cách, ông đã dùng hai phân xưởng A-thực nghiệm và phân xưởng B-đối chứng. Khi ông tăng dần độ chiếu sáng trong phân xưởng A, kết quả cho thấy năng suất lao động ở đó cũng tăng dần, như vậy phải chăng năng suất lao động tỷ lệ thuận với độ chiếu sáng. Còn ở phân xưởng B có độ chiếu sáng không thay đổi và năng suất lao động vẫn tiếp tục giảm. Nhiều người đã cho rằng như vậy yếu tố vật chất (ánh sáng) đã tác động tới năng suất lao động của công nhân. Để tìm hiểu vấn đề này, ông đã giảm dần độ chiếu sáng ở phân xưởng A, nhưng lạ thay năng suất lao động vẫn tăng. Tình hình ở phân xưởng đối chứng B không có gì cải thiện. Mayo đã đi tới kết luận rằng không phải ánh sáng làm tăng năng suất lao động mà chính là sự quan tâm của lãnh đạo (yếu tố tâm lý) đã ảnh hưởng tới người lao động và làm tăng năng suất lao động của họ. Ông cho rằng, chính sự quan tâm của lãnh đạo đã làm cho các quan hệ liên nhân cách trong công ty đã trở nên lành mạnh, tạo ra được bầu không khí tâm lý tích cực thúc đẩy người lao động làm việc hết mình vì công ty. Kết quả này làm thay đổi một cách cơ bản quan niệm trước đây cho rằng chỉ sử dụng quyền lực trong quản lý người lao động mới nâng cao được kết quà hoạt động của họ.

Douglas Mc Gregor: là người đã đưa ra thuyết X và Y trong quản lí. Theo tác giả, toàn bộ các lý thuyết quản lý con người có thể chia ra làm hai kiểu X và Y. Kiểu lý thuyết quản lý X cho rằng con người có bản chất là: lười biếng, không thích làm việc; trốn tránh trách nhiệm; chỉ vì lợi ích cá nhân, vật chất mà làm việc. Vì thế, cần duy trì quản lý bằng quyền lực, giám sát chặt chẽ người lao động. Kiểu lý thuyết quản lí Y thì ngược lại cho rằng: con người luôn muốn được tôn trọng; thích tự giác làm việc; thích sáng tạo và thăng tiến. Vì thế, cần duy trì cách thức quản lý nhân văn hơn, cần khơi dậy ý thức tự giác, sáng tạo của người lao động.

Chester Barnard (Mỹ) sau nhiều năm làm công tác quản lý, ông đã xin về làm việc tại Đại học Harvard để tiếp tục nghiên cứu vấn đề hành vi cộng đồng trong tổ chức chính thức. Năm 1938, ông xuất bản tác phẩm “Chức năng nhà quản lý”. Theo ông, hành vi cộng đồng có nguồn gốc từ nhu cầu sinh học và mục đích cuối cùng của nó là nâng cao sự thoả mãn của con người; hành vi cộng đồng của con người trong tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào người quản lý và chính người quản lý đã sáng tạo và điều hoà các giá trị chủ đạo trong tổ chức.

Như vậy, trong giai đoạn này, mặc dù con người vẫn chỉ được nghiên cứu ở trong môi trường công ty, nhưng con người đã được đặt trong các quan hệ xã hội, họ đã trở thành các cá thể xã hội.

2.1.1.3. Giai đoạn 1960 - 1980 (Hệ mở và cá nhân hợp lý)

Giai đoạn này gắn liền với tên tuổi của các nhà tâm lý học như: Georges Katona; Ernest-Dichter… Georges Katona (người Mỹ gốc Hungary) đã đưa ra quan điểm mới trong nghiên cứu Tâm lý học quản trị kinh doanh. Ông cho rằng con người và công ty là một bộ phận cấu thành của thị trường. Là người được đào tạo theo trường phái Gestalt, vì thế các lý thuyết của ông chịu ảnh hưởng rất nhiều của các quy luật tâm lý của họ như: quy luật về tính trọn vẹn; quy luật về trường tâm lý; quy luật hình và “Nền” trong tri giác… Trong nghiên cứu của mình, ông coi hành vi kinh doanh, hành vi tiêu dùng của con người là kết quả (trọn vẹn của sự tác động giữa cá nhân và môi trường (văn hoá, xã hội, lịch sử). Con người và công ty được coi như một hệ mở và luôn chịu tác động và mang trong mình dấu ấn của môi trường xung quanh. Ông đã cho công bố nhiều tác phẩm rất có giá trị như: “người tiêu dùng quyền thế” (1960), “Xã hội tiêu dùng đại chúng” (1969). Ông là người đầu tiên sử dụng phương pháp nghiên cứu điều tra theo mẫu, trong việc nghiên cứu hành vi kinh tế của con người. Khi phân tích tâm lý về hành vi ứng xử kinh tế của các cá nhân và nhóm xã hội, ông đã đi đến kết luận: Chính hành vi tiêu dùng của cá nhân và cộng đồng là thành tố quan trọng để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, tạo ra sự phát triển xã hội. Xã hội tiêu dùng không phải là một xã hội lãng phí, nó được xây dựng bằng lao động và quyền lực của những người tiêu dùng trung và hạ lưu trong xã hội.

Ernest Dichter đã nghiên cứu động cơ mua hàng theo Phân tâm học; theo ông động cơ mua hàng là “động cơ vô thức” gắn liền với xung lực Libiđo (năng lượng tình dục) trong con người. Tất cả mọi hành vi mua hàng đều có thể được giải thích xuất phát từ “cái” vô thức bản năng sinh học của cơ thể. Ví dụ, ông giải thích hút thuốc xì gà là do muốn lặp lại hành vi mút ti mẹ khi còn nhỏ, các bà nội trợ tránh không muốn mua nho khô, táo khô, khế khô hoặc mỡ lợn mà họ thích mua các hoa quả còn tươi và dầu thực vật, là do nhu cầu vô thức bản năng - nhu cấu an toàn của họ. Theo ông khi nhìn thấy lớp vỏ bề ngoài nhăn nheo của các loại hoa quả khô trên gợi cho người mua về tuổi già (như da người già), mỡ lợn gợi sự chết chóc, sát sinh… mà nhu cầu an toàn mách bảo họ lẩn tránh. Theo quan điểm của Dichter, cần xem lại quan hệ “người mua-người bán” trong hoạt động kinh doanh và thiết kế chương trình quảng cáo sản phẩm theo lý thuyết Phân tâm học. Đóng góp lớn nhất của ông cho Tâm lý học quản trị kinh doanh là, đã chỉ ra được hướng nghiên cứu ứng dụng được phát triển rất mạnh sau này.

