Về sơ đồ tổ chức nhà nước đế chế ở La Mã

MỞ ĐẦUNhà nước La Mã là một trong những nền văn minh lớn và phát triển nhấtcủa thế giới cổ đại phương Tây. Nó có một quá trình phát triển lâu dài, có cơ sởthiết lập và các hình thức chính thể, cơ cấu tổ chức bô máy nhà nước riêng, rấtkhác so với các nhà nước khác ở phương Tây. Để hiểu rõ về vấn đề này, nhóm emxin chọn đề tài: “ Phân tích cơ sở thiết lập và cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước LaMã qua các thời kì lịch sử”.NỘI DUNGI. Cơ sở thiết lập nhà nước La Mã.1. Cơ sở kinh tếVề điều kiện tự nhiên, La Mã cổ đại được hình thành trên bán đảo Italiamột dải đất dài và hẹp giống hình chiếc ủng vươn dài từ lục địa ra biển Địa TrungHải với diện tích khoảng 300.000 km 2. Phía bắc bán đảo có dãy núi Alpes-mộtbiên giới tự nhiên ngăn cách Ý với châu Âu; ba phía tây, nam và đông đều tiếpgiáp với biển. Chính vị trí địa lí này đã tạo điều kiện thuận lợi cho La Mã tiếp thunhiều luồng văn minh đông, tây Địa Trung Hải và Bắc Phi. Đồng thời, bán đảoItalia cũng là khu vực có địa hình bằng phẳng, không bị chia cắt, nhiều đồng bằngrộng lớn, màu mỡ, nhiều đồng cỏ và có nhiều kim loại như đồng, chì, sắt… thuậnlợi phát triển đa dạng các ngành kinh tế như nông nghiệp và thủ công nghiệp. Mặcdù bờ biển phía đông không thuận lợi cho thuyền bè đi lại nhưng bờ biển phía namlại có nhiều vũng vịnh và cảng tốt, do đó có quan hệ sớm với Hy Lạp. Đây chính làđiều kiện quan trọng để La Mã phát triển thương nghiệp từ rất sớm, đặc biệt là mậudịch hàng hóa. Như vậy, có thể nhận thấy, La Mã có khá nhiều điều kiện thuận lợiđể phát triển kinh tế cả về nông nghiệp, thủ công nghiệp lẫn thương nghiệp. Có thểnói, La mã là nước có nền kinh tế hàng hóa giản đơn phát triển nhất thời kì cổ đạivà nền kinh tế hàng hóa tiền tệ (cổ điển) đã xuất hiện từ rất sớm trong nền kinh tếcủa người La Mã cổ đại được xem như tiền đề tạo nên những đặc trưng của chế độchiếm hữu nô lệ điển hình của quốc gia này. Chính cơ sở kinh tế này là nguyên1nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ tư hữu tài sản đồng thời là yếu tố quyết định cơcấu tổ chức bộ máy nhà nước và hình thức chính thể nhà nước La Mã sau này.2. Cơ sở xã hội:Do sự phát triển về kinh tế, đặc biệt là sự phát triển từ rất sớm của lực lượngsản xuất, khoảng thế kỉ IX người dân đã biết sử dụng thành thạo công cụ bằng sắtlàm cho năng suất, hiệu quả lao động, nhu cầu và giá trị sức lao động ngày càngtăng lên, cùng với đó là việc thương buôn bán cung diễn ra thuận lợi. Đây chính lànguyên nhân dẫn đễn chế độ tư hữu tài sản (đặc biệt là về ruộng đất) khiến cho sựphân hóa xã hội diễn ra sâu sắc, các giai cấp được hình thành một cách rõ rệt. Thứnhất là giai cấp chủ nô. Giai cấp này phân hóa thành hai bộ phận: quý tộc chủ nô(chủ nô cũ có tư tưởng bảo thủ, lạc hậu) và chủ nô công thương (chủ nô mớinhững thương nhân buôn bán hoặc những chủ xưởng thủ công có nhiều của cảitrong tay có tư tưởng dân chủ, tiến bộ). Thứ hai là giai cấp bình dân gồm nôngdân, thợ thủ công…cũng bị phân hóa thành hai bộ phận: dân thuộc gốc La Mã (cóhuyết thống người La Mã) và ngoại kiều (không có huyết thống La Mã – giai cấpnhìn chung không được coi trọng). Cuối cùng là giai cấp nô lệ. Họ là những ngườixuất thân nghèo khổ, phải bán mình cho các chủ nô hoặc là không trả được nợ,hoặc là tù binh bị bát trong chiến tranh…Nói chung, đây là bộ phận chiếm số đôngtrong thành phần dân cư, có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế La Mã nhưnghọ lại rất khổ, được coi là những công cụ biết nói của chủ nô. Chính sự phân hóatrên đã dẫn đến những mâu thuẫn trong xã hội La Mã mà chủ yếu là mâu thuẫngiữa chủ nô và nô lệ. Mâu thuẫn này vô cũng gay gắt và quyết liệt đến khi khôngthể điều hòa được thì nhà nước đã ra đời- nhà nước La Mã.Bên cạnh hai tiền đề cơ sở vật chất chín muồi là kinh tế và xã hội thiết lậpnhà nước La Mã, cuộc chinh phục và chống chinh phục đất đai của hai tộc ngườiÊtơrútxcơ và người La Mã cũng là yếu tố thúc đẩy sự ra đời của nhà nước này.II. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước La Mã qua các thời kì lịch sử.1. Thời kì cộng hòa (từ thế kỉ VI TCN đến năm 27 TCN):2Theo truyền thuyết, thành Roma do Romullus xây dựng vào năm 753 TCNtrên bờ sông Tibres thuộc miền trung bán đảo Italia, nơi quần cư của 3 bộ lạcngười Latin. Khoảng giữa thế kỷ VI TCN, sau cuộc cải cách của Xecviut Tuliut,nhà nước La Mã mới chính thức ra đời. Tuy vậy, cơ cấu bộ máy Nhà nước cộnghòa La Mã được hình thành dần dần suốt mấy thế kỷ, cho đến thế kỷ III TCN mớihoàn chỉnh. Năm 510 TCN, sau khi người Roma lật đổ Rex Tarquin kiêu ngạo, LaMã bước vào thời kỳ Cộng hòa. Quản lý xã hội thị tộc của người Roma thời kỳ nàygồm 4 cơ quan: Viện nguyên lão, Cơ quan hành pháp, Viện giám sát và Đại hộicông dân. Cách tổ chức nhà nước như thế đã thể hiện sâu sắc tính chất quý tộc củanền cộng hòa La Mã.Viện nguyên lão (cơ quan quyền lực nhà nước): có quyền quyết định nhữngvấn đề lớn của đất nước. Cơ quan này được phát triển từ hình thức hội nghị trưởnglão thời công xã nguyên thủy, được chọn trong hàng ngũ quý tộc giàu sang, có thếlực và đã từng giữ những chức quan cao cấp do đại hội Xăng tu ri bầu ra. Số lượngngười của Viện nguyên lão từ 300 đến 600 vị và thế kỷ III TCN là 900 vị. Thời kỳnày, tuy không phải là cơ quan tòa án và tư pháp, nhưng Viện nguyên lão có quyềnmở phiên tòa, điều tra sơ bộ các vụ án, giải thích luật pháp, kiến nghị xây dựngnhững luật mới. Ngoài ra, Viện nguyên lão có quyền phê chuẩn những quan lại caonhất mới được bầu ra quản lí tài sản của Nhà nước bầu ra và chỉ đạo việc thực hiệnchính sách đối nôi, đối ngoại, trông coi cả những việc tôn giáo.Cơ quan hành pháp bao gồm: hội đồng quan chấp chính (do đại hội Xăng turi bầu ra với nhiệm kì 1 năm) là chức vị cao cấp trong hàng ngũ quan lại, có quyềnrất lớn về quân sự, dân chính, có quyền triệu tập đại hôi viện nguyên lão và đại hộinhân dân, chỉ đạo những quyết nghị của Viện nguyên lão và đại hội nhân dân, sathải quan lại cấp dưới; và hội đồng quan án (cũng do đại hội Xăng tu ri bầu ra)chuyên giải quyết các vấn đề về hình sự và dân sự. Khi Hội đồng chấp chính vắngmặt thì Hội đồng quan án đảm nhiệm thêm thẩm quyền của quan chấp chính.Tầng lớp bình dân giàu và nghèo còn bầu ra Viện giám sát (Viện quan bảodân) để bảo vệ quyền lợi cho mình (lúc đầu gồm 2 người, sau tăng lên 7 người và3cuối cùng là 10 người). Viện này có quyền phủ quyết những quyết nghị của Việnnguyên lão; bắt giữ và lấy phúc cung những nhân viên, quan lại nhà nước. Tuynhiên, quyền lực của quan bảo dân chỉ hạn chế ở thành phố, chưa có quyền lựcquân sự và phải ngừng hoạt động ở những thời kì sau này.Đại hội công dân gồm: đại hội Xăng tu ri (đai hội theo đơn vị của quân độicủa các đẳng cấp) có quyền hành lớn; và đại hội nhân dân chỉ mang tính hình thứcdo bị các quan lại cấp cao khống chế.2. Thời quân chủ chuyên chế (từ năm 27 TCN đến thế kỉ V SCN):Một điều rất đặc biệt ở La mã cổ đại là có sự thay thế hình thức chính thểnhà nước từ nền cộng hòa quý tộc chủ nô bằng chình thể quân chủ chuyên chế chủnô. Nguyên nhân của sự kiện lịch sử này là kết quả của thời kì suy vong và sụp đổcủa chế độ chiếm hữu nô lệ, khi mà vai trò điều hòa các mâu thuẫn xã hội của nhànước cộng hòa quý tộc chủ nô không còn phát huy được nữa thì sự ra đời của đếquốc La Mã cổ đại như là tất yếu lịch sử. Tháng 1 năm 27 TCN, Octavian đượcviện nguyên lão tôn lên làm Augustus (người mang địa vị tối cao hoặc thiêngliêng). Như vậy, Octavian trở thành vị hoàng đế La Mã đầu tiên và thời đại đế quốcLa Mã bắt đầu. Hoàng đế có uy quyền về tất cả các lĩnh vực quân sự, dân sự và tôngiáo. Về quân sự, ông tiến hành các cải cách quân sự: giảm số lượng các quân đoànquân sự từ 50 xuống 28, cắt cử những người trung thành tuyệt đối với mình vàocác quân đoàn ấy…Về hành chính, các tỉnh khó kiểm soát sẽ được điều hành bởinhững người do Augustus lựa chọn. Viện nguyên lão chỉ quyết định những ngườiđiều hành ở các tỉnh yên bình hơn. Về mặt tài chính, trước khi viện nguyên lãokiểm soát ngân khố, Augustus định ra rằng tiền thuế từ các tỉnh của hoàng đế sẽđược chuyển vào Fiscus (một ngân khố riêng của hoàng đế). Điều này khiến choAugustus giàu hơn cả Viện nguyên lão và dư dả tiển bạc để đảm bảo sự trung thànhcủa binh lính.Tuy nhiên chế độ chuyên chế ở phương Tây nói chung, ở La Mã nóiriêng không giống như ở phương Đông. Hoàng đế không là đấng tối cao quyền uytuyệt đối như ở phương Đông. Cụ thể ở La Mã tuy Viện nguyên lão không còn giữvai trò như trước và chỉ là vỏ bọc nhưng vẫn giữ vai trò nhất định trong bộ máy4nhà nước. Chẳng hạn, Viện nguyên lão vẫn có quyền cắt cử những người điều hànhở các tỉnh, có quyền kiểm soát ngân khố, có quyền bầu để lựa chọn hoàng đế…KẾT LUẬNNhư vậy, quy luật hình thành nhà nước ở La Mã trùng khít với quy luật hìnhthành nhà nước nói chung. Nếu như phương Đông, hình thức chính thể chỉ là quânchủ chuyên chế thì ở La Mã nói riêng, ở phương tây nói chung, hình thức chính thểlại rất đa dạng. chình hình thức chính thể này, đã quy đinh bộ máy nhà nước của LaMã qua từng thời kì có những đặc điểm khác nhau.5

