Bảng hướng dẫn cho tôm sú ăn năm 2024

Đây là yếu tố chính chi phối giá thành của tôm sú. Chí phí chiếm đến 50 -60% tổng chi phí sản xuất trong loại hình nuôi thâm canh. Sử dụng thức ăn có chất lượng tốt cũng đồng nghĩa nâng cao chất lượng và giá trị tôm, bên cạnh đó cũng góp phần bảo vệ môi trường.

Thức ăn dùng trong bán thâm canh và thâm canh phần lớn là thức ăn công nghiệp có chất lượng tốt, đảm bảo giá trị dinh dưỡng đạm thô 30 – 40% và đã được kiểm tra chất lượng bởi các cơ quan chức năng. Các loại thức ăn tự chế thường không thích hợp cho ao nuôi sục khí.

Cho tôm ăn:

Cho ăn với tần suất 4 – 6 lần/ ngày phụ thuộc kích cỡ tôm, tần suất tăng khi tôm càng lớn. Tỉ lệ thức ăn phụ thuộc vào trọng lượng tôm và cách tính lượng thức ăn có ghi rõ trên bảng hướng dẫn cho tôm ăn do các đơn vị sản xuất thức ăn cung cấp. rải đều toàn bộ ao vì tôm có xu hướng kiếm mồi ở vùng đáy. Do vậy nên đáy ao sạch. Ao có chiều sâu phù hợp, tôm sẽ phân tán nhiều do vậy nên cho tôm ăn khắp ao là cần thiết.

Điều phối thức ăn:

Dựa vào cân nặng của tôm mà có định lượng thức ăn hợp lý Do đó người nuôi tôm cần kiểm tra cân nặng của tôm để tránh tình tình trạng dư thức ăn gây lãng phí, ô nhiễm ao hoặc thiếu thức ăn cung cấp đủ cho tôm sú.

Thường khi tôm còn bé dưới 30 ngày tuổi thì dùng sàn nhá cho tôm ăn để kiểm tra. Để kiểm tra tôm ăn mỗi hecta ao đầm đặt 6-8 sàn ăn (còn gọi là vó hay nhá). Kích cỡ mỗi sàn 0,8m x 0,8m. Sàn để ở sát đáy quanh bờ ao và cách bờ tầm 1m. Khi cho tôm ăn, rải tiếp 3% lượng thức ăn trong 1 lần ăn vào các sàn. Dựa vào tuổi và kích thước tôm mà gia giảm thời gian kiểm tra sàn ăn. Khi tôm lớn và đạt trọng lượng 7-10g/con, ước chừng khả năng kiêm mồi bằng cách kiểm tra lượng thức ăn còn lại trong sàn sau 2-3 giờ cho ăn. Xác định khả năng kiếm mồi của tôm thông qua kiểm tra thức ăn trong bộ phận tiêu hóa, thông dụng dùng chài kiểm tra. Cứ 7-10 ngày chài tôm 1 lần để lấy mẫu kiểm tra. Chỉ chài khi tôm ăn khoảng 2 giờ lúc buổi sớm hoặc chiều mát. Lấy mẫu ở các góc ao và giữa ao nhằm lấy chỉ số trung bình. Dựa vào lượng tôm chài được, ta ước chừng tỷ lệ sống và cân nặng cá thể tôm trong ao nuôi từ đó tính lượng thức ăn cần cho ăn.

  1. Điều tiết môi trường ao nuôi

Nuôi tôm sú thương phẩm với mật độ dày nên lượng thức ăn sử dụng lớn, cần nên điều tiết để tránh gây ô nhiễm môi trường. Thường xuyên dõi theo các yếu tố Ph, oxy hòa tan, độ kiềm, độ trong, màu nước, các khí độc ammoniac, sunfur hydro để cân chỉnh chất lượng ao nuôi.

Độ pH: Dõi theo độ pH của nước vào 2 thời điểm 6 – 7 giờ sáng hoặc 2 – 3 giờ chiều nhằm điều tiết pH luôn rời vào khoảng 7,5 – 8,5 và giữ cho mức dao động pH ngày và đêm không nhiều hơn 0,5 đơn vị.