2.1.1.4. Giai đoạn từ 1980 đến 1990 (Hệ mở và cá thể xã hội)

Trong giai đoạn này, các công ty được xem là những hệ mở có quan hệ chặt chẽ với nhau và bị chi phối bởi các quy luật thị trường; con người được nghiên cứu ở đây là con người xã hội, luôn quan hệ và giao tiếp với nhau. Lý thuyết KAIZEN của nhà tâm lý học Nhật Bản Masaakuman (1986) đã gây ra một tiếng vang rất lớn trong Tâm lý học quản trị kinh doanh. Theo lý thuyết này, để kinh doanh có hiệu quả trong giai đoạn kinh tế hậu công nghiệp, nhà kinh doanh cần chú ý tới các đặc điểm tâm lý của con người trong lao động công nghiệp như: tính kỷ luật; khả năng sử dụng thời gian, tay nghề; tinh thần tập thể và sự thông cảm.

Trong giai đoạn này có nhiều các công trình nghiên cứu lý thuyết à thực nghiệm hành vi tiêu dùng của các nhà tâm lý học như: “The psychology of consumer behavior” (1990) Brian Mullen; Craig Johnson. Các công trình nghiên cứu về tổ chức quản lý công ty, doanh nghiệp như: “Managing to day” (1991) S.Robbins.

2.1.1.5. Giai đoạn 5 từ năm 1990 đến nay (Hội nhập và mở cửa)

Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn này là sự phát triển với một tốc độ chưa từng có của khoa học công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học). Thời kỳ chiến tranh lạnh đã kết thúc, sự hội nhập kinh tế, văn hoá; xã hội đã trở thành xu thế của thời đại, cạnh tranh trên thương trường ngày càng khốc liệt, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Xu hướng sát nhập, liên doanh liên kết giữa các công ty lớn ngày càng phổ biến. Các công ty đa quốc gia được thành lập ngày càng nhiều, môi trường làm việc mang đậm tính chất đa văn hoá, đa sắc tộc. Tâm lý học quản trị kinh doanh phát triển rất mạnh cả về nghiên cứu lý thuyết lẫn nghiên cứu ứng dụng. Phillip L. Hunsaker đã nghiên cứu và đưa ra chương trình luyện tập các kỹ năng cần thiết cho các nhà quản lý doanh nghiệp. Năm 2001, ông đã cho xuất bản tác phẩm “Luyện tập các kỹ năng quản lý” đã được các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao. Kevin Kelly là một nhà quản lý kinh doanh nổi tiếng của Mỹ đã cho xuất bản tác phẩm về kết quả các công trình nghiên cứu xu hướng kinh doanh cơ bản những năm cuối thế kỷ XX và dự báo xu hướng kinh doanh cho thế kỷ XXI rất có giá trị “Nhìn lại kinh doanh” (1990). Rowan Gibson-người đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu tổ chức doanh nghiệp trên thế giới, đã cho xuất bản tác phẩm “Tư duy lại tương lai” (2002). Trong tác phẩm này, ông đã nhấn mạnh quan niệm truyền thống về cấu trúc công ty, doanh nghiệp không còn phù hợp nữa, cấu trúc của các công ty không còn một giới hạn cứng nhắc ở một địa điểm, một quốc gia nữa mà nó có thể lan toả, di động như một cấu trúc mạng. Đã đến lúc không cần một sự lãnh đạo theo kiểu kiểm soát mọi công việc, mà cần một sự lãnh đạo mới, bằng cánh chỉ ra mục đích cụ thể cho con người đi tới. Đó là sự lãnh đạo bằng cách dự định hay dự báo tương lai”. Các công trình nghiên cứu về văn hoá trong kinh doanh cũng được các nhà tâm lý học hết sức quan tâm, cụ thể là: John Kotler một trong những chuyên gia lỗi lạc về văn hoá quản lý doanh nghiệp của Mỹ trong tác phẩm “Văn hoá hợp tác và thực hiện” đã nhấn mạnh: Văn hoá là yếu tố hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh hiện này. Muốn có được văn hoá kinh doanh tốt, thì ban lãnh đạo phải biết xác định giá trị vai trò của các thành viên trong doanh nghiệp một cách trung thực và thành khẩn, để từ đó đề cao được óc sáng tạo và khả năng lãnh đạo ở mọi cấp trong tổ chức.

2.1.2. Vài nét về sự hình thành và phát triển Tâm lý học quản trị kinh doanh ở Liên Xô

Ngay từ sau khi cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) tháng 10 thành công, Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô đã quan tâm tới việc xây dựng ngành Tâm lý học quản trị kinh doanh. V.I Lê-nin nhiều lần đã khẳng định: cần phải học hỏi cách thức quản lý, kinh doanh tư bản để áp dụng vào việc xây dựng nền kinh tế mới của nước Nga Xô viết. Người nói “Nước Cộng hoà Xô viết cần tiếp thu cho bằng được tất cả những gì quý giá trong những thành quả của khoa học kỹ thuật)”. Trong giai đoạn này do có rất nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống, hơn nữa số lượng các nhà tâm lý học quản trị kinh doanh quá ít, vì thế chưa có nhiều công trình nghiên cứu tâm lý học quản trị kinh doanh. A.C Macarenco là người có đóng góp rất lớn cho việc nghiên cứu tập thể sản xuất kinh doanh trong giai đoạn này. Ông đã đưa ra lý thuyết về sự phát triển của tập thể được rất nhiều nhà khoa học thừa nhận. Theo ông, tập thể sán xuất kinh doanh bao giờ cũng trải qua ba giai đoạn phát triển là: tổng hợp sơ cấp; phân hoá và tổng hợp. Lý thuyết này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc nghiên cứu các tập thể kinh doanh sau này.

