Vi sao sử dụng thuốc hóa học bảo vệ thực vật có khả năng tiêu diệt sâu bệnh hại

Biện pháp chính bảo vệ sản xuất nông nghiệp

Thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp tạo ra nhiều lợi ích, trong đó, nổi bật là phòng, trừ sâu bệnh gây hại, giúp tăng năng suất, sản lượng, bảo quản nông sản. Nếu sử dụng thuốc BVTV đúng mục đích và đúng kỹ thuật sẽ mang lại hiệu quả. Trong chuỗi sản xuất nông nghiệp, thuốc BVTV có vai trò quan trọng. Các nhà chuyên môn cho rằng, thiếu đi công cụ này, hơn nửa sản lượng lương thực toàn cầu sẽ bị thất thoát do tác hại của sâu, bệnh và cỏ dại, gây thiệt hại lớn về kinh tế và tác động xấu đến đời sống, thu nhập của người nông dân. Tại nước ta, đơn cử trên cây lúa, nếu không có các loại thuốc BVTV đặc trị vi-rút vàng lùn, lùn xoắn, ngành lương thực, nhất là cây lúa ở đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) sẽ bị tàn phá nặng nề. Cụ thể, vào những năm 1970 của thế kỷ trước, bệnh vi-rút vàng lùn phát sinh và gây hại nặng trên cây lúa ÐBSCL. Tiếp đến những năm 1978 đến 1980, bệnh vi-rút lúa lùn xoắn lá cũng gây hại hơn 40.000 ha lúa ở khu vực này. Ðến những năm 2000, vi-rút vàng lùn, lùn xoắn lại tiếp tục bùng phát. Tuy nhiên, nhờ kịp thời xây dựng quy trình và lựa chọn thuốc BVTV phòng, trừ phù hợp, dịch bệnh đã được khống chế, giảm thiểu được nhiều thiệt hại.

Theo Cục BVTV (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới với đặc thù nóng ẩm, mưa nhiều. Ðiều này tạo thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nhưng đồng thời cũng là điều kiện cho những loại sinh vật gây hại sinh sôi, nảy nở nhanh. Cùng với đó, vấn đề thâm canh tăng năng suất và biến đổi khí hậu cũng khiến cho nhiều sinh vật gây hại phát sinh, phá hoại trên diện rộng. Trong những trường hợp nêu trên, nếu không sử dụng thuốc BVTV để phòng, trừ dịch bệnh, ngành nông nghiệp sẽ tổn hại rất lớn.

Giám đốc HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Yên Phú, xã Yên Phú, huyện Yên Mỹ (Hưng Yên) Nguyễn Hữu Hưng cho biết, cả xã Yên Phú có hơn 500 ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó khoảng 300 ha trồng rau màu. Bình quân mỗi ngày HTX cung cấp cho thị trường từ 50 đến 70 tấn rau, củ. Sản xuất với quy mô lớn không tránh khỏi tình trạng bùng phát sâu bệnh trên cây trồng. Trong những trường hợp bệnh nặng không xử lý được bằng biện pháp thủ công chúng tôi phải sử dụng thuốc BVTV sinh học, hóa học phòng trừ sâu bệnh. Ðể bảo đảm an toàn, hợp tác xã đã chủ động và tích cực tuyên truyền, hướng dẫn các hộ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc "bốn đúng’’ gồm: đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng thời điểm và đúng phương pháp. Chúng tôi hướng dẫn người dân lựa chọn các loại thuốc có tác động chọn lọc, có hiệu lực cao, thời gian cách ly ngắn và ít độc đối với sinh vật có ích, ít gây hại với người tiêu thụ sản phẩm... Nhờ vậy, các sản phẩm nông sản của hợp tác xã những năm qua luôn bảo đảm chất lượng.

Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thuốc BVTV Việt Nam Nguyễn Văn Sơn cho biết, thuốc BVTV đã được sử dụng từ nhiều thập kỷ qua. Hiện, tất cả các nước trên thế giới đều sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp. Ở nước ta, loại vật tư nông nghiệp đặc thù này cũng đã được ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp từ gần 60 năm nay. Không thể phủ nhận việc sử dụng thuốc BVTV đã đem lại nhiều lợi ích kinh tế, kỹ thuật cho nhà nông, giúp tăng năng suất, chất lượng cây trồng và giá trị nông sản. Ðồng thời, diệt trừ sinh vật gây hại nhanh, triệt để, có thể chặn đứng dịch hại trong thời gian ngắn. Có thể khẳng định thuốc BVTV là một vật tư quan trọng không thể thiếu trong việc phòng, trừ dịch hại cây trồng, bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, để sử dụng thuốc BVTV an toàn, hiệu quả, nhà nông cần phải thực hiện nguyên tắc bốn đúng bao gồm: đúng thuốc, đúng lúc, đúng liều lượng và nồng độ, đúng cách; tuân thủ thời gian cách ly và thu gom bao bì thuốc BVTV sau sử dụng về đúng nơi quy định; bảo đảm hiệu quả, an toàn cho người, an toàn thực phẩm, hạn chế đến mức thấp nhất về ô nhiễm môi trường, bảo vệ hệ sinh thái.

Tuân thủ kỹ thuật khi sử dụng

Không thể phủ nhận thuốc BVTV là trợ thủ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc lạm dụng thuốc BVTV có thể gây ra nhiều hậu quả, như dư lượng thuốc BVTV còn tồn dư trên nông sản, làm giảm chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản trên thị trường, làm ngộ độc cấp tính người tiêu dùng; làm tăng nguy cơ về an toàn thực phẩm; diệt cả côn trùng và vi sinh vật có ích (thiên địch), là điều kiện để dịch bệnh phát triển, làm tăng chi phí sản xuất, tăng giá thành sản phẩm…

Ðể sử dụng thuốc BVTV an toàn, hiệu quả, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thuốc BVTV Việt Nam Nguyễn Văn Sơn cho rằng, thuốc BVTV được sử dụng phải nằm trong chương trình phòng trừ tổng hợp cây trồng và nông sản (IPM), mà trong đó điểm nổi bật là sử dụng thuốc BVTV theo nguyên tắc bốn đúng. Khi sử dụng thuốc BVTV đúng cách, đúng quy định, đúng thời gian cách ly thì sẽ bảo đảm được việc phòng trừ dịch hại, tăng năng suất cây trồng, an toàn cho sức khỏe con người, sinh vật có ích và cho môi trường.

Ðể bảo vệ sức khỏe cho người sản xuất, sử dụng, nông sản, môi trường… các công ty sản xuất và kinh doanh thuốc cần tiếp tục cải tiến các phương pháp chế biến thuốc, đưa ra thị trường các dạng chế phẩm có độ bám dính vào cơ thể sinh vật gây hại cao hơn (25 đến 30%) so với các dạng cổ điển trước đây chỉ 1 đến 2% (số còn lại bị rơi xuống đất). Ðồng thời, sản phẩm thuốc BVTV thân thiện với môi trường, nhất là các sản phẩm thuốc BVTV sinh học, các nhóm thuốc BVTV tiên tiến… Không nên phun thuốc định kỳ nhiều lần mà không dựa vào tình hình dịch hại. Ðiều này gây nên sự lãng phí và cũng là một trong những nguyên nhân gây hiện tượng "kháng thuốc" của dịch hại. Ngoài việc sử dụng thuốc BVTV, để kiểm soát dịch bệnh trên cây trồng người dân cần thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để kịp thời phát hiện dịch bệnh, từ đó có biện pháp phòng, trừ hiệu quả.

Minh Huệ

Trên Trái Đất có khoảng 1 triệu loài côn trùng, trong đó có khoảng 5 vạn loài ăn thực vật và chỉ có khoảng 1% (khoảng 500 loài côn trùng) chuyên ăn hoa màu, cây ăn quả. Tuy số lượng chủng loại không nhiều nhưng chúng rất phàm ăn và ăn rất khoẻ, gây tác hại rất lớn đối với cây lương thực, rau xanh, cây ăn quả. Theo thống kê, ở Trung Quốc mỗi năm sâu bọ gây tổn thất 10% sản lượng lương thực, 20% sản lượng dầu thực vật, 30% sản lượng rau xanh và 40% sản lượng trái cây các loại.

Ngành hoá học và công nghiệp hoá chất không ngừng phát triển và sản xuất ra hết loại thuốc sâu này đến loại thuốc sâu kia để đối phó với côn trùng có hại. Nhưng chỉ một thời gian sau các côn trùng có hại không sợ thuốc nữa. Con người buộc phải tăng liều lượng phun thuốc và thu được kết quả nhất định, nhưng cũng chỉ kéo dài được một thời gian.