Thường thì pH thấp khi sáng và cao khi chiều . Nếu pH dao động trên 0,5 đơn vị thì nên dùng vôi CaCO3 hoặc vôi Dolomite 7-10kg/ 1000 m3 hòa nước tát khắp ao khi trời tối.

pH<7,5 thì dùng vôi CaCO3 hoặc vôi tôi Ca(OH)2 với lượng 5- 7kg/ 1000m3 hòa nước tạt đều khắp ao

pH>8,5 thường kèm theo tảo phát triển mạnh, nếu có ao chứa thì thay bớt nước trong ao và áp các biện pháp sau:

– Đường trắng 2-3kg/ 1000m3 lúc 9-10 giờ sáng và mở máy sục khí.

– Formol: 5-7lít/ 1000m3 lúc 9 giờ sáng và mở máy sục khí

Trong diễn tiến nuôi, cứ 7 ngày 1 lần dùng vôi Dolomite hoặc vôi sống CaCO3 7-10kg/ 1000m3 để ổn định pH.

Điều tiết oxy hòa tan:

Lượng oxy hòa tan trong ao là điều kiện tiên quyết đối với sức khỏe tôm. Tôm phù hợp với lượng oxy >5mg/lít. Bổ sung oxy cần thiết cho tôm bằng các biện pháp sau:

Lắp đặt hệ thống quạt nước và sục khí có công dụng tăng oxy hòa tan và phân tán đồng đều oxy ở các tầng nước, tạo dòng chảy hướng chất thải vào giữa ao để có nền đáy sạch cho tôm bắt mồi. Hiện có rất nhiều loại máy khác nhau nhưng đa số người nuôi sử dụng cảnh quạt để quạt nước tăng cường oxy cho rẻ và sử dụng thuận lợi, chỉ cần dùng máy diezel là đủ mà không cần đến nguồn điện 3 pha.

Mỗi cánh quạt cung cấp đủ oxy cho 3000 – 3500 con tôm xuyên suốt vụ nuôi. Ngoài việc cung cấp oxy cho tôm nuôi máy quạt nước còn có tác dụng tạo dòng nước hướng chất thải vào giữa đáy ao và giải phóng khí độc từ đáy ao ra khỏi ao nuôi

Điều chỉnh màu nước:

Ao nuôi có chất lượng tốt mang màu xanh đọt chuối hoặc vàng nâu nhat và có độ trong 30 – 40cm. Kiểm soát màu nước trong ao nghĩa là điều tiết độ trong và đồng thời là điều khiển lượng tảo phát triển trong ao nuôi.

Nếu độ trong thấp hơn 20 – 25cm, màu nước bắt đầu đậm đặc nên tiết chế pH vào lúc sáng thấp hơn 8, thay bớt nước ao và bón vôi Dolomite lượng 7-10kg/ 1000m3 vào buổi sớm.

Nếu độ trong cao hơn 50cm, nước ao sẽ trong, lúc này nên bón phân vô cơ ure, NPK với lượng 1kg/ 1000m3 kết hợp bón thêm vôi Dolomite với lượng 5-7kg/ 1000m3

Cấp và thay nước:

Việc cấp và thay nước không theo chế độ nhất định, thường dựa vào chất lượng nước trong ao và ngoài môi trường. Trước khi đưa nước vào ao nuôi cần để lắng lọc tại ao chứa lắng hoặc khi nguồn nước lấy vào có khả năng mang mầm bệnh thì phải xử lý bằng Chlorin hay Formo 20-30g/ m3 tại ao chưa trước khi đưa vào ao nuôi.

Khoảng đầu vụ nuôi nước chủ yếu lấy cấp bù vì lượng nước bốc hơi và thẩm thấu. Thường sẽ thay nước vào tháng thứ 2 trở đi khi trong ao có ít độ trong, màu đậm, tảo phát triển vượt mức có thể lụi tàn. Khi thay nước không thay quá 20% nước trong ao để tránh bị “sốc” cho tôm khi môi trường thay đổi quá đột ngột. Sau mỗi lần thay đều kiểm tra các yếu tố môi trường để duy trì chất lượng nước ổn định.