30 năm sau, các nhà tâm lý học Liên Xô mới có được các công trình nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm có giá trị trong tâm lý học quản trị kinh doanh. Đặc biệt, sau Hội nghị “Khoa học, kỹ thuật về vấn đề tổ chức khoa học nền công nghiệp xã hội chủ nghĩa” năm 1966, các nhà khoa học Liên Xô đã nhấn mạnh sự cần thiết phải ưu tiên nghiên cứu ứng dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó nhiều công trình nghiên cứu phẩm chất và năng lực của các nhà quản lý doanh nghiệp được tiến hành. E.E. Venđrôv đã tiến hành nghiên cứu người quản lý của nhiều doanh nghiệp khác nhau và cho xuất bản tác phẩm “Những vấn đề tâm lý của quản lý” năm 1969. Trong tác phẩm này, tác gia đã nhấn mạnh các phẩm chất cần có ở người cán bộ quản lý doanh nghiệp như: tính Đảng; tính tổ chức cao; văn hoá lao động cao; tính cẩn thận, tính đòi hỏi cao, tinh thần trách nhiệm cao; khiêm tốn; chủ ý lắng nghe ý kiến người dưới quyền.

V. I. Mikhaiev sau nhiều năm nghiên cứu các tập thể sản xuất kinh danh. Ông đã cho xuất bản tác phẩm những vấn đề xã hội-tâm lý của quản lý năm 1975. Trong tác phẩm này, ông đã nhấn mạnh vai trò của 1 yếu tố tâm lý-xã hội trong hoạt động quản lý tập thể như: bầu không khí tâm lý; truyền thống; sự đoàn kết trong tập thể… Theo ông, nhà quản lý giỏi là người phải nắm bắt và biết vận dụng các hiện tượng tâm lý - xã hội trong hoạt động hàng ngày của mình.

N.N Obudôv đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh của các tập thể công nghiệp và năm 1976 đã cho xuất bản tác phẩm “Tâm lý học xã hội nhân cách”. Trong tác phẩm này, tác giả đã nhấn mạnh: yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến hiệu quả và năng suất lao động là dung hợp tâm lý (giữa lãnh đạo và các thành viên với nhau). Dung hợp tâm lý là sự phù hợp về động cơ, nhu cầu, mục đích, tình cảm, hứng thú và định hướng giá trị giữa các thành viên trong nhóm, nhằm thực hiện các nhiệm vụ chung của nhóm có hiệu quả cao nhất. Dung hợp tâm lý có ba mức độ sau: cao, trung bình và thấp. Theo ông, nhà kinh doanh cần hết sức quan tâm tới việc tạo ra sự dung hợp tâm lý trong tập thể. Để làm được điều này khi tuyển dụng, sắp xếp người lao động, cần lưu ý tới các yếu tố như nhu cầu giao tiếp; động cơ làm việc ý thức tập thể; sự cảm thông và chia sẻ lẫn nhau, định hướng giá trị của họ…

D.P. Kaidalov và E.I Xuimenko là hai nhà tâm lý học quản trị kinh doanh rất nổi tiếng của Liên Xô. Điều trăn trở lớn nhất của họ là: tại sao niệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ở Liên Xô không cao? Bằng nhiều công trình nghiên cứu của mình họ đã đi đến kết luận: cần phải thay đổi cơ chế quản lý tập thể trong lãnh đạo sản xuất kinh doanh, cơ chế này không đề cao được vai trò, trách nhiệm và sự sáng tạo của cá nhân trong quản lý. Năm 1979, với tác phẩm “Tâm lý học cơ chế một thủ trưởng và công tác quản lý tập thể” các nhà tâm lý trên đã đưa ra quan điểm và cách nhìn mới trong kinh doanh. Họ khẳng định cơ chế một thủ trưởng trong quản lý doanh nghiệp là chìa khoá quan trọng để giải quyết có kết quả bài toán kinh tế của Liên Xô những năm 1980. Đặc biệt, họ còn đưa ra các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được nhiều người thừa nhận là: hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ là hiệu quả về kinh tế, tài chính mà còn là sự đoàn kết của các thành viên trong tập thể và tính tích cực xã hội của họ.

V.I. Lebedev đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu hoạt động quản lý doanh nghiệp, cùng với các kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh mà ông có được (Tổng giám đốc tổ hợp công nghiệp) năm 1984 đã cho xuất bản tác phẩm “Tâm lý học xã hội trong quản lý”. Theo ông, người cán bộ quản lý thành đạt là những người không chỉ chú ý tới các hiện tượng tâm lý-xã hội trong tập thể, mà còn cần hết sức quan tâm tới đặc điểm tâm lý của người lao động như: nhu cầu, hứng thú, sở thích, nguyện vọng, năng lực, động cơ… Ông cho rằng muốn sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cần phải lựa chọn người lao động cho phù hợp với công việc và có các chương trình bồi dưỡng, nâng cao tay nghề thường xuyên cho họ.

A. L. Xvensinxki, nhà Tâm lý học quản trị kinh doanh nổi tiếng của Đại học Tổng hợp Leningrat, sau nhiều năm nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp, năm 1985 đã cho xuất bản tác phẩm “Tâm lý học xã hội trong quản lý”. Trong tác phẩm này, ông đã khẳng định: chính mức độ thoả mãn nhu cầu thông tin về sản xuất và môi trường xã hội của người lao động đã quyết định hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Theo ông, kiểu giao tiếp của người quản lý doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn tới mức độ thoả mãn nhu cầu thông tin này. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu nhận được, ông đã chia ra 4 kiểu giao tiếp giữa nhà quản lý doanh nghiệp và người dưới quyền như sau:

Kiểu A: Người quản lý luôn giao tiếp và lắng nghe ý kiến người dưới quyền.

Kiểu B: Người quản lý giao tiếp với người dưới quyền nhưng chỉ chú ý đến các thông tin hợp lý.

Kiểu C: Người quản lý giao tiếp với người dưới quyền để đảm bảo tính hợp lý, không chú ý đến nội dung.

Kiểu D: Người quản lý không giao tiếp với người dưới quyền.

Các nhà Tâm lý học quản trị kinh doanh Liên bang Nga ngày nay đã và đang tiếp tục truyền thống tốt đẹp của các nhà Tâm lý học Liên Xô trước đây. Họ tiến hành những công trình nghiên cứu tâm lý học quản trị kinh doanh rất có giá trị, nhưng họ cũng chỉ ra những hạn chế của nền tâm lý học Xô Viết như:

- Chỉ nghiên cứu tâm lý giai cấp công nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh công nghiệp mà ít chú ý tới giai cấp nông dân và trí thức.

