Vì sao chí phèo có hành đọng dữ dội

   Có ý kiến cho rằng Nếu không viết “Chí Phèo”, Nam Cao đã để lại cho Văn học Việt Nam một khoảng trống lớn. Chí Phèo là tác phẩm đầu tay của Nam Cao trình làng với bạn đọc, ngay từ khi xuất hiện nó đã trở thành một vấn đề, một kiệt tác của trào lưu văn học hiện thực. Đây là tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân bởi đến đây người đọc mới hiểu thế nào là tận cùng nỗi khổ của người nông dân Việt Nam trong xã hội phong kiến, nếu như ở những tác phẩm của các nhà văn hiện thực khác: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan... hình ảnh người nông dân chỉ hiện lên với những áp bức bất công, bị dồn đến bước đường cùng, nhưng họ vẫn còn giữ được con người mình, nhưng đến với Nam Cao thì đã có những khám phá phát hiện mới mẻ, ông không chỉ phát hiện ra bi kịch bị bần cùng hóa mà còn khám phá phát hiện ra bi kịch bị lưu manh tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân.

   Mở đầu trang văn, Nam Cao đã để cho Chí Phèo xuất hiện bằng một hình ảnh hết sức sống động độc đáo, Chí Phèo khập khưỡng vừa đi vừa chửi; tiếng chửi của Chí Phèo ngay lập tức cho người đọc hình dung về một sự việc bất bình thường. Vì lẽ gì mà một con người phải cất lên những tiếng chửi như vậy? Tại sao những tiếng chửi đó lại không được đáp trà..? Nhưng chúng ta sẽ thấy tiếng chửi này không phải là bâng quơ, không đơn giản mà nó rất logic, rất có dụng ý, ban đầu hắn chửi trời đến chửi đời rồi chửi ngay tất cả làng Vũ Đại nhưng đối tượng của những tiếng chửi này là mơ hồ không xác định đến khi hắn chửi không biết đứa nào đã đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế này thì đối tượng đã được xác định. Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến bi kịch của bản thân. Nhưng ngay lập tức hắn hiểu rằng tiếng chửi của hắn là vô vọng, hắn thấy thấm thía nông nổi khốn khổ của số phận, hắn đã phải cất tiếng chửi để thèm mong có ai đó chửi lại hắn, để hắn có thể được giao tiếp với đời, với người. Vậy mà không người nào chịu chửi lại hắn, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, là còn bằng lòng giao tiếp đối thoại với hắn. Chí chửi cả làng Vũ Đại với hi vọng sẽ có ai đó chửi lại. Nhưng hắn chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, và Chí vẫn còn lại một mình Chí trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu...

   Bằng cách mở đầu chuyện độc đáo thế này, tác giả không chỉ giới thiệu mà còn bắt đầu hé mở cho người đọc thấy tình trạng bi đát của một số phận, đó là số phận người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người Nỗi thống khố của Chí Phèo ban đầu tất cả là con số không: không nhà, không cửa, không mẹ cha, không họ hàng thân thích, không một tấc đất cắm dùi... nhưng đó mới chỉ là mở đầu; nỗi khổ đau đớn nhất của Chí Phèo là bị cả xã hội quay lưng lại, bị cướp mất linh hồn người, bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật.

   Từ quá khứ đến hiện tại, từ bản chất đến hiện tượng Chí Phèo đã biến đổi. Trong quá khứ Chí Phèo là một con người hiền như cục đất, có bản chất lương thiện, từ khi vào làm canh điền cho nhà Bá Kiến, rồi bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau 7-8 năm ở tù ra, Chí Phèo đã bị biến đổi cả nhân hình lẫn nhân tính. Từ đây, Chí Phèo đã rơi vào vô thức và bị lưu manh tha hóa, tất cả mọi hành động của Chí đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong vô thức: đâm thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ... Những tội ác của Chí cứ chất đầy lên trong con mắt người dân làng Vũ Đại.

