Bài tập về tội cố ý gây thương tích

Tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” có điểm mới so với các Bộ luật hình sự (BLHS) trước đây về hành vi chuẩn bị phạm tội, cụ thể: Tại khoản 6 Điều 134BLHS quy định: “Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.

Tại Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của TANDTC hướng dẫn thì quy định tại khoản 6 Điều 134 BLHS không bắt buộc người phạm tội phải hoàn thành hành vi khách quan là gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác và cũng không bắt buộc phải có hậu quả xảy ra. Người có hành vi chuẩn bị một trong các loại công cụ, phương tiện như: Vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì đã đủ dấu hiệu về mặt hành vi khách quan để xử lý hình sự người phạm tội.

Thế nhưng thực tiễn đã đặt ra, Cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần chứng minh chủ thể người nào chuẩn bị công cụ, phương tiện hoặc thành lập nhóm nhằm gây thương tích cho người khác, mà không cần chứng minh người khác là chủ thể (đối tượng) mà chủ thể chuẩn bị thực hiện tội phạm là ai, thì có cấu thành tội phạm này hay không?

Dưới đây là ví dụ điển hình: Nguyễn Sinh Sự thấy nhóm người đi đến hướng mình, Sự cho rằng nhóm này định đánh Sự, nên Sự nhắn tin cho Trần Bao Đồng là Sự bị nhóm người dí đánh, ở Cầu chữ Y, địa bàn huyện S, tỉnh T. Trần Bao Đồng thấy tin nhắn của Sự nên rủ Trần Côn đi đến cầu chữ Y để đánh trả lại nhóm người đó. Khi đi, Đồng chở Côn trên xe mô tô biển số XYZ, cả hai cầm hai cây dao, lưỡi dài 90cm, cán dài 37cm, trên đường đi đến chỗ Sự thì Tổ tuần tra Công an huyện S phát hiện, đưa cả hai về trụ sở Công an gần nhất, để làm rõ sự việc.

Quá trình làm rõ, theo nội dung như trên, thì Sự khai là không biết ai dí đánh nhưng Sự thấy nhóm người này đi lại gần nên bỏ chạy. Cơ quan tiến hành tố tụng không xác định nhóm người này là ai.

Quan điểm thứ nhất: Hành vi của Trần Bao Đồng và Trần Côn đã chuẩn bị hai cây dao để nhằm gây thương tích cho người khác nên theo quy định tại khoản 6 Điều 134 BLHS nên Trần Bao Đồng và Trần Côn đủ yếu tố cấu thành tội phạm tội Cố ý gây thương tích.

Quan điểm thứ hai: Thống nhất quan điểm thứ nhất, nhưng cần xem xét hành vi của Nguyễn Sinh Sự có vai trò đồng phạm, là người đưa tin, khởi xướng để Trần Bao Đồng, Trần Côn chuẩn bị vũ khí để nhằm gây thương tích cho người khác.

Theo quan điểm một và hai thì không cần chứng minh người khác mà Trần Bao Đồng, Trần Côn gây thương tích có người cụ thể (đối tượng) là ai? Chỉ cần có hành vi khách quan chuẩn bị vũ khí và theo lời khai ý chí của Trần Bao Đồng và Trần Côn là nhằm gây thương tích cho người khác thông qua sự việc của Nguyễn Sinh Sự là thỏa mãn quy định tại khoản 6 Điều 134 BLHS.

Tuy nhiên, quan điểm thứ ba cũng là quan điểm của tác giả là không đồng tình với quan điểm một và hai, khi xem xét trách nhiệm hình sự của Trần Bao Đồng, Trần Côn, Nguyễn Sinh Sự theo quy định tại khoản 6 Điều 134 BLHS, mà không cần tìm ra người bị hại. Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác, theo quy định BLHS trước đây cũng như hiện hành thì tại khoản 1 điều luật là cấu thành vật chất, thì cần phải có đối tượng (người bị hại) và hậu quả xảy ra. Đến BLHS hiện hành quy định tại khoản 6 Điều 134 người nào thực hiện các hành vi ở giai đoạn chuẩn bị (cấu thành hình thức) nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác thì cần phải xác định được đối tượng mà những người chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội là với ai?  Từ đó, cơ quan tiến hành tố tụng mới có thể đủ cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự theo quy định định tại khoản 6 Điều 134 BLHS.

Trên đây ý kiến cá nhân, rất mong nhận được ý kiến trao đổi của bạn đọc.

Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, Đồng Tháp xét xử vụ án cố ý gây thương tích - Ảnh: Ngọc Thùy

Anh H đến nhà người quen đòi nợ số tiền 70 triệu đồng, trong quá trình nói chuyện hai bên đã xảy xa mâu thuẫn, cãi vã và lăng mạ nhau. Do không kìm chế được bản thân, anh H đã dùng gậy đánh trọng thương chủ nhà. Nạn nhân được đưa lên viện, xác định chấn thương ở đầu và nhiều bộ phận khác mức độ thương tích 15%. Sau khi gây án anh H đã bỏ trốn. Người nhà bệnh nhân đã làm đơn lên Công an phường để yêu cầu giải quyết. Như vậy H sẽ bị xử phạt như thế nào ?

»Xem thêm: Hình thức xử lý hành vi cố ý gây thương tích của người nước ngoài tại Việt Nam

Bài tập về tội cố ý gây thương tích

Luật sư tư vấn:

Hành vi dùng gậy đánh trọng thương người khác của anh H với mức độ thương tật 15% có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm hoặc bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự quy định:

“Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.”

Theo quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì người bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khỏe phải có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự và căn cứ để xác định tỉ lệ thương tật là kết luận của Hội đồng giám định y khoa.

Bài tập về tội cố ý gây thương tích

Luật sư – Nguyễn Văn Tuấn – Giám Đốc Công ty Luật TGS

Ông là một luật sư giỏi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đất đai. Luật sư đã tham gia tranh tụng nhiều vụ án tranh chấp đất đai, vụ án hình sự, kinh tế, thương mại,.. trên toàn quốc.

Bài tập về tội cố ý gây thương tích

Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám Đốc Công ty Luật TGS

Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng là một luật sư giỏi, đã từng công tác tại Công ty Luật TNHH NHB và nhiều công ty luật có thương hiệu khác, với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Đất đai, hình sự, dân sự..

Bài tập về tội cố ý gây thương tích

Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Luật sư Công ty Luật TGS

Luật sư Đức Hùng từng công tác tại nhiều tổ chức hành nghề luật sư uy tín, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tranh tụng hình sự, đất đai, tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình.

Bài tập về tội cố ý gây thương tích

Luật sư Hà Huy Sơn – Luật sư Công ty Luật TGS

Là một luật sư giỏi trong lĩnh vực hình sự. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Hình Sự, luật sư Hà Huy Sơn đã gây dựng được cho mình thương hiệu riêng và sự uy tín vững chắc đối với khách hàng.

Bài tập về tội cố ý gây thương tích