- Cơ chế của nền kinh tế kế hoạch, tập trung, bao cấp nặng nề, vì thế không tạo ra được các cơ chế thúc đẩy tính tích cực và tiềm năng sáng tạo của con người trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Không chú ý tới việc nghiên cứu hành vi tiêu dùng và các hoạt động marketing thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.

- Nhà nước độc quyền trong sản xuất và phân phối sản phẩm làm ra, vì thế không tạo ra được sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp…

2.2. Vài nét về sự hình thành và phát triển Tâm lý học quản trị kinh doanh ở Việt Nam

So với một số nước khác, Khoa học Tâm lý nói chung và Tâm lý học quản trị kinh doanh nói riêng được phát triển tương đối muộn ở Việt Nam. Dựa trên cách tiếp cận lịch sử có thể nói Tâm lý học quản trị kinh doanh Việt Nam đã trải qua các giai đoạn phát triển sau:

2.2.1. Giai đoạn từ 1965 trở về trước-thời kỳ tích luỹ tri thức và các điều kiện tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học quản trị kinh doanh

Đây là giai đoạn hình thành và phát triển mang tính chất tự phát của Tâm lý học quản trị kinh doanh. Đã từ rất lâu quan niệm Nho giáo thống trị trong xã hội Việt Nam, do vậy hoạt động kinh doanh không được coi trọng. Theo quan niệm đó kinh doanh là việc làm ngược lại với cái “tâm”, “cái thiện”. Điều kiện thứ nhất đặt ra cho các cấp lãnh đạo là làm thế nào để xã hội có cách nhìn đúng về hoạt động kinh doanh.

Điều kiện quan trọng thứ hai là các tri thức, kinh nghiệm, vốn sống của con người Việt Nam trong hoạt động sản xuất nông nghiệp đã được tích luỹ khá phong phú và đã đến lúc cần có một ngành khoa học nghiên cứu, đúc kết các tri thức này để thúc đẩy sự phát triển sản xuất kinh doanh xã hội.

Ngay từ những năm đầu của việc xây dựng CNXH ở miền Bắc, một số nhà khoa học dã nhận ra rằng, do cơ chế tập trung, quan liêu cao để trong hoạt động kinh tế mà quy luật cung cầu trong xã hội không được vận hành một khách quan. Sản phẩm hàng hoá của người dân làm ra không có thị trường tiêu thụ, trong khi đó nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm đó của người dân ở khu vực khác lại không được thoả mãn.

Nhu cầu của xã hội trong việc tổ chức sắp xếp lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là rất lớn, đã đến lúc cần có một ngành khoa học nghiên cứu các hiện tượng, quy luật tâm lý của con người trong hoạt động kinh doanh. Toàn bộ các yếu tố trên, là điều kiện tiền đề cho sự ra đời tâm lý học quản trị kinh doanh Việt Nam sau này.

2.2.2. Giai đoạn từ năm 1965 trở lại đây - sự ra đời và phát triển của Tâm lý học quản trị kinh doanh Việt Nam

Năm 1965, Khoa Tâm lý - Giáo dục được thành lập tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong thời gian này một loạt các giáo trình: Tâm lý học đại cương, Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học xã hội do các tác giả Phạm Cốc, Nguyễn Đức Minh, Đỗ Thị Xuân biên soạn, phục vụ trực tiếp cho việc đào tạo các nhà sư phạm, giáo viên trong toàn quốc. Năm 1980, Tâm lý học mới được đưa vào giảng dạy và nghiên cứu tại Trường Đảng Cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Năm 1987, Bộ môn Tâm lý học xã hội đầu tiên được thành lập ở đây, và giáo trình “Tâm lý học xã hội trong công tác lãnh đạo quản lý” do Nguyễn Hải Khoát chủ biên được xuất bản, phục vụ công tác đào tạo trong nhà trường. Những năm tiếp theo, Tâm lý học quản trị kinh doanh được đưa vào giảng dạy tại một số trường đại học trong cả nước như: Trường Đại học Tổng hợp, Học viện Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Trường Đại học Kinh tế TP HCM…

Hiện nay Tâm lý học quản trị kinh doanh đã được một số viện và trường đại học quan tâm nghiên cứu như: Viện Tâm lý học thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Khoa Tâm lý học Trường Đại học KHXH&NV, Học viện Chính trị Quốc gia HCM, và Học viện Tài chính.

Trong những năm vừa qua, có rất nhiều các hướng nghiên cứu trong tâm lý học quản trị kinh doanh Việt Nam được các nhà nghiên cứu tiến hành. Một số các công trình nghiên cứu có kết quả như: “Bước đầu điều tra về việc vận dụng tâm lý học trong sản xuất kinh doanh” (1991) của TS. Bùi Ngọc Oánh. Trong nghiên cứu này tác giả đã chỉ ra được mục đích, ý nghĩa và vai trò của việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu tâm lý trong sản xuất kinh doanh, hướng dẫn cho các cán bộ quản lý vận dụng các kiến thức tâm lý trong hoạt động quản lý và chỉ ra xu hướng phát triển cho Tâm lý học kinh doanh Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Công trình nghiên cứu “Tâm lý học tiêu dùng và xu thế diễn biến” (1997) của Viện Tâm lý học do GS. Đỗ Long phụ trách. Trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu của các nhóm dân cư hiện nay về ăn uống, sử dụng máy nông nghiệp, sử dụng thời gian tự do và tiêu dùng các ấn phẩm văn hoá… các tác giả đã chỉ ra được thực trạng nhu cầu tiêu dùng, khái quát được xu hướng phát triển nhu cầu tiêu dùng, đưa ra các giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam thúc đẩy tiêu dùng của người dân. Công trình nghiên cứu “Các yếu tố tâm lý của quảng cáo thương mại và ảnh hưởng của nó tới hành vi của người tiêu dùng” (2001) của PGS. Nguyễn Hữu Thụ Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Nghiên cứu đã chỉ rõ đặc điểm cấu trúc, ảnh hưởng của các yếu tố tâm lý như: xúc cảm, tình cảm; trí nhớ, động cơ, nhu cầu… trong việc tiếp nhận thông tin quảng cáo thương mại của người tiêu dùng. Các công trình nghiên cứu của giảng viên, sinh viên khoa Tâm lý học về tâm lý học quản trị kinh doanh như: nhu cầu du lịch của người dân Hà Nội; các yếu tố tâm lý của quảng cáo trên truyền hình; nhu cầu đối với sản phẩm dầu gội của người dân nông thôn đã được tiến hành và có được các kết quả đáng mừng. Tuy nhiên ở Việt Nam chưa có được các công trình nghiên cứu mang tính tổng thể, quy mô và chuyên sâu, thực sự có hiệu quả trong chuyên ngành này…