Cơ cấu tổ chức và hoạt động của nhà nước đế chế ở La Mã cổ đại gồm: • Hoàng đế thâu tóm tất cả các quyền lực • Quyền lực nằm trong tay 300 thành viên của Viện Nguyên lão chỉ là hình thức • Nhà nước thời đế chế thực chất vẫn là nền quân chủ khoác áo cộng hòa

Dựa vào sơ đồ trên, hãy trình bày tổ chức nhà nước đế chế ở La Mã

Bài làm:

Tổ chức nhà nước đế chế ở La Mã:

- Theo truyền thuyết, thành Roma do Romullus xây dựng vào năm 753 TCN trên bờ sông Tibres thuộc miền trung bán đảo Ý, nơi quần cư của 3 bộ lạc người Latin. Mỗi bộ lạc này bao gồm 100 thị tộc, cứ 10 thị tộc được gọi là một Curi (bào tộc). Các thành viên của các thị tộc này đều có quyền bình đẳng với nhau về kinh tế, chính trị và được gọi là công dân Roma.

- Quản lý xã hội thị tộc của người Roma thời kỳ này là 3 cơ quan: Đại hội nhân dân (Curi), Viện nguyên lão (Senat) và "Hoàng đế" (Rex).

+ Đại hội nhân dân: được coi là đại hội cổ xưa nhất của người Roma. Thành viên của Đại hội này gồm tất cả đàn ông của 300 thị tộc, mỗi người đại diện cho một lá phiếu quyết định những vấn đề quan trọng như tuyên chiến hay nghị hòa, xét xử, tế lễ và bầu ra một Hoàng đế (Rex).

+ Viện nguyên lão: gồm 300 người là những thủ lĩnh của 300 thị tộc. Là cơ quan quyền lực tối cao, quyết định hầu hết các công việc quan trọng của người Roma, được quyền thảo luận trước về những đạo luật, quyền phê chuẩn hoặc phủ quyết những nghị quyết của Đại hội nhân dân.

+ Hoàng đế (Rex): Do Đại hội nhân dân và Viện nguyên lão bầu ra, không được cha truyền con nối và có thể bị Đại hội nhân dân bãi nhiệm. Thực chất, Rex chỉ là thủ lĩnh quân sự của 3 bộ lạc, là tăng lữ tối cao và xét xử những vụ kiện trong nội bộ.

Cập nhật: 07/09/2021