   Tưởng như số phận cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa và rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi; nhưng sự xuất hiện của Thị Nở đã đưa Chí Phèo từ vực sâu của kiếp sống lưu manh tha hóa đến bến bờ của cõi đời lương thiện. Đây có thể xem là một sự kiện trọng đại, một biến cố mở ra một bước ngoặt của cuộc đời Chí Phèo, đưa Chí Phèo trở lại với kiếp người. Sự xuất hiện của Thị Nở cùng với bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm và tình người nhân hậu, người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn kia lại là người duy nhất ở làng Vũ Đại biết được sao có lúc nó hiền đến thế. Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi âm của tình người nhân hậu đã làm cho con người lương thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ, thằng đầu bò đã phục sinh, giờ đây sức sống tâm hồn đã trỗi dậy trong Chí Phèo.

   Sau khi con người lương thiện phục sinh, tính cách tâm hồn con người Chí Phèo đã tỉnh dậy lắng nghe những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày mà bấy lâu nay Chí quên lãng. Chí bỗng hồi tưởng về những kỉ niệm của một thời êm đẹp: Ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm... Đáng lẽ ra hắn cũng sẽ có được một cuộc sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi hắn tỉnh dậy hắn mới thấy hắn đã già mà vần còn cô độc, hắn vẫn đang sống bên lề cuộc đời một cách khốn nạn, hắn cảm thấy buồn, hắn thấy tủi nhục. Hơn lúc nào hết, lúc này hắn mong ước được làm người, được trò chuyện...

   Nhưng những giây phút yêu đương của cuộc sống lứa đôi Chí Phèo - Thị Nở thật ngắn ngủi, hạnh phúc vừa hé mở đã khép lại. Chí Phèo và Thị Nở đã dắt tay nhau tới ngưỡng cửa cuộc đời là đại diện. Khi tỉnh dậy và đối diện với hiện thực, Chí Phèo mới giật mình và nhận thức một cách sâu sắc hơn hắn đã bị từ chối khỏi cộng đồng và không thể trở thành người lương thiện trong con mắt mọi người được nữa.

   Khi con người lương thiện trong Chí Phèo đã phục sinh thì hắn lại càng khao khát được làm người hơn bao giờ hết. Nhưng khao khát vẫn chỉ là khao khát. Như ánh cầu vồng vụt tắt sau cơn mưa, như ngọn lửa nhỏ bị dập tắt khi mới le lói sáng, khát vọng làm người của hắn đã bị cự tuyệt hoàn toàn. Chí lại trở về với sự cô độc, và đau đớn, xót xa khi nhận ra mình đã không còn đường để quay trở lại: Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này? Đây chính là sự tự ý thức cao độ của Chí Phèo về bi kịch của bản thân mình. Hình ảnh những vết mảnh chai trên mặt chính là dấu vết của những năm tháng tội đồ. Hình ảnh này đã hằn sâu trong tâm trí của người dân làng Vũ Đại và trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với họ. Trong con mắt của mọi người. Chí Phèo là con quỷ dữ, thằng đầu bò và hình ảnh đó không thể tẩy xóa đi được nữa. Chính định kiến của môi trường thế sự đã ngăn cản bước chân của Chí Phèo tìm về với cõi đời lương thiện.

   Hơn ai hết, Thị Nở là người đem lại cho Chí Phèo sự đồng cảm và tình người nhân hậu, nhưng chính Thị Nở cũng là người đẩy Chí Phèo đến bờ vực của cái chết. Thị vừa là phương tiện, là công cụ, lại vừa là nạn nhân của định kiến.

   Đến đây, Chí Phèo rơi vào bi kịch của sự lựa chọn giữa sự sống và nhân cách. Và cuối cùng, Chí Phèo đã tìm đến cái chết để khẳng định nhân cách của mình. Chí Phèo cầm dao đâm chết Bá Kiến – kẻ thù lớn nhất của đời mình rồi tự sát. Chí Phèo đã lựa chọn - một sự lựa chọn nghiệt ngã, nhưng đó là cách duy nhất để con người lương thiện trong Chí được sống, để nhân cách con người của hắn được tồn tại.

   Hành động tự sát của Chí Phèo là cuộc chiến đấu mạnh mẽ nhất, dữ dội nhất và là cuộc chiến đấu cuối cùng giữa con người hiền như cục đất và con quỷ dữ, thằng đầu bò. Trong cuộc quyết đấu này, Chí Phèo đã chết, nhưng nhân cách lương thiện đã trỗi dậy và tỏa sáng, đó cũng chính là chiến thắng tất yếu của cái thiện đối với cái ác, đồng thời cũng là sự thể hiện rõ ràng nhất cho tư tưởng nhân đạo và tinh thần nhân văn của ngòi bút Nam Cao.