Hội khoa học Tâm lý học - Giáo dục học Việt Nam đã hai lần mở Hội thảo về Tâm lý học kinh doanh (Lần thứ nhất hội thảo tại TP HCM - 1993 và lần thứ hai hội thảo tại Hà Nội - 1995) nhằm tìm hướng đi phù hợp với giai đoạn hiện đại hoá và công nghiệp hoá hiện nay của nước nhà. Tâm lý học quản trị kinh doanh ở Việt Nam ngày càng phát huy được vai trò của mình trong việc giải quyết các nhiệm vụ của ứng và Nhà nước đã giao cho.

III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC QUẢN TRỊ KINH DOANH

Tâm lý học quản trị kinh doanh sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học đại cương, Tâm lý học xã hội, Tâm lý học quản lý, Tâm lý học lao động… trong nghiên cứu của mình, nhưng được thích ứng với môi trường hoạt động kinh doanh. Sau đây là một số phương pháp sử dụng phổ biến.

3.1. Phương pháp quan sát

3.1.1. Định nghĩa:

Quan sát là quá trình tri giác có mục đích, có kế hoạch nhằm theo dõi và phát hiện một hoặc nhiều hiện tương tâm lý nào đó của khách thể trong hoàn cảnh và thời gian xác định, nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu.

Ví dụ: Quan sát hành vi tiêu dùng của khách hàng thông qua những biểu hiện của họ trong việc mua sắm sản phẩm, dịch vụ. Họ lựa chọn sản phẩm gì, kiểu dáng, màu sắc như thế nào, các hành vi ngôn ngữ và phi ngôn ngữ biểu hiện khi mua ra sao…

3.1.2. Yêu cầu quan sát

- Người quan sát cần có mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của quan sát. Tức là họ phải trả lời các câu hỏi: Quan sát cái gì? Quan sát thế nào? Quan sát làm gì?

- Cần đảm bảo được tính hệ thống, tính liên tục của quan sát, quan sát phải theo một trình tự, một kế hoạch cụ thể nhằm thu được các thông tin đầy đủ khách quan nhất về khách thể.

- Cần chuẩn bị tốt các phương tiện trang thiết bị, ghi lại được đầy đủ sự biểu hiện của khách thể, để sau này có thể phân tích, đánh giá để đưa ra kết luận cần thiết.

- Người quan sát phải hiểu biết về vấn đề quan sát. Trước khi đi quan sát họ cần được trang bị các kiến thức cần thiết và nắm bắt được vấn đề nghiên cứu.

3.1.3. Các loại quan sát

Quan sát thường được tiến hành theo ba loại sau đây:

- Quan sát trực tiếp: Người quan sát trực tiếp tham gia vào hoạt động cùng với khách thể nghiên cứu (hoà đồng với khách thể). Ví dụ: để nghiên cứu động cơ làm việc của người lao động, thì người quan sát cần trực tiếp làm việc với người lao động.

- Quan sát gián tiếp: là quan sát có sử dụng các công cụ, phương tiện hỗ trợ cho nghiên cứu như: máy ảnh, máy ghi âm, máy quay vi deo…

- Tự quan sát: Khách thể tự quan sát các hiện tượng tâm lý của chính bản thân mình khi mua sắm, sử dụng sản phẩm, dịch vụ, sau đó tự phân tích đánh giá và kết luận về các hiện tương tâm lý cần nghiên cứu.

3.1.4. Ưu nhược điểm của quan sát

* Ưu điểm:

- Quan sát cung cấp nhiều thông tin về khách thể nghiên cứu (không chỉ các hiện tượng cần quan sát mà còn hành vi cử chỉ và lời nói của khách thể).

- Có thể nghiên cứu được nhiều đối tượng trong một lúc.

- Thuận tiện và kinh tế. So với cách phương pháp nghiên cứu khác thì chi phí cho quan sát ít và dễ tiến hành hơn.

* Nhược điểm:

- Người quan sát thường đóng vai trò thụ động.

- Kết quả quan sát mang tính định lượng nhiều hơn định tính nên khó xử lý.

- Không phải ai cũng có thể sử dụng phương pháp này được vì người quan sát phải có trình độ, hiểu biết về đối tượng nghiên cứu.

Quan sát được các nhà tâm lý học sử dụng rất phổ biến trong Tâm lý học quản trị kinh doanh, nhằm nghiên cứu tâm lý của người lao động, người tiêu dùng, quảng cáo, tiêu thụ sản phẩm.

3.2. Phương pháp điều tra (ăng két)

3.2.1. Định nghĩa

Điều tra là phương pháp sử dụng hệ thống những câu hỏi được thiết kế từ trước, nhằm thu thập ý kiến của số đông khách thể về một vấn đề nào đó, và yêu cầu khách thể đánh dấu (X) vào phương án trả lời phù hợp nhất với quan điểm của họ (cho các câu hỏi kín) hoặc đưa ra ý kiến chủ quan (cho các câu hỏi mở), nhằm nghiên cứu một hiện tượng, vấn đề tâm lý nào đó.

3.2.2. Yêu cầu của điều tra

- Các câu hỏi đưa ra cần được thiết kế ngắn gọn, dễ hiểu, cách biểu đạt rõ ràng phù hợp với trình độ của khách thể.

- Cần tạo ra được ở khách thể sự sẵn sàng cung cấp thông tin mà nhà nghiên cứu quan tâm (tạo ra sự hiểu biết tin tưởng lẫn nhau).

- Việc hướng dẫn điền vào bảng hỏi phải tỉ mỉ và theo một cách thức nhất định.

- Trước khi triển khai trên quy mô lớn, cần phải chọn mẫu để điều tra mẫu nhằm xác định độ trung thực của câu hỏi và chuẩn bị chu đáo cho việc tiến hành (từ bảng hỏi đến ngân sách).