  1. Ngừa bệnh cho tôm:

Cải tạo ao đìa tốt

Chọn giống chất lượng mật độ vừa đủ và thả giống đúng kỹ thuật

Cho tôm ăn đủ liều lượng và cả chất lượng

Kiểm soát môi trường ao nuôi tốt

– Xử trí bệnh thường thấy ở tôm nuôi

Virus: Bệnh SEMBV (thân đỏ đốm trắng), xảy ra vào giai đoạn tôm 40-50 ngày tuổi.

– Dấu hiệu: Bỏ ăn, lờ đờ, thân xuất hiện đốm trắng to nhỏ đường kính cỡ 1mm, tôm biến đổi từ màu hồng sang đỏ nâu, có hiện trạng chết rải rác hàng loạt trong thời gian 5-7 ngày.

– Hướng giải quyết: Không có biện pháp nào hiệu quả. Nếu tôm đạt kích thước thương phẩm thì thu hoạch ngay nhằm giảm thiểu sự hao hụt do bệnh gây ra. Kế đó dùng Chlorine hoặc Formalin liều cao 30g/ m2 để xử lý nước ao trước khi thải ra ngoài.

Vi khuẩn: Là tác nhân có mặt thường xuyên trong ao tôm, có thể gây nhiều bệnh nguy hiểm.

– Dấu hiệu: Đứt râu, cụt đuôi, phụ bộ gãy đứt, bệnh phát sáng, bệnh đốm đen, đốm nâu ở mang và phụ bộ, bệnh vi khuẩn dạng sợi bệnh hoại tử như teo nhỏ, chảy rữa gan tụy.

– Hướng giải quyết: Cải thiện chất lượng nước, thay nước sạch, dùng vôi sống CaCO3 nhằm lắng tụ chất vẩn hữu cơ và tăng cường sục khí. Tăng đề kháng bằng cách bổ sung vitamin C vào thức ăn. Dùng 1 số kháng sinh như Furacin, Oxytetracylin liều 40 -50mg/ 1kg thức ăn, liên tục trong 4-5 ngày. Dùng Bejalkonium Chloride (BKC) hoặc Cleaner 80 phun thẳng xuống ao với liều dùng 0,4 -0,5 ml/ m3, đồng thời mở máy quạt nước hoặc máy sục khí.

Bệnh do nguyên sinh động vật: Bệnh đóng rong: Bệnh này hay xảy ra ở tôm yếu, do sự phát triển của các chất bẩn và sinh vật trong ao bám vào thân tôm gây ên.

– Hướng giải quyết: Hạn chế ô nhiễm môi trường ngăn sinh vật gây bệnh phát triển. Bón vôi định kỳ. Đảm bảo duy trì hàm lượng oxy hòa tan cao. Dùng Formain 15-25ml/ m3 , có thể lặp lại sau 5-7 ngày. Mở máy sục nước và thay 1 phần nước để kích thích tôm lột xác.

Bệnh do môi trường:

– Bệnh đen mang: Tôm 2 tháng tuổi thường dính, là do môi trường nước chứa các chất độc như hợp chất đồng, thuốc tím, NH, pH thấp hoặc nấm và các động vật đơn bào.

+ Dấu hiệu: Mang tôm chuyển vàng, nâu đen và chứa nhiều dịch nhầy, có trường hợp bị thối. Con yếu chết rải rác khắp bờ.

– + Hướng giải quyết: Dùng Cleaner 80 phun thẳng xuống ao với lượng dùng 0,5 -0,6ml/ m3 lúc 8-9 giờ sáng, đồng thời thay nước. Bổ sung vitamin C vào thức ăn hàng ngày. Tránh hiện trạng tảo tàn xảy ra trong ao

– Tôm bị mềm vỏ: Xảy ra nhiều đối với ao nuôi có mật độ cao

+ Dấu hiệu: Sau khi lột xác 24g, vỏ tôm không cứng lại được nên yếu, bắt mồi kém, có tình trạng mềm vỏ dài hạn, thường sẽ dạt bờ hoặc vùi mình xuống đáy ao.

+ Hướng giải quyết: Chú trọng dinh dưỡng tôm, đặc biệt là khoáng chất và vitamin. Tăng oxy hòa tan, thay bớt nước và ổn định pH. Bón vôi sống CaCO