Từ đó, con người lại tìm cách chế ra các loại thuốc sâu tổng hợp mới. Tính đến thập kỉ 70, toàn thế giới đã sử dụng hơn 12.000 loại thuốc trừ sâu để đối phó với côn trùng có hại. Nhưng trong thực tế, con người không những không tiêu diệt hết được côn trùng có hại mà càng ngày chúng càng phát triển hơn.

Vi sao sử dụng thuốc hóa học bảo vệ thực vật có khả năng tiêu diệt sâu bệnh hại

Nếu chỉ dựa vào thuốc trừ sâu thì không thể tiêu diệt hết được côn trùng có hại cho cây trồng. (Ảnh minh họa)

Ðến nay, loài người mới phát hiện ra rằng, nếu chỉ dựa vào thuốc trừ sâu thì không thể tiêu diệt hết được côn trùng có hại. Bởi trong quá trình sử dụng thuốc sâu tràn lan, đối tượng bị hại nhiều nhất không phải là côn trùng có hại mà là kẻ thù của chúng - đó là các loài chim có ích. Thực tế cho thấy rất nhiều loại chim có ích đã bị chết vì thuốc trừ sâu, trứng của nhiều loại chim bị nhiễm thuốc trừ sâu không thể nở thành chim non được.

Trong khi đó các loại sâu bọ có hại sinh sôi nảy nở rất nhanh và mau chóng nhờn thuốc. Dù phun với liều lượng lớn, chúng vẫn không chết mà vẫn sinh sôi nảy nở như thường. Thuốc sâu càng phun nhiều càng làm ô nhiễm không khí, nước, đất và cây trồng. Có thể thấy, hiện nay trên Trái Đất không có nơi nào không có thuốc trừ sâu xâm nhập vào môi trường sống.

Tuy nhiên, con người vẫn phải sử dụng thuốc trừ sâu trong phạm vi cho phép, nhưng không thể chỉ dựa vào thuốc trừ sâu để tiêu diệt côn trùng có hại. Ngày nay, con người ta áp dụng các biện pháp tổng hợp đối phó với côn trùng có hại, trong đó có biện pháp dùng côn trùng diệt côn trùng, dùng vi trùng diệt côn trùng và đặc biệt chú ý bảo vệ các loài chim chuyên ăn côn trùng có hại. Ngoài ra, giải pháp gây, nhân giống và nhập khẩu các loại côn trùng có ích để tiêu diệt côn trùng có hại cũng được áp dụng phổ biến. Chỉ như vậy mới có thể ngăn chặn được ô nhiễm môi trường và khống chế một cách hiệu quả các loại côn trùng có hại.

Tại Việt Nam, theo Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT) hiện có khoảng 1.700 hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật với trên 4.000 sản phẩm thương mại có các tên gọi khác nhau. Việc nghiên cứu khai thác lợi dụng thiên địch tự nhiên để phòng chống sâu hại hiệu quả là một hướng quan trọng trong công tác bảo vệ cây trồng, phát triển nông nghiệp bền vững.

Từ năm 2009, các nhà khoa học ở trường Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội thực hiện nhân nuôi nhện và bọ xít bắt mồi. Kết quả điều tra cho thấy, loài nhện bắt mồi Amblyseius sp. xuất hiện rất phổ biến trên các cây trồng bị nhện đỏ gây hại ở Việt Nam, kết quả nhân nuôi trong phòng thí nghiệm và ngoài đồng đều cho thấy loài này có tỉ lệ tăng tự nhiên cao, có sức ăn nhện hại lớn và hoàn toàn có khả năng khống chế số lượng nhện đỏ gây hại ngoài tự nhiên. Đặc biệt, việc nhân nuôi nhện bắt mồi lại rất thuận lợi với khí hậu miền Bắc nước ta.

So với cách phun thuốc trừ sâu, việc sử dụng thiên địch dường như còn mới mẻ và lạ lẫm với những người nông dân ở nước ta. Trong tương lai, việc phát triển nhân nuôi các loài nhện và bọ xít bắt mồi sẽ giúp cho giá thành sản phẩm phù hợp với chi phí của người nông dân và phải hạ thấp hơn so với chi phí mua thuốc trừ sâu, đồng thời giải quyết được áp lực ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật do sử dụng thuốc trừ sâu ngày càng nhiều, đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng.

Nguồn kinhtemoitruong