- Cần kết hợp cả câu hỏi kín và câu hỏi mở trong phiếu điều tra: câu hỏi kín là câu hỏi mà các phương án trả lời đã được thiết kế sẵn, người trả lời chỉ việc đánh dấu (x) vào phương án trả lời phù hợp nhất với quan điểm của họ. Câu hỏi mở là câu hỏi mà khách thể tự đưa ra phương án trả lời cho các vấn đề đặt ra.

3.2.3. Các loại điều tra

- Điều tra trực tiếp: Nhà nghiên cứu trực tiếp thiết kế bảng hỏi và trực tiếp phát phiếu điều tra, thu hồi phiếu và xử lý kết quả nhận được.

- Điều tra gián tiếp: Nhà nghiên cứu có thể nhờ người điều tra (phân phát và thu hồi phiếu điều tra) hoặc điều tra qua thư tín, báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng khác.

3.2.4. Ưu và nhược điểm của phương pháp điều tra

* Ưu điểm:

- Trong thời gian ngắn mà nghiên cứu được nhiều đối tượng.

- Thông tin thu được khá phong phú, đa dạng về đối tượng nghiên cứu.

* Nhược điểm:

- Tốn kém về mặt kinh tế.

- Khó tạo ra được sự tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau giữa người nghiên cứu với khách thể, vì vậy họ có thể không trả lời hoặc trả lời không đúng với những gì họ suy nghĩ.

- Độ chính xác của thông tin không cao, thông tin rất đa dạng, phong phú vì thế khó xử lý.

- Kết quả nhận được mang tính chủ quan cao, vì thông tin thu được phụ thuộc vào trình độ thiết kế các câu hỏi của nhà nghiên cứu.

Phương pháp điều tra được sử dụng khá phổ biến trong nghiên cứu các phẩm chất tâm lý của nhà kinh doanh, đặc điểm của phong cách lãnh đạo, phong cách giao tiếp của họ. Phương pháp này còn dùng để nghiên cứu tâm lý của người lao động như: động cơ, nhu cầu, sự thoả mãn lao động, đồng thời là công cụ để nghiên cứu tâm lý khách hàng rất có hiệu quả.

3.3. Phương pháp phỏng vấn

3.3.1. Định nghĩa

Phỏng vấn là phương pháp thu thập thông tin bằng cách hỏi và trả lời trực tiếp giữa người phỏng vấn và khách thể về một hoặc một số vấn đề tâm lý nào đó, phục vụ mục đích nghiên cứu.

Ví dụ: Phỏng vấn ý kiến của các tầng lớp nhân dân về luật thuế giá trị gia tăng, nhằm giúp Nhà nước đưa ra chủ trương, chính sách hợp lý hơn để thúc đẩy sự phát triển sản xuất.

3.3.2. Yêu cầu của phỏng vấn

- Cần đưa ra được mục đích, chương trình và kế hoạch phỏng vấn cụ thể.

- Người phỏng vấn cần hiểu rõ vấn đề phỏng vấn.

- Cần tạo ra được sự tin tưởng giữa người phỏng vấn và khách thể nhằm thu được những ý kiến trung thực nhất.

- Câu hỏi đặt ra phải ngắn gọn, dễ hiểu và phù hợp với trình độ và lứa tuổi của khách thể.

- Phải chuẩn bị tốt các phương tiện để ghi nhận các thông tin nghiên cứu.

3.3.3. Các loại phỏng vấn

- Phỏng vấn phi tiêu chuẩn hoá: tự do hỏi không theo trình tự.

- Phỏng vấn tiêu chuẩn hoá: Phỏng vấn theo trình tự nội dung của câu hỏi đã được chuẩn bị trước.

- Phỏng vấn sâu: thường tập trung vào một vấn đề cụ thể nhằm làm sáng tỏ hoặc chứng minh cho vấn đề đặt ra.

3.3.4. Ưu và nhược điểm của phỏng vấn

* Ưu điểm:

- Dễ tiến hành.

- Thông tin thu được tương đối toàn diện, thông tin này không chỉ các vấn đề cần nghiên cứu, mà còn cả những thông tin phi ngôn ngữ giúp nhà nghiên cứu đánh giá khách quan hơn kết quả nhận được (nét mặt, điệu bộ, cử chỉ…).

* Nhược điểm:

- Mất nhiều thời gian cho việc tiến hành nghiên cứu.

- Số lượng người được phỏng vấn thường không nhiều, do đó thông tin nhận được có tính khái quát không cao.

- Kết quả phỏng vấn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và năng lực của người phỏng vấn (tính chất chủ quan nhiều).

- Người phỏng vấn cần có kiến thức và am hiểu về vấn đề nghiên cứu (không phải ai cũng làm được).

Phỏng vấn được áp dụng rất rộng rãi trong tâm lý học quản trị kinh doanh nhằm tìm hiểu động cơ, nhu cầu, thái độ của người lao động, nghiên cứu các phẩm chất nhân cách của nhà kinh doanh hoặc nghiên cứu sở thích, nhu cầu, hứng thú của khách hàng đối với sản phẩm quảng cáo.

3.4. Phương pháp thực nghiệm

3.4.1. Định nghĩa

Thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu mà nhà nghiên cứu chủ động tạo ra các điều kiện để kiểm tra một giả thuyết được đưa ra từ trước bằng cách thay đổi có chủ định các điều kiện đó.

Ví dụ: Nhà nghiên cứu có thể lấy ánh sáng, tiếng ồn làm điều kiện thực nghiệm (tăng hoặc giảm), để nghiên cứu sự ảnh hưởng của chúng tới tâm lý và năng suất của người lao động.

3.4.2. Yêu cầu của phương pháp thực nghiệm

- Cần có giả thuyết thực nghiệm cụ thể: Nghiên cứu cái gì? Cách tạo ra hiện tượng cần nghiên cứu như thế nào?

- Các nhà thực nghiệm cần tạo ra được các tình huống cần thiết và có thể thay đổi được chúng để làm nảy sinh hiện tượng tâm lý nghiên cứu.

- Các nhà thực nghiệm cần kiểm soát dược tình huống, họ có thể đánh giá các phản ứng của khách thể một cách kỹ lưỡng, có các nhóm đối chứng để khẳng định vấn đề nghiên cứu.