Chí Phèo là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Tác phẩm được giới thiệu trong chương trình Ngữ Văn lớp 11.

Mobitool sẽ cung cấp tài liệu Soạn văn 11: Chí Phèo (Phần 1: Tác phẩm) đến các bạn học sinh.

1. Hoàn cảnh sáng tác

Dựa vào những cảnh thật, người thật mà Nam Cao được chứng kiến và nghe kể về làng Đại Hoàng quê mình, bức xúc trước hiện thực tàn khốc, Nam Cao viết thành truyện ngắn Chí Phèo vào tháng 2 năm 1941.

2. Tóm tắt

Truyện ngắn “Chí Phèo” là câu chuyện về nhân vật cùng tên “Chí Phèo” – một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi trong 1 cái lò gạch xa lạ. Hắn được người làng chuyền tay nhau nuôi. Lớn lên, Chí Phèo đi ở hết nhà này tới nhà nọ và làm canh điền cho Lý Kiến. Vì ghen, Lý Kiến đẩy Chí Phèo vào tù, 7 năm sau Chí Phèo trở về làng trong một bộ dạng khác hẳn của một tay anh chị. Hắn bị Bá Kiến lợi dụng và biến thành tay sai. Chí Phèo trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, chuyên vạch mặt ăn vạ và gây tai họa cho người trong làng. Mối tình với Thị Nở đã làm Chí Phèo hồi sinh, hắn khao khát làm hòa với mọi người và sống lương thiện. Nhưng bà cô Thị Nở và cái xã hội đương thời đã chặn đứng đường về “cõi người” của Chí Phèo. Tuyệt vọng, hắn tìm giết Bá Kiến và tự sát. Nghe tin Chí chết, Thị Nở nhìn xuống bụng và thầm nghĩ đến một cái lò gạch bỏ không vắng người qua lại.

Vì sao chí phèo có hành đọng dữ dội

3. Bố cục

Gồm 3 phần: 

  • Phần 1. Từ đầu đến “cả làng Vũ Đại cũng không ai biết”: Chí Phèo xuất hiện cùng tiếng chửi.
  • Phần 2. Tiếp theo đến “không bảo người nhà đun nước mau lên”: Chí Phèo mất hết nhân tính.
  • Phần 3. Còn lại): Sự thức tỉnh về ý thức bi kịch của cuộc đời Chí Phèo.

1. Hoàn cảnh, xuất thân của Chí Phèo

– Xuất thân: tứ cố vô thân, không cha không mẹ, không nhà cửa…

– Một anh nông dân hiền lành, lương thiện:

  • Chăm chỉ, thật thà: Đi ở hết nhà này đến nhà khác, cày thuê cuốc mướn để kiếm sống.
  • Mơ ước bình dị: có một ngôi nhà nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn vợ dệt vải…
  • Sống có lòng tự trọng: Bà ba – vợ Bá Kiến gọi lên đấm lưng, bóp chân, Chí chỉ cảm thấy nhục hơn là thấy thích.

=> Chí Phèo có đủ điều kiện để sống cuộc sống yên bình như bao người khác, quãng đời lương thiện của Chí kéo dài trong khoảng 20 năm đầu

2. Quá trình tha hóa của Chí Phèo

a. Chí Phèo bị bắt vào tù

  • Chí Phèo làm thuê cho nhà Bá Kiến.
  • Vì một chuyện ghen tuông không đâu, Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù.
  • Nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.

b. Sau khi ra tù

  • Ngoại hình thay đổi: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm”.
  • Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách, đến đòi nợ bá Kiến nhưng lại trở thành tay sai cho hắn.

3. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở

– Tình yêu thương mộc mạc, chân thành của Thị Nở – đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo:

  • Nhận biết được mọi âm thanh trong cuộc sống.
  • Nhận ra bi kịch trong cuộc đời của mình và sợ cô đơn, cô độc
  • Chí Phèo thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người.

– Hình ảnh bát cháo hành là hình ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý nghĩa:

  • Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Chí được ăn trong tình yêu thương và hạnh phúc.
  • Bát cháo chứa đựng tình yêu thương của thị Nở đã đánh thức phần người trong Chí.

4. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

– Nguyên nhân: Do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo (đại diện cho những định kiến trong xã hội xưa).

– Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:

  • Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
  • Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.

– Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:

  • Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.
  • Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người.

Tổng kết: 

– Nội dung: Chí Phèo là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Qua truyện ngắn này, Nam Cao khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thế xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay cả trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.

– Nghệ thuật: Xây dựng thành công nhân vật điển hình, nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tự nhiên mà nhất quán, ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc…

Câu 1. Cách vào truyện của Nam Cao độc đáo như thế nào? Hãy nêu ý nghĩa tiếng chửi của nhân vật Chí Phèo trong đoạn văn mở đầu thiên truyện.

– Nam Cao vào truyện Chí Phèo bằng tiếng chửi của Chí Phèo. Đối tượng của tiếng chửi: chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra Chí.

– Ý nghĩa của tiếng chửi:

  • Tâm trạng căm phẫn cùng cực của Chí Phèo.
  • Nhưng đó cũng là khao khát được giao tiếp với mọi người của Chí.

Câu 2. Việc gặp gỡ thị Nở đã có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc đời Chí Phèo? Những gì đã diễn ra trong tâm hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ đó.

Việc gặp gỡ thị Nở đã làm thay đổi cuộc đời Chí Phèo. Những thay đổi của Chí Phèo:

– Tình yêu thương mộc mạc, chân thành của Thị Nở – đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo:

  • Nhận biết được mọi âm thanh trong cuộc sống.
  • Nhận ra bi kịch trong cuộc đời của mình và sợ cô đơn, cô độc.
  • Chí Phèo thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người.

– Hình ảnh bát cháo hành là hình ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý nghĩa:

  • Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Chí được ăn trong tình yêu thương và hạnh phúc.
  • Bát cháo chứa đựng tình yêu thương của thị Nở đã đánh thức phần người trong Chí.

Câu 3. Phân tích diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi bị Thị Nở từ chối chung sống. Vì sao Chí Phèo có hành động thật dữ dội, bất ngờ như vậy?

– Nguyên nhân: Do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo (đại diện cho những định kiến trong xã hội xưa).

– Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:

  • Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
  • Sau khi Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.

=> Chí Phèo có hành động dữ dội, bất ngờ như vậy không phải do say rượu mà là do hiểu rõ nguồn gốc bi kịch của cuộc đời mình.

Câu 4. Qua hình tượng Chí Phèo, hãy làm rõ nghệ thuật điển hình hóa của Nam Cao.

– Nhân vật điển hình: Kiểu nhân vật được xây dựng với những nét tính cách nổi bật đại diện cho một bộ phận trong xã hội.

– Chí Phèo là hiện tượng có tính quy luật trong xã hội đương thời, là sản phẩm của tình trạng đè nén, áp bức ở nông thôn trước Cách mạng: Chí Phèo người nông dân hiền lành đã bị nhà tù thực dân biến thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.

Câu 5. Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn này có gì đặc sắc?

  • Ngôn ngữ tự nhiên, sử dụng nhiều khẩu ngữ.
  • Giọng điệu trần thuật có sự kết hợp giữ đối thoại và độc thoại…

Câu 6. Tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao qua truyện ngắn này?

Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thế xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay cả trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.

Câu 1. Trong truyện ngắn Đời thừa, Nam Cao viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có”.

Với những hiểu biết về sự nghiệp sáng tác Nam Cao, anh (chị) hãy phát biểu ý kiến về quan điểm nghệ thuật nói trên.

Gợi ý:

– Giải thích ý kiến: Đề cao tính sáng tạo của nhà văn.

– Ý kiến về quan điểm: Hoàn toàn đúng đắn.

– Ví dụ: Các tác phẩm viết về đề tài người nông dân của Nam Cao có sự khác biệt với các nhà văn khác (Không viết về những nỗi khổ thông thường, mà đào sâu vào quá trình tha hóa của những người nông dân hiền lành lương thiện)

Câu 2. Vì sao truyện ngắn Chí Phèo được coi là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại?

– Qua truyện ngắn này, Nam Cao khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa.

– Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thế xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay cả trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.

– Truyện giàu giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đồng thời thể hiện tài năng truyện ngắn bậc thầy với những nét độc đáo về nghệ thuật.