- Các nhà thực nghiệm có quyền quyết định các cá nhân nào tham gia vào các nhóm thực nghiệm hay nhóm đối chiếu.

Ví dụ: Có thể chia các nhóm thực nghiệm theo lứa tuổi hoặc giới tính, nghề nghiệp khác nhau để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý.

- Thực nghiệm cần bảo đảm nguyên tắc lặp lại được kết quả nghiên cứu.

3.4.3. Phân loại thực nghiệm

+ Căn cứ vào điều kiện tiến hành: ta có thực nghiệm trong phòng thí nghiệm hay thực nghiệm tự nhiên.

- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là thực nghiệm được tiến hành trong điều kiện nhân tạo do người tiến hành thực nghiệm đặt ra.

- Thực nghiệm tự nhiên là thực nghiệm được tiến hành trong điều kiện tự nhiên, nhằm kiểm tra một giả thiết nào đó. Ví dụ: Nghiên cứu động cơ mua sắm của khách hàng ở các đại lý, siêu thị, cửa hàng…

+ Căn cứ vào kiểu thiết kế thực nghiệm, người ta chia làm ba loại:

- Kiểu thiết kế nhóm độc lập (bao gồm nhóm ngẫu nhiên, nhóm ghép, nhóm tự nhiên).

- Kiểu thiết kế trên một khách thể (một khách thể).

- Các thiết kế phức tạp có hai biến số độc lập trở lên được nghiên cứu cùng một lúc.

3.4.4. Ưu và nhược điểm của thực nghiệm

* Ưu điểm:

- Nếu tiến hành kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác, thì cho ta kết quả nghiên cứu khách quan hơn.

- Cho phép tiến hành nghiên cứu được nhiều hiện tượng tâm lý trong cùng một lúc.

- Có thể kiểm tra lại kết quả bằng cách nhắc lại thực nghiệm.

* Nhược điểm

- Tốn nhiều thời gian và tài chính (đặc biệt là thực nghiệm trong phòng thí nghiệm).

- Kết quả nghiên cứu mang tính chủ quan cao, tức là phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của người tiến hành thực nghiệm (thiết kế chương trình và xử lý kết quả).

Ví dụ: Trong tâm lý học quản trị kinh doanh, người ta có thể dùng người dẫn chương trình quảng cáo khác nhau, với cách thức quảng cáo khác nhau rồi đánh giá kết quả, so sánh kết quả để nghiên cứu sự ảnh hưởng của cách thức và nhân cách người quảng cáo tới tâm lý người tiêu dùng, hoặc tổ chức trưng bày triển lãm sản phẩm chuyên ngành, là dạng thực nghiệm tự nhiên để nghiên cứu tâm lý người tiêu dùng rất phổ biến.

3.5. Phương pháp toạ đàm

3.5.1. Định nghĩa

Toạ đàm là phương pháp trao đổi thông tin trực tiếp giữa người nghiên cứu và khách thể, nhằm nghiên cứu một vấn đề hoặc hiện tượng tâm lý nào đó. Khác với phỏng vấn, ở đây người nghiên cứu và khách thể thay phiên nhau hỏi và trả lời.

Ví dụ: Nhà nghiên cứu toạ đàm, trao đổi với tập thể sản xuất về vấn đề nào đó (nhóm khách thể có thể toạ đàm về vấn đề, cách giải quyết xung đột trong tập thể sản xuất).

3.5.2. Yêu cầu toạ đàm

- Nhà nghiên cứu khi tiến hành toạ đàm, cần đưa ra mục đích, kế hoạch và nhiệm vụ rõ ràng.

- Cần tạo được bầu không khí tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau giữa người nghiên cứu và khách thể, để có được các câu trả lời mang tính khách quan và trung thực hơn.

- Cần chuẩn bị tốt các phương tiện, kỹ thuật ghi chép thông tin (ghi âm, quay phim).

- Nơi tiến hành toạ đàm cần có đủ điều kiện, tiện nghi, thoải mái và tương đối yên tĩnh thì kết quả toạ đàm sẽ tốt hơn.

- Nhà nghiên cứu cần biết cách hướng dẫn và điều khiển toạ đàm theo mục tiêu đã định trước.

3.5.3. Phân loại toạ đàm

+ Căn cứ theo tính chất toạ đàm, có thể phân ra làm:

- Toạ đàm cá nhân: giữa cá nhân với cá nhân.

- Toạ đàm tập thể: giữa người nghiên cứu với tập thể sản xuất kinh doanh.

+ Căn cứ theo nội dung toạ đàm:

- Toạ đàm sản xuất.

- Toạ đàm về đời sống.

- Toạ đàm kí kết hợp đồng…

3.5.4. Ưu và nhược điểm của toạ đàm

* Ưu điểm

- Dễ tiến hành, chi phí ít.

- Thông tin thu được khá phong phú và đa dạng (thông tin ngôn ngữ và phi ngôn ngữ).

- Có thể sử dụng để nghiên cứu nhiều đặc điểm và thuộc tính tâm lí khác nhau.

* Nhược điểm:

- Thông tin thu được mang tính chất định tính, nhiều hơn định lượng do đó khó xử lý.

- Nhà nghiên cứu cần có trình độ, hiểu biết về vấn đề nghiên cứu, kinh nghiệm và kỹ năng tiến hành toạ đàm và xử trí các tình huống phát sinh.

- Số lượng khách thể thường không nhiều, do đó tính khái quát ra thông tin thu được không cao.

Trong tâm lý học quản trị kinh doanh, việc hiểu biết và sử dụng yếu tố tâm lý trong toạ đàm là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Thông qua toạ đàm, có thể nắm được tâm lý, tình cảm, mức độ thoả mãn lao động, tiền lương của người lao động, từ đó có thể thúc đẩy, động viên họ lao động hết mình cho tổ chức.

3.6. Phương pháp trò chơi và giải quyết tình huống trong quản trị kinh doanh

3.6.1. Định nghĩa

Phương pháp trò chơi là sự mô phỏng, tái tạo các tình huống trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, với mục đích tiếp thu, vận dụng tri thức tâm lý trong thực tế và hình thành kỹ năng, kỹ xảo thực hành cần thiết, nhằm đào tạo và nâng cao trình độ cho các nhà kinh doanh trong các doanh nghiệp.

Ví dụ: đưa ra tình huống sản xuất kinh doanh cụ thể nào đó, yêu cầu những người chơi đưa ra các giải pháp cụ thể cho tình huống đó, từ đó phân tích và đánh giá các giải pháp của từng thành viên kết thúc trò chơi, nhà nghiên cứu tổng kết và đưa ra giải pháp tốt nhất cho tình huống.

3.6.2. Yêu cầu của phương pháp trò chơi

- Cần có những người tham gia trò chơi (đóng vai người lao động hoặc nhà quản lý…). Nhiệm vụ của họ là phân tích tình huống và đưa ra giải pháp phù hợp với từng vai của họ (được phân công).

- Có người điều hành trò chơi, nhiệm vụ của họ là đưa ra tình huống, phân tích các giải pháp của người chơi và thực hiện nó.

- Tạo ra các tình huống xác định, người chơi cần phân tích được tình huống và đưa ra giải pháp.

- Tạo ra được tính không xác định trong các tình huống đưa ra, buộc người chơi phải suy nghĩ

- Tình huống đưa ra phải sinh động, có thể thay đổi được và các yếu tố đưa ra có sự phụ thuộc lẫn nhau một cách lôgíc.

- Thảo luận và đánh giá trong nhóm về các giải pháp đưa ra, trên cơ sở đó đưa ra được giải pháp chung tốt nhất.

3.6.3. Phân loại

Thường người ta phân ra làm ba loại trò chơi:

- Trò chơi tình huống: là trò chơi được tiến hành trong phòng làm việc hoặc ở lớp dựa trên lý thuyết đã học, nhằm giải quyết những tình huống bằng ngôn ngữ (người chơi chỉ chuẩn bị kiến thức lý luận).

- Trò chơi trên mô hình: là mô phỏng các tình huống sản xuất kinh doanh có thực và các giải pháp được đưa ra dựa trên mô hình đó.

- Trò chơi tự nhiên: được tiến hành trong điều kiện thực tế của hoạt sản xuất kinh doanh (trong phân xưởng sản xuất hay tổ sản xuất).

3.6.4. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp trò chơi

* Ưu điểm:

- Đây là phương pháp dễ sử dụng, là sự thể hiện trên thực tế nguyên tắc học đi đôi với hành, vì thế gây được hứng thú cho người học.

- Có thể hình thành các kỹ năng và kỹ xảo kinh doanh thông qua việc giải quyết các tình huống thực tế.

- Củng cố và trang bị các kiến thức thực tiễn, tổng hợp về sản xuất kinh doanh cho người học.

* Nhược điểm

- Cần chuẩn bị công phu, chi tiết và cụ thể cho việc tạo ra tình huống hoặc điều kiện cho cuộc chơi.

- Số lượng người tham gia trò chơi thường không nhiều vì thế tính cái quát của thông tin nhận được không cao.

- Người điều hành trò chơi phải là các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm, có kiến thức sâu về tâm lý học và khoa học quản trị kinh doanh.

- Đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của người tham gia trò chơi. Nếu người chơi không tích cực, nhiệt tình thực hiện các vai diễn, thì không mang lại kết quả.

Trong Tâm lý học quản trị kinh doanh, phương pháp trò chơi được áp dụng rộng rãi, để đào tạo và rèn luyện các kỹ năng cho cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh.

3.7. Phương pháp trắc nghiệm (test, bài tập, thử,…)

3.7.1. Định nghĩa

Đây là phương pháp nghiên cứu các đặc điểm, phẩm chất tâm lý nhân cách, thông qua việc giải quyết một số bài tập hoặc vấn đề cụ thể đã được lượng hoá.

Ví dụ: Phương pháp này được áp dụng để đánh giá trình độ năng lực của nhân cách nhà kinh doanh, người lao động về trí tuệ (IQ), trí tuệ cảm xúc (EQ), năng lực sáng tạo (CQ).

3.7.2. Yêu cầu của trắc nghiệm

- Cần hiểu được đặc điểm tâm lý xã hội của khách thể trắc nghiệm để đưa ra các bài tập phù hợp với trình độ và năng lực và văn hoá của họ.

- Trắc nghiệm cần được chuẩn hoá bằng cách mời các chuyên gia giỏi, có trình độ đảm nhiệm thiết kế hoặc đánh giá.

- Cần xác định rõ mục đích, kế hoạch nghiên cứu và đưa ra được các tiêu chuẩn trắc nghiệm khoa học.

- Cần chuẩn bị chu đáo về phương tiện, công cụ tiến hành trắc nghiệm (máy ảnh, máy ghi âm, vi deo,…).

3.7.3. Phân loại trắc nghiệm

Có rất nhiều loại trắc nghiệm khác nhau trong tâm lý học, nhưng thông thường trắc nghiệm được phân ra làm hai loại là: trắc nghiệm xã hội và trắc nghiệm chung.

- Trắc nghiệm xã hội: nhằm xác định mức độ phát triển của các mối quan hệ liên nhân cách giữa các thành viên trong nhóm, để từ đó lựa chọn cán bộ quản lý, sắp xếp người lao động hợp lý trong doanh nghiệp.

- Trắc nghiệm chung: nhằm để xác định một phẩm chất hoặc thuộc tính tâm lý nào đó của nhân cách. Ví dụ: trí tuệ, năng lực, độ nhạy cảm, chỉ số thông minh, trí nhớ… để giúp cho việc tuyển chọn người lao động hoặc phân công lao động cho phù hợp với năng lực và sở trường của họ.

3.7.4. Ưu và nhược điểm của trắc nghiệm

* Ưu điểm:

- Cho ta thông tin tương đối khách quan, trung thực về đối tượng nghiên cứu, vì nó hạn chế được các thông tin gây nhiễu.

- Tương đối dễ áp dụng, và nếu phối hợp với các phương pháp nghiên cứu khác thì cho kết quả khách quan hơn.

- Có thể tiến hành nghiên cứu trong một thời gian ngắn với nhiều đối tượng.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý kết quả nghiên cứu bằng các phương pháp thống kê toán học (so với thực nghiệm).

* Nhược điểm:

- Kết quả nhận được mang tính chất chủ quan cao, phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của chuyên gia thiết kế trắc nghiệm.

- Chi phí cho trắc nghiệm khá tốn kém về mặt kinh tế.

- Thông tin thu được rất phong phú và da dạng, do đó khó xử lý.